BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------------------------
PHAN TẤN LỰC
TÁC ĐỘNG CỦA TÍNH CÁCH, GIÁO DỤC VÀ KINH NGHIỆM ĐẾN
Ý ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH XÃ HỘI
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 9340101
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2021
Công trình được hoàn thành tại: Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Phạm Xuân Lan
2. PGS. TS Bùi Thanh Tráng Phản biện 1: ........................................................................... .............................................................................................. Phản biện 2: ........................................................................... .............................................................................................. Phản biện 3: ........................................................................... .............................................................................................. Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp trường họp tại: ...................................................................................................... Vào hồi ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm …..
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: …………………………………………………………………..
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Phan Tan Luc, Pham Xuan Lan & Angelina Nhat Hanh Le (2019). A Systematic Literature Review
on Social Entrepreneurial Intention. Journal of Social Entrepreneurship, 1-16. DOI:
10.1080/19420676.2019.1640770. (Scopus Q2)
2. Phan Tan Luc, Pham Xuan Lan, Angelina Nhat Hanh Le & Bui Thanh Trang (2020). A Co-Citation
and Co-Word Analysis of Social Entrepreneurship Research, Journal of Social Entrepreneurship, DOI:
10.1080/19420676.2020.1782971. (Scopus Q2)
3. Phan Tan Luc, Pham Xuan Lan & Bui Thanh Trang (2020). Personality Traits and Social
Entrepreneurial Intention: The Mediating Effect of Perceived Desirability and Perceived Feasibility.
The Journal of Entrepreneurship. DOI: 10.1177/0971355720974811. (Scopus Q2).
1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Nền tảng nghiên cứu
Kinh doanh xã hội (KDXH) đang giữ một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cung cấp các giải pháp cho
những vấn đề xã hội (Ellis, 2010; Dees, 2017). KDXH được xem như hình thức kinh doanh có lợi cho toàn xã
hội vì nó nhắm đến giải quyết các vấn đề xã hội mà chính phủ hay doanh nghiệp thương mại thông thường
không giải quyết hoặc không đáp ứng được thông qua các giải pháp sáng tạo hướng đến việc tạo ra các giá trị
xã hội hơn là các giá trị kinh tế (Alvord và cộng sự, 2004). Hình thức KDXH phổ biến nhất là các doanh nghiệp
xã hội (DNXH). Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam, DNXH được hiểu là những doanh nghiệp hoạt động
không vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà hướng tới mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội và cam kết tái đầu
tư 51% lợi nhuận hàng năm vào các mục tiêu xã hội đã cam kết ban đầu. Mặc dù nguồn lực vẫn còn hạn chế
nhưng có thể thấy được trong những năm qua KDXH đã góp phần chia sẻ trách nhiệm và các gánh nặng với
Nhà nước, đồng thời đã khắc phục được sự vận hành bởi động cơ lợi nhuận trong cơ chế thị trường hiện nay
(Pham và cộng sự, 2016). Với việc luật hóa DNXH trong Luật Doanh nghiệp 2014 đã tạo nên tiền đề quan
trọng cho việc hình thành môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp khuyến khích cho sự phát triển
của DNXH. Có thể nói Luật Doanh nghiệp sửa đổi ban hành tháng 11/2014 đã đi vào lịch sử, mở ra một
chương mới cho cộng đồng doanh nghiệp Việt khi lần đầu tiên khai sinh khái niệm DNXH chính thức trong
hệ thống pháp lý. Những doanh nghiệp này giúp cải thiện cuộc sống cho hơn 600,000 người, đa số là người
dân ở vùng sâu, những lao động khuyết tật, dân tộc thiểu số và tạo việc làm cho hơn 100,000 người ở nhiều
lĩnh vực khác nhau (CSIP, 2018). Ngoài ra, tinh thần KSKDXH cũng bắt đầu được lan rộng trong cộng đồng.
Các khái niệm về DNXH, KSKDXH cũng bắt đầu nhận được nhiều sự quan tâm của giới trẻ, các doanh nhân
thương mại, các nhà tài trợ…
Về mặt học thuật, tác giả thực hiện tìm kiếm cụm từ social entrepreneurship trong trường chủ đề (tiêu đề
/tóm tắt/ từ khóa) trên các cơ sở dữ liệu uy tín. Kết quả tìm kiếm ban đầu có 1,670 ấn phẩm. Trong số này, có
392 ấn phẩm bị loại trùng lắp nội dung hoặc chúng không liên quan đến KSKDXH. Kết quả là, còn lại 1,278
ấn phẩm được chọn để phân tích các chủ đề trong KSKDXH bằng phương pháp đồng trích dẫn. Đồng trích
dẫn (co-citation) được định nghĩa là tần suất hai ấn phẩm được trích dẫn cùng nhau bởi các ấn phẩm khác
(Small, 1973). Tác giả sử dụng phần mềm VOSViewer (van Eck và Waltman, 2009; Waltman, 2017) để phân
tích đồng trích dẫn 1,278 ấn phẩm này. Kết quả phân tích đồng trích dẫn cho thấy các ấn phẩm về KSKDXH
hình thành năm nhóm chủ đề (Hình 1.1).
KHỞI SỰ KINH DOANH XÃ HỘI
(Nguồn: kết quả phân tích đồng trích dẫn của tác giả)
Nhóm 4. Sự đổi mới xã hội trong KSKDXH Nhóm 5. Bối cảnh trong KSKDXH Nhóm 1. Sự phát triển khái niệm KSKDXH và DNXH Nhóm 3. Sự nhận thức cơ hội, động lực và YĐKSKDXH Nhóm 2. Bricolage và các vấn đề liên quan đến quản lý trong KDXH
Hình 1.1 Các nhóm nghiên cứu trong chủ đề KSKDXH
2
Nhóm nghiên cứu đầu tiên là sự phát triển khái niệm KSKDXH và DNXH, tập trung vào xây dựng các khái
niệm và các cách tiếp cận khác nhau về KSKDXH và DNXH. Nhóm nghiên cứu thứ hai đề cập đến bricolage
và các vấn đề liên quan đến quản lý trong KSKDXH. Bricolage trong KSKDXH bao gồm các hoạt động được
thúc đẩy bởi việc theo đuổi các nguồn lực khan hiếm để tạo ra các giải pháp sáng tạo và có giá trị, tạo ra các
giá trị xã hội (Bacq và cộng sự, 2015). Các khía cạnh khác nhau của bricolage được xem xét trong nhóm nghiên
cứu này. Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến quản trị trong DNXH cũng được xem xét như chiến lược, sự hợp
tác, huy động nguồn lực, công nghệ, quản lý tài chính, định hướng thị trường... Nhóm nghiên cứu thứ ba bao
gồm các nghiên cứu về nhận thức cơ hội và YĐKSKDXH, giải thích quá trình xác định cơ hội và hình thành
YĐKSKDXH. Ngoài ra, các yếu tố ảnh hưởng đến YĐKSKDXH cũng là hướng nghiên cứu chính trong nhóm
nghiên cứu này. Nhóm nghiên cứu thứ tư giải thích cách thức DNXH tác động đến xã hội để tạo ra đổi mới xã
hội, thay đổi xã hội và giá trị xã hội. Nhóm nghiên cứu cuối cùng đề cập đến vai trò của các yếu tố thuộc về
bối cảnh, thể chế, thảo luận về các yếu tố môi trường ảnh hưởng đến KSKDXH.
Từ lược khảo về KSKDXH đã thực hiện ở trên, có thể thấy nhóm nghiên cứu về sự nhận thức cơ hội, động
lực và ý định KSKDXH (nhóm 3) là chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm từ giới học thuật minh chứng thông
qua số lượng lớn các nghiên cứu trong nhóm này. Tuy nhiên, hiện nay có một vấn đề đang được báo động là
mức độ KDXH vẫn rất thấp ở các nước trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam mặc
dù tiềm năng của hình thức kinh doanh này tại Việt Nam vẫn là rất lớn. Krueger (2003) giải thích rằng kinh
doanh chỉ có thể phát triển nếu chất lượng và số lượng doanh nhân tăng lên. Chính vì vậy tăng số lượng DNXH
là mong muốn cấp bách để phát triển KDXH tại Việt Nam.
Ý định kinh doanh là một trong những chỉ báo tốt nhất cho hành vi kinh doanh (Ajzen và Fishbein, 1980).
Do đó, để có thể có chiến lược phát triển KDXH, thì việc nghiên cứu YĐKSKDXH là vô cùng cần thiết. Hiện
nay, tại Việt Nam đang có sự gia tăng về số lượng của các tổ chức hỗ trợ phát triển DNXH với nhiều loại hình
hỗ trợ khác nhau như cung cấp miễn phí các khóa học, đào tạo và dịch vụ tư vấn, gọi vốn... Các tổ chức có
nhiều kinh nghiệm trong KSKDXH tại Việt Nam như Cộng đồng DNXH Việt Nam (SSEC), Seed Planters,
Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP), HATCH! và Evergreen Labs. Ngoài ra, một số cơ sở
ươm tạo DNXH cũng được chính phủ thành lập như trung tâm đổi mới Sài Gòn (SiHUB), Trung tâm hỗ trợ
khởi nghiệp cho thanh niên (sYs), BKHUP và Chương trình Quốc gia khởi nghiệp cũng góp phần phát triển
KSKDXH tại Việt Nam. Những đặc điểm này đã khiến Việt Nam trở thành một khu vực phù hợp để thực hiện
nghiên cứu về YĐKSKDXH.
Về mặt học thuật, tác giả cũng thực hiện tìm kiếm những ấn phẩm bằng tiếng Anh trên các cơ sở dữ liệu uy
tín với cụm từ social, entrep* and intent* để lược khảo các nghiên cứu về YĐKSKDXH. Tác giả đọc kỹ các
tiêu đề, tóm tắt và từ để loại bỏ các bài báo trùng lặp và nghiên cứu không liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
Kết quả cuối cùng, có tổng cộng 36 nghiên cứu nghiên cứu về YĐKSKDXH. Kỹ thuật phân tích nội dung
được sử dụng để phân tích 36 bài báo, vì kỹ thuật này có khả năng xác định các lĩnh vực chính của chủ đề
nghiên cứu (Elo và Kyngäs, 2008; Krippendorff, 2004). Trong phân tích nội dung theo chủ đề, các bài viết
được tác giả phân loại và mã hóa các đặc điểm của các bài viết này. Sau khi phân tích 36 bài, các đặc điểm của
những bài viết được liên kết với nhau để hình thành các nhóm danh mục và các nhóm chủ đề trong từng danh
mục. Kết quả phân tích lược khảo về YĐKSKDXH dẫn đến hình thành bốn danh mục nghiên cứu chính: Mô
hình nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến phương pháp luận và cách tiếp cận (gồm 12 nghiên cứu); Các yếu
tố thuộc về cá nhân (gồm 19 nghiên cứu); Bối cảnh và thể chế (gồm 4 nghiên cứu); Quá trình từ ý định đến
quyết định (gồm 1 nghiên cứu) (bảng 1.2).
3 Bảng 1.2 Danh mục và các chủ đề trong YĐKSKDXH
Danh mục Chủ đề trong từng danh mục
- Kiểm tra/mở rộng mô hình cổ điển (7) Danh mục 1. Mô hình nghiên cứu, các vấn đề liên - Cách tiếp cận (3) quan đến phương pháp luận và cách tiếp cận (12) - Phương pháp (2)
- Tính cách (9)
Danh mục 2. Các yếu tố thuộc về cá nhân (19) - Lý lịch cá nhân (8)
- Các vấn đề liên quan đến giới tính (2)
- Các nghiên cứu về đa văn hóa (2)
Danh mục 3. Bối cảnh và thể chế (4) - Các yếu tố thuộc về thể chế (1)
- Cấp độ tổ chức (1)
*số lượng nghiên cứu được thể hiện trong ngoặc đơn
(nguồn: tác giả tổng hợp)
Danh mục 4. Quá trình từ ý định đến quyết định (1)
Danh mục 1. Mô hình nghiên cứu, các vấn đề liên quan đến phương pháp luận và cách tiếp cận (12
nghiên cứu)
Các nghiên cứu trong danh mục này kiểm tra các mô hình YĐKSKDXH, giải quyết các vấn đề lý thuyết
hoặc sử dụng các cách tiếp cận và phương pháp mới. Tác giả đã tìm thấy ba chủ đề trong danh mục này, bao
gồm: Kiểm tra/mở rộng mô hình cổ điển, cách tiếp cận mới và phương pháp mới.
Về chủ đề đầu tiên - kiểm tra/mở rộng mô hình cổ điển - bảy nghiên cứu được phân loại vào chủ đề này.
Cụ thể, dựa trên mô hình doanh nhân tiềm năng của Kruger and Brazeal (1994), Noorseha (2013) nghiên cứu
YĐKSKDXH với hai biến bổ sung là sự đồng cảm và sự tiếp xúc với hoạt động KDXH. Hockerts (2017) và
Forster và Grichnik (2013) kiểm tra mô hình YĐKSKDXH của Mair and Noboa (2006). Trong khi Hockerts
(2017) bổ sung biến kinh nghiệm với các vấn đề xã hội, Forster và Grichnik (2013) đề xuất một mô hình mới
kết hợp các biến như sự đồng cảm, nhận thức của xã hội, khả năng của bản thân và nhận thức khả năng thành
công khi KSKDXH. Hai nghiên cứu tiếp theo kế thừa mô hình của Hockerts (2017) và kiểm tra tại Hồng Kong
(Ip và cộng sự, 2017) và Philippines (Aure, 2018). Tiwari và cộng sự (2017a) khám phá vai trò của phong cách
nhận thức và niềm tin vào năng lực tác động như thế nào đến YĐKSKDXH thông qua ba yếu tố thái độ, chuẩn
mực chủ quan và nhận thức kiểm soát hành vi. Gần đây nhất, để kiểm tra khả năng áp dụng của thuyết hành vi
có kế hoạch (theory of planned behavior), Zaremohzzabieh và cộng sự (2019) thực hiện một phân tích tổng
hợp (meta-analysis) để đề xuất hai mô hình mở rộng thay thế mô hình truyền thống.
Trong chủ đề nghiên cứu thứ hai cách tiếp cận mới với ba bài nghiên cứu. Tran và Von Korflesch (2016)
đóng góp vào sự hiểu biết về YĐKSKDXH bằng cách giới thiệu lý thuyết nhận thức xã hội nghề nghiệp (SCCT
- Social cognitive career theory). Trong khi Beugré (2014) tiếp cận dựa trên lý thuyết về sự gắn kết đạo đức
để giải thích động lực thúc đẩy việc thành lập DNXH, Rivera và cộng sự (2018) thực hiện nghiên cứu bằng
cách sử dụng cách tiếp cận lãnh đạo phục tùng (servant leadership approach) và lý thuyết về phong cách sống
(lifestyles theory) để đo lường YĐKSKDXH. Tóm lại, những cách tiếp cận này cho thấy sự tiềm năng trong
đo lường YĐKSKDXH, mặc dù vậy, những cách tiếp cận này cần phải được kiểm tra, so sánh và đối chiếu để
hoàn thiện hơn về khả năng áp dụng trong tương lai.
Chủ đề nghiên cứu cuối cùng trong danh mục 1 là phương pháp nghiên cứu. Baierl và cộng sự (2014) sử
dụng một thiết kế thử nghiệm dựa trên bảng câu hỏi để cho thấy ảnh hưởng tích cực của đánh giá xã hội đến
4
YĐKSKDXH. Để phác họa về một doanh nhân xã hội, Bacq và cộng sự (2016) đã thực hiện bốn bộ hồi quy
nhị phân để tìm sự khác nhau giữa các doanh nhân xã hội và doanh nhân thương mại dựa bộ dữ liệu khảo sát
của GEM (Global Entrepreneurship Monitor) năm 2009.
Danh mục 2. Các yếu tố thuộc về cá nhân (19 nghiên cứu)
Đa số ấn phẩm về YĐKSKDXH thuộc danh mục này. Trong danh mục này, chín bài báo tập trung vào vai
trò của tính cách tạo thành nhóm chủ đề về tính cách. Chủ đề thứ hai với tám bài báo liên quan đến nhiều yếu
tố nền tảng khác nhau như giáo dục, địa vị và động lực. Danh mục cuối cùng bao gồm hai nghiên cứu về vai
trò của giới tính.
Trong nhóm yếu tố tính cách, có chín nghiên cứu thảo luận về những tính cách đặc biệt của doanh nhân xã
hội tiềm năng. Để khám phá tính cách chung của một doanh nhân xã hội tiềm năng, Nga và Shamuganathan
(2010) và Preethi và Priyadarshini (2018) sử dụng mô hình Năm tính cách lớn (Big Five model) bao gồm sự
tận tâm (conscientiousness), sẵn sàng trải nghiệm (openness), sự ổn định trong tâm lý (emotional stability or
neuroticism in reverse), hướng ngoại (extraversion) và sự dễ chịu (agreeableness) để đo lường năm khía cạnh
của YĐKSKDXH bao gồm tầm nhìn xã hội, lợi nhuận tài chính, sự đổi mới, tính bền vững và mạng xã hội,
trong khi đó Ip và cộng sự (2018a) chỉ kiểm tra tác động của năm tính cách này đến YĐKSKDXH. Sau đó,
những tính cách cụ thể đã được nghiên cứu, chẳng hạn như xu hướng chấp nhận rủi ro, tính sáng tạo và tính
chủ động (Chipeta và Surujlal, 2017; Politis và cộng sự, 2016; Kedmenec và cộng sự, 2015; Prieto, 2011), trí
tuệ cảm xúc và năng lực bản thân (Tiwari và cộng sự, 2017c), và sự khó khăn trong cuộc sống và trách nhiệm
đạo đức (Kedmenec và cộng sự, 2015; Bacq và Alt, 2018).
Liên quan đến các yếu tố thuộc về lý lịch cá nhân, tám nghiên cứu trong chủ đề này tập trung vào vai trò
các yếu tố nền tảng khác nhau ảnh hưởng đến YĐKSKDXH. Có hai nghiên cứu xem xét vai trò của giáo dục
đối với YĐKSKDXH. Shahverdi và cộng sự (2018) xác định các rào cản trong việc hình thành YĐKSKDXH
bằng cách kiểm duyệt vai trò của giáo dục trong các trường đại học tại Malaysia. Hockerts (2018) tập trung
vào mối quan hệ giữa quá trình học tập, kinh nghiệm và xu hướng thành lập DNXH. Ngoài ra, một số yếu tố
nền tảng cũng được nghiên cứu như hoàn cảnh gia đình và môi trường đại học (Radin và cộng sự, 2017), kinh
nghiệm làm việc (Lacap và cộng sự, 2018), khả năng tiếp cận tài chính (Luc, 2018), vốn con người và vốn xã
hội (Jemari và cộng sự, 2017), nhu cầu động lực (Barton và cộng sự, 2018) và định hướng đổi mới xã hội
(Cavazos-Arroyo và cộng sự, 2017).
Có hai bài báo trong nhóm chủ đề về giới tính tìm hiểu vai trò của giới tính. Notais và Tixier (2017) tìm
hiểu điều gì thúc đẩy mong muốn của những người phụ nữ khiến họ trở thành doanh nhân xã hội. Lortie và
cộng sự (2017) từ các lược đồ về giới tính (gender self-schemas) và lý thuyết bản sắc xã hội (social identity
theory) để giải thích tại sao phụ nữ có xu hướng tự tạo ra các mục tiêu xã hội và giải quyết nó thông qua việc
KSKDXH.
Danh mục 3. Bối cảnh và thể chế (4 nghiên cứu)
Danh mục này chỉ có bốn bài báo dành sự quan tâm cho vai trò của bối cảnh đến YĐKSKDXH. Ba chủ đề
trong danh mục này bao gồm: nghiên cứu về đa văn hóa, các nghiên cứu về thể chế và nghiên cứu ở cấp độ tổ
chức.
Có hai bài báo liên quan đến nghiên cứu đa văn hóa, tập trung vào việc so sánh YĐKSKDXH giữa các
quốc gia. Các quốc gia được so sánh bao gồm Hoa Kỳ và Trung Quốc (Yang và cộng sự, 2015b), Đài Loan và
Hồng Kông (Ip và cộng sự, 2018a). Kết quả chỉ ra rằng YĐKSKDXH không đồng nhất giữa các nền văn hóa
và YĐKSKDXH các cá nhân bị ảnh hưởng bởi văn hóa. Liên quan đến các biến thể chế chỉ có một bài báo của
Urban và Kujinga (2017a) nghiên cứu vai trò của thể chế tại châu Phi và cho kết quả tích cực đến YĐKSKDXH.
5
Cuối cùng, liên quan đến cấp độ tổ chức, bài báo của Tan và Yoo (2015) tạo thành một chủ đề của riêng biệt.
Nghiên cứu này chỉ ra các thuộc tính tổ chức và các nhiệm vụ xã hội có vai trò quan trọng đến YĐKSKDXH
của những cá nhân trong tổ chức đó.
Danh mục 4. Quá trình từ ý định đến quyết định (1 nghiên cứu)
Danh mục này tập trung vào tìm hiểu về cơ chế từ YĐKSKDXH sang quyết định KSKDXH. Chỉ có một
nghiên cứu trong danh mục này. Salhi (2018) xem xét vai trò của động lực cá nhân trong quá trình từ
YĐKSKDXH sang quyết định thành lập DNXH.
Từ kết quả danh mục và các chủ đề trong YĐKSKDXH ở bảng trên có thể thấy các yếu tố tác động đến
YĐKSKDXH của một cá nhân rất đa dạng, tuy nhiên trong luận án này sẽ tập trung vào nhóm nghiên cứu
thuộc danh mục 2 (Các yếu tố thuộc về cá nhân) mà cụ thể sẽ là vốn con người. Vốn con người là một trong
những yếu tố cơ bản nhất cần phải tìm hiểu khi nghiên cứu ý định ở một lĩnh vực mới như KSKDXH (Marvel
và cộng sự, 2016). Các tính cách, kinh nghiệm và giáo dục đều là những thành phần cốt lõi trong vốn con
người (Marvel và cộng sự, 2016). Sự quan tâm đến các yếu tố này gia tăng đồng thời với sự quan tâm dành
cho tác động của vốn con người đến KSKD trong trong hai thập kỷ qua (Marvel và cộng sự, 2016). Lý thuyết
vốn con người ban đầu được phát triển để nghiên cứu giá trị của giáo dục (Becker, 1964; Schultz, 1961) và
cho thấy những cá nhân có kiến thức và kỹ năng có khả năng tạo ra các giá trị kinh tế. Unger và cộng sự (2011)
kế thừa những quan điểm này và đưa ra lý thuyết đầu tư vào vốn con người (theory of investments in human
capital) dựa trên những bằng chứng cho thấy những người có trình độ học vấn và kỹ năng cao hơn hầu như
luôn có thu nhập cao hơn những người còn lại. Lý thuyết này áp dụng vào lĩnh vực KSKD thông qua việc liên
kết các thuộc tính thuộc về bản chất của con người với thành công của doanh nhân khi KSKD (Unger và cộng
sự, 2011). Một số nghiên cứu sau đó lý giải lý do tại sao tính cách, kinh nghiệm và giáo dục có tầm quan trọng
đặc biệt đối với KSKD như giúp khám phá và tạo ra những cơ hội KSKD (Alvarez và Barney, 2007; Marvel,
2013) hay tạo ra sự khác biệt cho doanh nghiệp (Bradley và cộng sự, 2012; Corbett và cộng sự, 2007) hoặc
làm giảm những rủi ro trong nhận thức của các cá nhân về KSKD (Zacharakis và Meyer, 2000).
Có thể nói vốn con người là một cấu trúc khá rộng và có nhiều cách tiếp cận, tuy nhiên dù ở cách tiếp cận
nào thì tính cách, kinh nghiệm và giáo dục vẫn là những thành phần cốt lõi không thể thiếu trong vốn con
người. Một trong những quan điểm nổi bật là của Ployhart và Moliterno (2011), quan điểm này chia vốn con
người thành hai loại là vốn con người nhận thức (kinh nghiệm và giáo dục) và vốn con người không nhận thức
(tính cách và động lực). Theo đó, vốn con người nhận thức có xu hướng nhìn thấy và phát triển, trong khi vốn
con người không nhận thức có xu hướng ẩn và khó phát triển. Từ đó, có thể thấy mặc dù chung cấu trúc vốn
con người nhưng bản chất của các tính cách với giáo dục và kinh nghiệm là khác nhau do đó luận án này sẽ
thực hiện hai nghiên cứu thực nghiệm tương ứng với hai nhóm yếu tố trên bao gồm tính cách (vốn con người
không nhận thức) và kinh nghiệm, giáo dục (vốn nhận thức) để tìm hiểu tác động của từng nhóm đến
YĐKSKDXH. Việc thực hiện hai nghiên cứu là cách tiếp cận phù hợp vì những lí do sau:
Thứ nhất, đây là hai nhóm vốn con người có sự khác biệt trong bản chất. Nếu như những tính cách chịu
ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong như trí tuệ, tinh thần, bản năng, cảm xúc, ham muốn, thói quen và cách
suy nghĩ (McClelland, 1965) thì kinh nghiệm và giáo dục lại bị ảnh hưởng bởi các nhân tố bên ngoài như sự
trải nghiệm, tác động của các khóa học, các công việc đã trải qua…(Alvarez và Barney, 2007; Marvel và cộng
sự, 2016). Do đó, cơ chế hình thành YĐKSKDXH thông qua các tiền đề cũng đòi hỏi phải được xem xét một
cách phù hợp với từng nhóm yếu tố, do đó việc kết hợp xem xét cùng lúc hai nhóm yếu tố vốn con người với
cùng các tiền đề để dẫn đến ý định là không phù hợp. Cụ thể trong luận án này, các tính cách sẽ được xem xét
thông qua hai tiền đề trước khi đến YĐKSKDXH là sự mong muốn và tính khả thi trong khi giáo dục KSKDXH
6
và kinh nghiệm sẽ được xem xét thông qua hai tiền đề niềm tin vào năng lực KSKDXH và kết quả mong đợi
từ KSKDXH.
Từ lược khảo về YĐKSKDXH, các yếu tố trong vốn con người nhận được rất nhiều sự quan tâm từ cộng
đồng học thuật trong thời gian gần đây (Tan và cộng sự, 2019), bằng chứng là rất nhiều nghiên cứu tập trung
vào vai trò của giáo dục, kinh nghiệm hay tính cách (Chipeta và Surujlal, 2017, Politis và cộng sự, 2016,
Kedmenec và cộng sự, 2015, Prieto, 2011) tuy nhiên các nghiên cứu này cũng chỉ là những nghiên cứu riêng
lẻ vì bản chất của các yếu tố này trong YĐKSKDXH vẫn chưa được khám phá một cách toàn diện do đó việc
xem xét đồng thời các yếu tố dễ dẫn đến sự chồng chéo và không xác định rõ các hiệu ứng tác động. Có thể kể
đến như tính cách là một danh mục lớn trong ý KSKDXH (Tan và cộng sự, 2019), việc xem xét tương tác với
các yếu tố khác là chưa thật cần thiết khi ngay cả các tính cách của doanh nhân xã hội vẫn còn là một chủ đề
chưa được làm rõ và nhiều nghiên cứu hiện nay cũng chỉ tập trung chuyên sâu vào tính cách hơn là kết hợp nó
với các yếu tố khác trong mô hình YĐKSKDXH (Nga và Shamuganathan, 2010; Aure, 2018; Chipeta và
Surujlal, 2017; Prieto, 2011). Với những lí do trên, luận án nhằm sẽ thực hiện hai nghiên cứu để kiểm tra tác
động của hai loại loại vốn con người đến YĐKSKDXH:
Nghiên cứu thứ nhất: tác động của tính cách đến YĐKSKDXH.
Nghiên cứu thứ hai: tác động của hai yếu tố kinh nghiệm và giáo dục đến YĐKSKDXH.
VỐN CON NGƯỜI (Ployhart và Moliterno, 2011)
Vốn con người không nhận thức Vốn con người nhận thức (kinh
(tính cách) nghiệm và giáo dục)
Nghiên cứu 1. Tác động của tính Nghiên cứu 2. Tác động của kinh
Nguồn: tác giả tổng hợp
cách đến YĐKSKDXH nghiệm và giáo dục đến YĐKSKDXH
Hình 1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm tương ứng với các loại vốn con người
1.2 Khoảng trống nghiên cứu
Thứ nhất, YĐKSKDXH là một nhánh nghiên cứu quan trọng trong KSKDXH và cũng nhận được rất nhiều
sự quan tâm, nhưng chưa có một nghiên cứu nào thực hiện lược khảo các các nghiên cứu YĐKSKDXH, xác
định các danh mục, các hướng nghiên cứu trong chủ đề này. Thứ hai, đa phần các nghiên cứu về YĐKSKDXH
sử dụng các lý thuyết ý định từ KSKD thương mại như mô hình sự kiện doanh nhân của Shapero (Shapero và
Sokol, 1982) hay thuyết hành vi có kế hoạch (Ajzen, 1991). Với sự phát triển của các lý thuyết mới như mô
hình YĐKSKDXH đầu tiên của Mair và Noboa (2006) hay cách tiếp cận mới từ lựa chọn nghề nghiệp với
SCCT (Social Cognitive Career Theory) (Lent và cộng sự, 1994) thì việc sử dụng các mô hình lý thuyết mới
cũng nên được quan tâm và đánh giá khả năng áp dụng trong bối cảnh KSKDXH. Thứ ba, các nghiên cứu
trước chưa làm nổi bật những tính cách nào là đặc trưng của doanh nhân xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa
tính cách và YĐKSKDXH đa số tìm hiểu mối quan hệ trực tiếp (Nga và Shamuganathan, 2010; Ip và cộng sự,
2018a; Hsu và Wang, 2018; Preethi và Priyadarshini, 2018), trong khi có nhiều bằng chứng cho rằng tính cách
7
được xem là có tác động trung gian đến YĐKSKD nói chung và YĐKSKDXH nói riêng. Thứ tư, ở những
nghiên cứu trước, hai yếu tố trong vốn con người nhận thức là kinh nghiệm và giáo dục đa phần được xem xét
những biến kiểm soát trong quá trình hình thành YĐKSKDXH và chưa có sự quan tâm đến ảnh hưởng của
những biến này lên các tiền đề của YĐKSKDXH. Thứ năm, mối quan hệ giữa các yếu tố thuộc vốn con người
và KSKDXH đa phần được nghiên cứu ở các nền kinh tế phát triển trong khi đó các bằng chứng nghiên cứu
tại các nước đang phát triển - nơi mà những vấn đề xã hội ngày càng trở nên đa dạng – vẫn còn ít. Từ những
lí do trên, tác giả thực hiện đề tài tác động của tính cách, giáo dục và kinh nghiệm đến YĐKSKDXH nhằm
kiểm tra vài trò của các khía cạnh vốn con người (tính cách, giáo dục KSKDXH và kinh nghiệm với các tổ
chức xã hội) tác động đến quá trình hình thành YĐKSKDXH.
1.3 Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu
1.3.1 Mục tiêu chung của nghiên cứu
Luận án này lược khảo chủ đề YĐKSKDXH, từ những khoảng trống nghiên cứu phát hiện được, xây dựng
mô hình để luận giải một cách rõ ràng vai trò tác động của từng nhóm yếu tố vốn con người bao gồm vốn con
người không nhận thức (các đặc điểm tính cách) và vốn con người nhận thức (kinh nghiệm và giáo dục) ảnh
hưởng đến YĐKSKDXH.
1.3.2 Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu thứ nhất: Tác động của các tính cách (vốn con người không nhận thức) đến YĐKSKDXH được
xem xét thông qua hai tiền đề trong mô hình YĐKSKDXH của Mair and Noboa (2006). Mục tiêu thứ hai:
Luận án sẽ xem xét tác động của kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội và giáo dục KSKDXH đến
YĐKSKDXH thông qua lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp (social cognitive career theory - SCCT).
Mục tiêu thứ ba: Đề xuất các hàm ý chính sách giúp làm tăng YĐKSKDXH nói riêng và KSKDXH nói chung
dựa trên các khía cạnh của vốn con người.
1.4 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu này là hai nhóm yếu tố của vốn con người bao gồm các đặc điểm tính cách (vốn
con người không nhận thức), kinh nghiệm và giáo dục KSKDXH (vốn con người nhận thức) và YĐKSKDXH.
Tác giả phối hợp với Cộng đồng DNXH Việt Nam (SSEC) để thu thập dữ liệu từ những cá nhân có tham gia
các hoạt động liên quan đến KDXH tại đây. Mẫu trong nghiên cứu này được chọn theo phương pháp thuận
tiện. Để thu thập dữ liệu, đường link khảo sát bảng câu hỏi được tạo trên Google Form được gửi đến những cá
nhân có tham gia các hoạt động mà SSEC tổ chức.
Giới hạn không gian: KDXH nói chung và KSKDXH nói riêng còn rất mới ở Việt Nam do đó để đảm bảo
những cá nhân tham gia có đủ kiến thức và hiểu biết để hoàn thành bảng khảo sát về KSKDXH, nghiên cứu
này sẽ tập trung vào những cá nhân đã tham gia các khóa học/chương trình được tổ chức bởi Cộng đồng DNXH
Việt Nam (SSEC), Seed Planters, Saigon Innovation Hub và CSIP. Những cá nhân này đa số sinh sống tại khu
vực TPHCM và các vùng lân cận.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Từ những khe hổng nghiên cứu xác định được trong quá trình thực hiện lược khảo tài liệu. Mô hình nghiên
cứu và thang đo nháp được hình thành. Sau đó, tác giả thực hiện thảo luận nhóm các chuyên gia là những
doanh nhân xã hội hoặc những người có kinh nghiệm trong KSKDXH để hoàn thiện mô hình, khám phá các
yếu tố mới, điều chỉnh thang đo cho rõ ràng, phù hợp bối cảnh Việt Nam. Khởi sự kinh doanh xã hội vẫn còn
mới tại Việt Nam do đó trong luận án này, các chuyên gia được hội hỗ trợ Cộng đồng DNXH (Supporting
Social Enterprise Community Association - SSEC) giới thiệu đến tác giả để thực hiện thảo luận nhóm. Đây là
những cá nhân có hoạt động tích cực trong việc giúp phát triển cộng đồng DNXH tại khu vực miền Nam. Các
8
chuyên gia bao gồm 2 chuyên gia nằm trong ban điều hành của hội hỗ trợ Cộng đồng DNXH (chủ tịch hội và
Phó chủ tịch phụ trách Marketing), 2 chuyên gia hiện đang là người trực tiếp quản lý các doanh nghiệp xã hội
(SAC MOC TINH CO., LTD và Dakado Group) và cuối cùng 1 chuyên gia là giảng viên giảng dạy về khởi
nghiệp kinh doanh xã hội đã được cấp chứng chỉ khóa đào tạo giảng viên nguồn về Công dân tích cực và
Doanh nghiệp xã hội do Hội đồng Anh Việt Nam (Hội đồng Anh Việt Nam) tổ chức. Buổi thảo luận được tiến
hành vào lúc 8h sáng ngày 13/11/2019. Địa điểm: phòng A306, trường Đại học Kinh tế TPHCM, 59C Nguyễn
Đình Chiểu, Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, thang đo nháp thứ hai được hình thành để
phục vụ cho nghiên cứu sơ bộ định lượng. Thang đo nháp thứ hai được dùng để phỏng vấn thử với mẫu gồm
100 cá nhân khi họ tham gia tham gia chương trình Tập huấn Điều phối viên & người hướng dẫn Chương trình
Sáng tạo vì xã hội do Saigon Innovation Hub (SIHUB), trực thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Tp.HCM, Hội
Bảo trợ Trẻ em TP.HCM và UNICEF tổ chức. Phương pháp lấy mẫu thuận tiện. Bảng câu hỏi được phát trực
tiếp cho các cá nhân. Thời gian khảo sát trong thời gian diễn ra chương trình từ 04/12/2019 – 11/12/2019.
Phương pháp đánh giá độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố khám phá EFA được
sử dụng để đánh giá các biến quan sát trong mô hình nghiên cứu. Kết quả, các thang đo được hoàn chỉnh. Bảng
hỏi chính thức được gửi thông qua email cho các đối tượng được chọn khảo sát. Mô hình đo lường và mô hình
cấu trúc tuyến tính thông qua phần mềm hỗ trợ PLS-SEM được sử dụng để đánh giá các thang đo. Kỹ thuật
PLS Bootstrapping với kích thước mẫu là 5,000 được sử dụng để kiểm định các giả thuyết và mô hình nghiên
cứu. Cuối cùng, các tác động trung gian trong mô hình cũng được kiểm tra thông qua quy trình 4 bước của
Baron and Kenny (1986).
1.6 Ý nghĩa luận án
1.6.1 Đóng góp về mặt lý thuyết
Thứ nhất, tác giả thực hiện lược khảo một cách có hệ thống về chủ đề YĐKSKDXH. Lược khảo này giúp
khám phá những danh mục và những chủ đề đã được nghiên cứu trong YĐKSKDXH. Thứ hai, đối với lý
thuyết nền, trong nghiên cứu này mở rộng mô hình YĐKSKDXH đầu tiên của Mair và Noboa (2006) cho
nghiên cứu thứ nhất (nghiên cứu về tính cách) và lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp (social cognitive
career theory - SCCT) cho nghiên cứu thứ hai., đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên áp dụng lý thuyết
nhận thức xã hội về nghề nghiệp trong bối cảnh nghiên cứu YĐKSKDXH. Thứ ba, cảm nhận về tính khả thi
và cảm nhận về sự mong muốn được kiểm tra tác động trung gian trong mối quan hệ từ tính cách đến
YĐKSKDXH (nghiên cứu thứ nhất) và niềm tin vào năng lực bản thân và kết quả mong đợi cũng được kiểm
tra tác động trung gian trong mối quan hệ từ tính cách đến YĐKSKDXH (nghiên cứu thứ hai). Thứ tư, về mối
quan hệ giữa tính cách và YĐKSKDXH, luận án này sẽ nghiên cứu một cách toàn diện tính cách của doanh
nhân xã hội bằng cách xem xét tính cách của các doanh nhân xã hội tiềm năng là sự kết hợp giữa các tính cách
thông thường xuất hiện ở doanh nhân thương mại kết hợp với các tính cách xã hội đặc trưng chỉ có ở doanh
nhân xã hội. Thứ năm, nghiên cứu này xem xét tác động đồng thời của giáo dục KSKDXH và kinh nghiệm
với cách tiếp cận mới. Luận án này sẽ đánh giá giáo dục KSKDXH theo cảm nhận của những cá nhân đã được
trải nghiệm và học tập về KSKDXH, ngoài ra kinh nghiệm sẽ được xem xét là kinh nghiệm làm việc với các
tổ chức xã hội. Cuối cùng, luận án này tập trung vào bối cảnh tại Việt Nam được đặc trưng bởi các kỹ năng
và giáo dục về KSKDXH đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, mức độ hoạt động KDXH thấp, nhiều
tiềm năng nhưng thiếu nguồn lực để khai thác (CSIP, 2016). Kết quả từ nghiên cứu này có thể đóng góp vào
cơ sở lý thuyết bằng cách cung cấp những hiểu biết về KSKDXH tại những nước đang phát triển.
1.6.2 Ý nghĩa thực tiễn
9
Luận án thực hiện lược khảo YĐKSKDXH, lược khảo này giúp những nhà nghiên cứu mới khi tìm hiểu về
các chủ đề này sẽ có được cái nhìn tổng quát về những cấu trúc chính, những hướng nghiên cứu chính trong
YĐKSKDXH. Các nhà hoạch định chính sách, những người vốn rất ít tiếp xúc với các vấn đề học thuật cũng
có thể tiếp cận chủ đề về KSKDXH một cách dễ dàng hơn để tìm hiểu và xây dựng chiến lược phát triển
KDXH. Ví dụ, các công cụ để đo lường và phát hiện những cá nhân tiềm năng để tập trung nguồn lực giúp họ
trở thành doanh nhân xã hội thay vì đầu tư đại trà gây tổn thất và lãng phí. Việc gia tăng số lượng DNXH tại
Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung luôn là vấn đề được quan tâm. Việc tìm hiểu
YĐKSKDXH sẽ giúp chính phủ xây dựng các chiến lược phù hợp để phát triển KDXH nói chung và DNXH
nói riêng. Các đại học lớn trên thế giới đều có những chương trình giảng dạy về KSKDXH. Tại Việt Nam, các
chương trình giáo dục vẫn chưa có sự quan tâm dành cho KSKDXH. Do đó, từ những yếu tố dưới góc độ cá
nhân mà nghiên cứu xác định được như tính cách, giáo dục, kinh nghiệm… sẽ là cơ sở để các trường Đại học
xây dựng và phát triển chương trình đào tạo về KSKDXH.
CHƯƠNG 2. LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU KHỞI SỰ KINH DOANH XÃ HỘI, Ý ĐỊNH
KHỞI SỰ KINH DOANH XÃ HỘI VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Khởi sự kinh doanh xã hội (KSKDXH)
Mặc dù có nhiều định nghĩa và cách giải thích khác nhau, nhưng nhìn chung KSKDXH được xác định là
một quá trình bắt đầu với việc hình thành ý tưởng xã hội, nhận dạng các cơ hội, xây dựng các giải pháp hướng
đến phát triển bền vững (Salamzadeh và cộng sự, 2013; Shane, 2003). Tạo ra giá trị xã hội hoặc giải quyết các
vấn đề xã hội bằng các giải pháp đổi mới sáng tạo là mục tiêu trọng tâm của KDXH và đó là sự khác biệt giữa
KDXH với các hình thức kinh doanh khác (Martin và Osberg, 2007; Zahra và cộng sự, 2008; Alvord và cộng
sự, 2004).
2.2 Ý định khởi sự kinh doanh xã hội (YĐKSKDXH)
Bird (1988) định nghĩa ý định là trạng thái nhận thức ngay trước khi thực hiện hành vi, hướng tới mục tiêu
cụ thể. Ý định thể hiện niềm tin cá nhân để thực hiện một hành vi tương lai (Krueger và cộng sự, 2000).
Davidsson và Honig (2003) định nghĩa YĐKSKD liên quan đến định hướng thành lập một doanh nghiệp trong
tương lai. YĐKSKD được cho là tiền đề cho mối liên hệ giữa cá nhân và việc thành lập các doanh nghiệp mới
(Ozyilmaz, 2011; DeGeorge và Fayolle, 2008). YĐKSKDXH đề cập đến ý định thành lập một DNXH (Mair
và Noboa, 2006). YĐKSKDXH được coi là hành vi tâm lý của một cá nhân, thuyết phục họ tiếp thu tri thức,
nhận thức ý tưởng và thực hiện kế hoạch KDXH để trở thành một doanh nhân xã hội (Mair và cộng sự, 2006).
YĐKSKDXH có thể được định nghĩa là mong muốn và quyết tâm của một người để thành lập một DNXH mới
(Tran và cộng sự, 2016).
2.3 Lược khảo các lý thuyết nền về ý định KSKD
Qua tổng kết những nghiên cứu về ý định KSKDXH, có thể thấy được các nghiên cứu về ý định KSKDXH
sử dụng các lý thuyết nền theo ba hướng chính.
Hướng thứ nhất kế thừa và sử dụng các lý thuyết từ các nghiên cứu về KSKD thương mại truyền thống như
mô hình sự kiện KSKD của Shapero và Sokol (1982), lý thuyết tiềm năng KSKD của Krueger và Brazeal
(1994) và nổi bật nhất chính là thuyết hành vi có kế hoạch của Ajzen (1991).
Hướng thứ hai sử dụng các mô hình được xây dựng hoàn toàn mới và được thiết kế chuyên biệt cho
KSKDXH điển hình là mô hình của mô hình của Mair and Noboa (2006) và Nga và Shamuganathan (2010).
10
Hướng nghiên cứu thứ ba, các mô hình mới cũng nổi lên thông qua sự phát triển các mô hình cũ như lý
thuyết nhận thức xã hội nghề nghiệp (Social cognitive career theory) phát triển từ lý thuyết nhận thức hay mô
hình của Hockert (2017) được thay đổi và bổ sung các yếu tố mới từ mô hình gốc của Mair và Noboa (2006).
2.4 Khoảng trống nghiên cứu về mối quan hệ giữa tính cách và ý định KSKDXH
Thứ nhất, các nghiên cứu tiếp cận theo Năm tính cách lớn (hướng thứ nhất) rất khó để phân biệt đâu là tính
cách của doanh nhân thương mại và của doanh nhân xã hội. Thứ hai, các nghiên cứu về tính cách cụ thể đa số
vẫn dựa trên các tính cách thường thấy ở các doanh nhân thương mại, nếu chỉ xem xét tính cách của doanh
nhân xã hội giống như tính cách của doanh nhân thương mại thì sẽ thiếu đi sự xem xét tính cách xã hội của
doanh nhân xã hội. Thứ ba, tính cách xã hội mới chỉ được phát triển để xem xét nhiều ở ý định tham gia các
hoạt động xã hội và tình nguyện mà chưa được xem xét trong KSKDXH. Thứ tư, việc xem xét đồng thời vai
trò của các tính cách doanh nhân truyền thống và tính cách xã hội cũng là vô cùng cần thiết khi tìm hiểu những
tính cách chung giữa doanh nhân xã hội và doanh nhân thương mại vì những nghiên cứu so sánh như thế này
vẫn còn rất hạn chế (Smith và cộng sự, 2014). Thứ năm, nghiên cứu này sẽ khám phá những tác động trung
gian và sử dụng hai tiền đề của Mair và Noboa (2006) bao gồm nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về
tính khả thi làm trung gian tác động giữa tính cách và ý định KSKDXH. Cuối cùng, tác động của nền văn hóa
Á Đông đến ý định KSKDXH chưa được nghiên cứu sâu. Mô hình nghiên cứu đề xuất và giả thuyết về mối
quan hệ giữa tính cách và ý định KSKDXH.
Ngoài các giả thuyết về tác động trực tiếp như hình 2.7, 4 giả thuyết về tác động trung gian được kiểm định
như sau:
Giả thuyết H9a: Nhận thức về sự mong muốn KSKDXH trung gian tác động cho mối quan hệ từ các tính
cách thương mại truyền thống (xu hướng chấp nhận rủi ro, nhu cần thành tích, tính chủ động và sự sáng tạo)
đến ý định KSKDXH.
Giả thuyết H9b: Nhận thức về tính khả thi KSKDXH trung gian tác động cho mối quan hệ từ các tính cách
thương mại truyền thống (xu hướng chấp nhận rủi ro, nhu cần thành tích, tính chủ động và sự sáng tạo) đến ý
định KSKDXH.
Giả thuyết H9c: Nhận thức về sự mong muốn KSKDXH trung gian tác động cho mối quan hệ từ các tính
cách xã hội (sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức) đến ý định KSKDXH.
Giả thuyết H9d: Nhận thức về tính khả thi KSKDXH trung gian tác động cho mối quan hệ từ các tính cách
xã hội (sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức) đến ý định KSKDXH.
Nguồn: tác giả đề xuất
11
Hình 2.7 Mô hình nghiên cứu đề xuất mối quan hệ giữa tính cách và ý định KSKDXH
2.5 Khoảng trống nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh nghiệm và giáo dục đến ý định KSKDXH
Thứ nhất, vai trò của giáo dục kinh và kinh nghiệm vẫn mới mẻ trong KDXH và vẫn tồn tại những mâu
thuẫn trong các nghiên cứu đi trước. Thứ hai, các nghiên cứu trước chỉ xem kinh nghiệm và giáo dục là biến
kiểm soát trong nhóm biến nhân khẩu học và chưa chỉ ra tác động rõ ràng của kinh nghiệm và giáo dục đến
quá trình hình thành ý định KSKDXH. Thứ ba, giáo dục và kinh nghiệm là hai cấu trúc quan trọng trong nguồn
vốn con người nhận thức. Tuy nhiên, các yếu tố này lại được nghiên cứu riêng lẻ mà chưa có sự tích hợp chung
với nhau để xem xét tác động đồng thời. Thứ tư, những tác động gián tiếp thông qua các tiền đề của ý định
chưa nhận được nhiều sự quan tâm so với những tác động trực tiếp, do đó trong nghiên cứu này, tác động của
giáo dục và kinh nghiệm sẽ được xem xét tác động đến ý định thông qua hai tiền đề của thuyết nhận thức xã
hội nghề nghiệp (sự tự tin vào KSKDXH và kết quả mong đợi từ KSKDXH). Thứ năm, nghiên cứu này sẽ
tiếp cận kinh nghiệm và giáo dục theo cách hoàn toàn mới. Theo đó, kinh nghiệm được tiếp cận là kinh nghiệm
thực tế của một cá nhân làm việc với các tổ chức xã hội. Trong khi đó, giáo dục được đo lường bởi mô hình
của Lanero và cộng sự (2011) thông qua cảm nhận của các cá nhân về giáo dục KSKDXH sau khi được trải
qua các khóa học. Cuối cùng, luận án này tập trung vào nền kinh tế phát với bối cảnh tại Việt Nam được đặc
trưng bởi các kỹ năng và giáo dục về KSKD và KSKDXH kém, mức độ hoạt động KDXH thấp, nhiều tiềm
năng nhưng thiếu nguồn lực để khai thác. Ngoài các giả thuyết về tác động trực tiếp như hình 2.8, 2 giả thuyết
về tác động trung gian được kiểm định như sau:
Giả thuyết H8a: Niềm tin vào năng lực bản thân và kết quả mong đợi trung gian mối quan hệ từ giáo dục
KSKDXH đến YĐKSKDXH.
Giả thuyết H8b: Niềm tin vào năng lực bản thân và kết quả mong đợi trung gian mối quan hệ từ kinh nghiệm
với các tổ chức xã hội đến YĐKSKDXH.
Nguồn: tác giả đề xuất
12
Hình 2.8 Mô hình đề xuất mối quan hệ giữa giáo dục, kinh nghiệm và YĐKSKDXH
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Quy trình nghiên cứu của hai nghiên cứu thực nghiệm
Từ các khe hổng nghiên cứu được xác định từ việc thực hiện lược khảo. Hai nghiên cứu thực nghiệm được
tiến hành theo hai giai đoạn chính: (1) nghiên cứu sơ bộ, (2) nghiên cứu chính thức.
3.2 Nghiên cứu sơ bộ
Từ lược khảo về YĐKSKDXH, mô hình nghiên cứu và thang đo nháp thứ nhất cho từng nghiên cứu được
hình thành. Mô hình nghiên cứu và các thang đo nghiên cứu nháp được xây dựng trên cơ sở lý thuyết và bối
cảnh quốc tế. Bên cạnh đó, những khái niệm về KDXH vẫn còn khá mới mẻ tại Việt Nam do đó việc đánh giá
lại mô hình và các thang đo là cần thiết để xem mức độ phù hợp với bối cảnh nghiên cứu.
Bảng câu hỏi được chuyển thể theo quy trình back-translation từ tiếng Anh sang tiếng Việt và dịch ngược
lại từ tiếng Việt sang tiếng Anh để đối chiếu và điều chỉnh. Mục tiêu của quy trình này để giải thích rõ các
khái niệm và diễn giải các biến trong thang đo từ góc độ quan điểm của người được khảo sát. Từ đó, các biến
quan sát được điều chỉnh, diễn giải để người được phỏng vấn hiểu rõ các câu hỏi và làm tăng giá trị thang đo.
Từ những khoảng trống nghiên cứu xác định được trong quá trình thực hiện lược khảo tài liệu ở các giai đoạn
trước. Mô hình nghiên cứu và thang đo nháp thứ nhất cho từng nghiên cứu được hình thành. Sau đó, tác giả
thực hiện thảo luận nhóm các chuyên gia là những doanh nhân xã hội hoặc những người có kinh nghiệm trong
KSKDXH để hoàn thiện mô hình, khám phá các yếu tố mới, điều chỉnh thang đo cho rõ ràng, phù hợp bối
cảnh Việt Nam. Từ đó, thang đo nháp thứ hai được hình thành để phục vụ cho nghiên cứu sơ bộ định lượng.
Định lượng sơ bộ (n = 100). Thang đo nháp thứ hai được dùng để phỏng vấn thử với mẫu gồm 100 cá nhân
theo phương pháp thuận tiện khi họ tham gia các hoạt động do cộng đồng hỗ trợ DNXH (SSEC - Supporting
Social Enterprise Community) tổ chức. Phương pháp đánh giá độ tin cậy thông qua hệ số Cronbach’s Alpha
và phân tích nhân tố khám phá EFA được sử dụng để đánh giá các biến quan sát trong mô hình nghiên cứu.
Kết quả, các thang đo được hoàn chỉnh.
Định lượng chính thức (n=503).
13
Đối tượng khảo sát và phương pháp thu thập dữ liệu:
Trong thập kỷ qua, sự quan tâm đến các DNXH và tinh thần KSKDXH đã tăng lên đáng kể tại Việt Nam
(Hội đồng Anh, 2019). Năm 2014, DNXH chính thức được công nhận là một loại hình tổ chức riêng biệt trong
Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Đây là một cột mốc quan trọng, cho phép các DNXH phát triển hơn nữa với sự
hỗ trợ của một loạt các bên liên quan. Theo thống kê của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (Hội đồng
Anh, 2019), số DNXH Việt Nam khoảng 200, đăng ký chính thức với chính phủ là 80. Các DNXH này đã giúp
hơn 100.000 người có hoàn cảnh đặc biệt và cải thiện sinh kế của hơn 600.000 người, chủ yếu là phụ nữ, trẻ
em, dân tộc thiểu số, lao động khuyết tật và lao động thu nhập thấp trong các lĩnh vực khác nhau như nông
nghiệp, giáo dục, môi trường, y tế và công nghệ. Tại Việt Nam, đã hình thành một số tổ chức trung gian chuyên
hỗ trợ phát triển DNXH. Các tổ chức có nhiều kinh nghiệm trong KSKDXH tại Việt Nam như Cộng đồng
DNXH Việt Nam (SSEC), Seed Planters, Trung tâm Hỗ trợ Sáng kiến Phục vụ Cộng đồng (CSIP), HATCH!
và Evergreen Labs. Ngoài ra, một số cơ sở ươm tạo DNXH cũng được chính phủ thành lập như Trung tâm đổi
mới Sài Gòn (SiHUB), Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp cho thanh niên (sYs), BKHUP và Chương trình Quốc
gia khởi nghiệp cũng góp phần phát triển tinh thần kinh KSKDXH tại Việt Nam. Những đặc điểm này đã khiến
Việt Nam trở thành một khu vực phù hợp để thực hiện nghiên cứu về YĐKSKDXH.
Do đặc thù của KDXH còn rất mới tại Việt Nam, do đó đòi hỏi những cá nhân thực hiện trả lời khảo sát
phải có kiến thức về KSKDXH, vì vậy, mẫu trong nghiên cứu này sẽ tập trung vào những cá nhân có sự quan
tâm và hiểu biết về KDXH tại Việt Nam. Khung mẫu bao gồm những cá nhân đã tham gia các khóa học khác
nhau trong các chương trình như Gọi vốn dành cho doanh nhân xã hội ở Việt Nam, Green our World, Xây
dựng môi trường gắn kết tích cực (Building a Positive Public Engagement Environment), Chương trình hòa
nhập xã hội (Social Immersion Program), Phát triển quan điểm trở thành doanh nhân xã hội (Developing
Perspectives as social entrepreneurs: training program), Quản lý chất lượng cho dự án phát triển cộng đồng
(Quality Management for Community Development Project), Hội thảo đổi mới xã hội và doanh nghiệp
(Workshop Social Innovation and Enterprise), Đào tạo Khởi nghiệp Tạo tác động NEUrON, Đào tạo Khởi
nghiệp tạo tác động khu vực đồng bằng Sông Hồng, Impact Space - Không gian khởi nghiệp tạo tác động, tọa
đàm Sáng kiến Kinh doanh vì Cộng đồng – Én xanh HCMC, Đào tạo kỹ năng điều phối, hỗ trợ đổi mới sáng
tạo khởi nghiệp xã hội. Các chương trình này được tổ chức bởi Cộng đồng DNXH Việt Nam (SSEC), Seed
Planters, Saigon Innovation Hub và CSIP. Để thu thập dữ liệu, một bảng câu hỏi được tạo trên Google Form
được gửi cho các cá nhân đã tham gia ít nhất hai khóa học.
Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Như đã trình bày về sự hạn chế của KDXH tại Việt Nam, nghiên cứu này chọn mẫu theo phương pháp
thuận tiện cho nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức. Mẫu dự kiến cho nghiên cứu chính thức trong luận
này là 500: Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM) đòi hỏi cỡ mẫu lớn để đảm bảo ước lượng độ tin cậy cần thiết
của mô hình (Raykov và Widaman, 1995). Hair và cộng sự (2010), cho rằng tỷ lệ cần thiết để thiết kế cỡ mẫu
nghĩa là tối thiểu phải có năm quan sát trên mỗi thông số ước lượng (tỷ lệ 5:1). Tuy nhiên, cỡ mẫu càng lớn
hơn mức tối thiểu yêu cầu thì độ tin cậy của nghiên cứu càng cao (giảm những sai lệch do lấy mẫu). Ngoài ra,
phương pháp điều tra trong nghiên cứu này là khảo sát online do đó để đạt được mục tiêu kỳ vọng 500 phiếu
khảo sát, tác giả dự kiến gửi đi 800 phiếu điều tra.
Phương pháp phân tích dữ liệu
Mô hình đo lường và mô hình cấu trúc tuyến tính thông qua phần mềm hỗ trợ SMART-PLS được sử dụng
để đánh giá các thang đo. Cụ thể, tác giả thực hiện trình tự theo các bước sau:
14
Bước 1. Kiểm định mô hình đo lường. Mô hình đo lường được kiểm định thông qua các tiêu chí độ tin cậy
tổng hợp (Composite Reliability - CR), phương sai trích (Average Variance Extract - AVE), so sánh căn bậc
hai của phương sai trích (AVE) với hệ số tương quan để đánh giá độ phân biệt, hệ số tải nhân tố (Factor
Loading) và hệ số tải chéo (Cross Loading) và Heterotrait-Monotrait ratio (HTMT).
Bước 2. Kiểm tra mô hình cấu trúc. Mô hình cấu trúc được kiểm định thông qua các tiêu chí hệ số xác định
(R2) và mức độ phù hợp (Q2): Sử dụng Blindfolding.
Bước 3. Kiểm tra tác động trực tiếp của các biến trong mô hình.
Bước 4. Kiểm tra tác động trung gian (mediating effect) theo quy trình 4 bước được đề xuất bởi Baron và
Kenny (1986).
Bước 5 là Kiểm tra lại kết quả tác động trung gian thông qua hai giá trị: chỉ số CI (Confidence interval)
thông qua quy trình bootstrapp với số mẫu là 5,000 và chỉ số Variance accounted for (VAF).
CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Kết quả nghiên cứu thứ nhất về tác động của tính cách đến ý định KSKDXH
4.1.1 Kiểm định mô hình đo lường
Độ tin cậy của các yếu tố được đo lường thông qua hệ số Cronbach’s alpha và độ tin cậy tổng hợp. Kết quả
cho thấy các giá trị Cronbach’s alpha nằm trong khoảng 0.639 (sự đồng cảm) đến 0.93 (nhu cầu thành tích).
Các giá trị của độ tin cậy tổng hợp dao động trong khoảng 0.648 (sự đồng cảm) đến 0.73 (nhu cầu thành tích).
Các giá trị Cronbach’s alpha và độ tin cậy tổng hợp đều rất gần hoặc trên ngưỡng 0.7 (Nunnally và Bernstein,
1978) cho thấy độ tin cậy của các cấu trúc trong mô hình. Giá trị phương sai trích (Average Variance Extracted
- AVE) cho tất cả các cấu trúc trong mô hình này đều lớn hơn 0.5, cho thấy sự phù hợp về tính hội tụ của từng
cấu trúc trong mô hình (Fornell và Larcker, 1981).
Giá trị phân biệt (discriminant validity) là mức độ mà các yếu tố khác biệt với nhau và không tương quan
với nhau (Fornell và Larcker, 1981). Nghiên cứu này sử dụng ba công cụ để đánh giá giá trị phân biệt bao gồm
so sánh căn bậc hai của AVE với hệ số tương quan giữa các cấu trúc (Fornell và Larcker, 1981), hệ số tải chéo
(cross loading) của các biến quan sát và chỉ số Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT) (Henseler và cộng sự,
2015). Theo Fornell và Larcker (1981), hệ số tương quan giữa các cấu trúc được so sánh với căn bậc hai của
AVE. Kết quả cho thấy căn bậc hai của tất cả các AVE (từ 0.725 đến 0.854) đều lớn hơn các hệ số trong cùng
một cột. Do đó, các thang đo đều đạt giá trị phân biệt. Đối với hệ số tải chéo (cross loading), Chin (2010) cho
rằng mỗi hệ số tải phải lớn hơn tất cả các hệ số tải chéo của nó. Trong mô hình này, các hệ số tải nhân tố đều
lớn hơn 0.5 (từ 0.502 đến 0.980) và lớn hơn hệ số tải chéo. Tóm lại, hệ số tải và hệ số tải chéo đều xác nhận
các thang đo đều đạt giá trị phân biệt. Cuối cùng, chỉ số Heterotrait-Monotrait ratio of correlations (HTMT) là
một phương pháp mới để đánh giá tính phân biệt trong PLS-SEM và được coi là vượt trội hơn so với các
phương pháp đánh giá tính phân biệt truyền thống như của Fornell và Larcker (1981) hay sử dụng hệ số tải
chéo (Henseler và cộng sự, 2015). Kết quả cho thấy rằng không có giá trị nào thấp hơn hay cao hơn khoảng
tin cậy (CI0.9) hay bao gồm giá trị 1, cho thấy các thang đo cho nghiên cứu này đều đạt giá trị phân biệt. Như
vậy, các cấu trúc trong nghiên cứu này đều đạt được giá trị hội tụ và giá trị phân biệt.
15
4.1.2 Kiểm định mô hình cấu trúc
Giá trị R2 (the coefficient of determination) cho biến nhận thức về sự mong muốn KSKDXH, nhận thức về
tính khả thi KSKDXH và ý định KSKDXH lần lượt là 0.201, 0.187 và 0.226 được coi là có khả năng dự đoán vừa và chấp nhận được (Cohen, 2013). Ngoài ra, tác giả đã sử dụng Q2 (cross-validated redundancy) để đánh giá mức độ phù hợp mô hình (Chin, 2010). Dựa trên kỹ thuật Blindfolding, Q2 về nhận thức về sự mong muốn
KSKDXH, nhận thức về tính khả thi KSKDXH và ý định KSKDXH lần lượt là 0.084, 0.092 và 0.060, cho
thấy các mô hình nghiên cứu khả năng dự đoán ở mức vừa và phù hợp để đự đoán ý định KSKDXH (Chin,
2010). T-test với kỹ thuật Bootstrapping (N = 5,000) được áp dụng để kiểm tra các tác động trực tiếp. Giả
thuyết H1 (β = 0.122, p < 0.05) và H2 (β = 0.295, p < 0.001) kiểm tra tác động trực tiếp của nhận thức sự
mong muốn KSKDXH và nhận thức tính khả thi KSKDXH đến ý định KSKDXH. Kết quả cho thấy giả thuyết
H1 và H2 đều có ý nghĩa. Các giả thuyết còn lại trong mô hình nghiên cứu xem xét tác động trực tiếp từ các
tính cách (xu hướng rủi ro, nhu cầu thành tích, tính chủ động, tính sáng tạo, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức)
đến nhận thức sự mong muốn KSKDXH và nhận thức tính khả thi KSKDXH. Kết quả kiểm định các giả thuyết
được trình bày trong hình 4.1. Các giả thuyết H3a, H3b, H4a, H5a, H5b, H6b, H7b, H8b, H8b được chấp
Nguồn: tính toán của tác giả
nhận và các giả thuyết còn lại như H4b, H6a, H7a bị bác bỏ.
Hình 4.1 Kết quả kiểm định các tác động trực tiếp
4.1.3 Kiểm tra tác động trung gian
Quy trình 4 bước của Baron và Kenny (1986) được áp dụng để kiểm tra tác động trung gian của nhận thức
tính khả thi và nhận thức sự mong muốn trong mối quan hệ từ các tính cách (xu hướng rủi ro - RT, nhu cầu
thành tích - NA, tính chủ động - PRO, tính sáng tạo - INN, sự đồng cảm - EMP và nghĩa vụ đạo đức - MO)
đến ý định KSKDXH (Bảng 4.1).
16
Tại bước 1, các biến độc lập (sáu tính cách bao gồm: xu hướng rủi ro, nhu cầu thành tích, tính chủ động,
tính sáng tạo, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức) được kiểm tra tác động trực tiếp đến ý định KSKDXH. Kết
quả, chỉ có bốn tính cách là tính chủ động, tính sáng tạo, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức là có tác động đến
ý định KSKDXH. Vì xu hướng rủi ro và nhu cầu thành tích không có tác động đến ý định KSKDXH nên hai
tính cách này bị loại trong quá trình kiểm tra tác động trung gian trong các bước tiếp theo.
Tại bước 2, bốn tính cách có ý nghĩa tại bước 1 bao gồm tính chủ động, tính sáng tạo, sự đồng cảm và nghĩa
vụ đạo đức được kiểm tra tác động đến hai biến trung gian là nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính
khả thi. Kết quả cho thấy, ngoại trừ mối quan hệ từ tính sáng tạo và sự đồng cảm đến nhận thức về sự mong
muốn và mối quan hệ từ sự đồng cảm đến nhận thức về sự mong muốn là không có ý nghĩa, các mối quan hệ
còn lại đều có ý nghĩa. Hai mối quan hệ không có ý nghĩa kể trên sẽ bị loại khỏi quy trình kiểm tra tác động
trung gian trong các bước tiếp theo.
Bước 3 kiểm tra tác động từ hai biến trung gian là là nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính khả
thi đến ý định KSKDXH. Kết quả cho thấy các mối quan hệ này đều có ý nghĩa.
Tại bước 4, khi kiểm tra đồng thời tác động của các tính cách (tính chủ động, tính sáng tạo, sự đồng cảm
và nghĩa vụ đạo đức) và hai biến trung gian (nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính khả thi) đến ý
định KSKDXH, kết qua cho thấy tất cả những mối quan hệ đã có ý nghĩa tại bước 2 và bước 3 đều có ý nghĩa
tại bước 4 này, đồng thời khi xem xét lại những mối quan hệ trực tiếp tại bước 1 (các tính cách đến ý định
KSKDXH) cho thấy chỉ có sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức là còn ý nghĩa, trong khi những mối quan hệ từ
tính chủ động và tính sáng tạo đến ý định KSKDXH lại không còn ý nghĩa. Vì vậy, có thể kết luận rằng, hai
biến trung gian (nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính khả thi) trung gian hoàn toàn mối quan hệ
từ tính chủ động đến ý định KSKDXH và trung gian một phần mối quan hệ từ nghĩa vụ đạo đức đến ý định
KSKDXH. Ngoài ra, chỉ có nhận thức về tính khả thi trung gian hoàn toàn tác động từ tính sáng tạo đến ý định
KSKDXH và trung gian một phần mối quan hệ từ sự đồng cảm đến ý định KSKDXH. Kết quả này cho thấy
các giả thuyết H9d được chấp nhận trong khi H9a, H9b và H9c bị bác bỏ.
Bảng 4.1 Kết quả kiểm tra tác động trung gian
Trung gian Biến phụ thuộc Các bước phân Biến nghiên cứu tích PD PF SEI
RT -0.057
NA
-0.037 0.146b PRO Bước 1 Biến độc lập 0.141b CRE
0.215b EMP
0.153c MO
PRO 0.303c
CRE 0.054 Biến trung gian EMP Bước 2
và Bước 3 MO 0.100 0.179b 0.114a 0.193c 0.256c 0.155b
PD Biến trung gian PF 0.123b 0.294c
Bước 4 Biến độc lập PRO 0.323c 0.109a 0.090
17
Trung gian Biến phụ thuộc Các bước phân Biến nghiên cứu tích PD SEI
CRE
EMP
MO 0.210c PF 0.196c 0.257c 0.157b
Ghi chú. SEI: ý định khởi sự KDXD, RT: xu hướng rủi ro, NA: nhu cầu thành tích, PRO: tính chủ động, CRE:
tính sáng tạo, EMP: sự đồng cảm, MO: nghĩa vụ đạo đức.
a <.05, b <.01, c <.001
Nguồn: tính toán của tác giả
PD Biến trung gian PF 0.106 0.167a 0.096a 0.055c 0.201c
Chỉ số CI (Confidence interval) thông qua quy trình Bootstrapping với số mẫu là 5,000 được tính toán để
xác nhận các hiệu ứng trung gian đã được kiểm tra thông qua 4 bước của Baron và Kenny (1986). Quy trình
bootstrapping với 5.000 mẫu cho thấy tính chủ động, tính sáng tạo, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức có ảnh
hưởng gián tiếp đến ý định KSKDXH. Ước lượng điểm (Point of estimate) của các mối quan hệ có tác động
trung gian luôn nằm trong khoảng độ tin cậy (Confidence interval) và không bao gồm giá trị 0. Tóm lại, hai
biến trung gian (nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính khả thi) trung gian mối quan hệ từ tính chủ
động đến ý định KSKDXH và trung gian một phần mối quan hệ từ nghĩa vụ đạo đức đến ý định KSKDXH.
Ngoài ra, chỉ có nhận thức về tính khả thi trung gian hoàn toàn tác động từ tính sáng tạo đến ý định KSKDXH
và trung gian một phần mối quan hệ từ sự đồng cảm đến ý định KSKDXH. Kết quả này khẳng định lại lần nữa
các giả thuyết và H9d được chấp nhận trong khi H9a, H9b và H9c bị bác bỏ.
Bảng 4.2 Kiểm định bổ sung để kiểm tra tác động trung gian
Mức ý nghĩa 95% Biến độc lập ‐ biến trung gian ‐ biến Point of estimate Confidence interval phụ thuộc
PRO - PD - SEI 0.016 0.006 – 0.041
PRO - PF - SEI 0.023 0.005 – 0.044
CRE - PF - SEI 0.032 0.013 – 0.057
EMP - PF - SEI 0.042 0.019 – 0.071
MO - PD - SEI 0.011 0.004 – 0.030
Nguồn: tính toán của tác giả
MO - PF - SEI 0.033 0.012 – 0.060
4.2.4 Thảo luận kết quả nghiên cứu thứ nhất về mối quan hệ giữa tính cách và YĐKSKDXH
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò quan trọng của các tính cách trong việc hình thành
YĐKSKDXH. Đây là một trong những chủ đề nghiên cứu nhận được rất nhiều sự quan tâm của cộng đồng
học thuật (Liñán và Fayolle, 2015; Tan và cộng sự, 2019). Nghiên cứu này mở rộng mô hình YĐKSKDXH
đầu tiên của Mair và Noboa (2006) để xem xét mối quan hệ giữa các tính cách và ý định bắt đầu một DNXH.
Cụ thể hơn, những tính cách này được coi là sự kết hợp của các tính cách kinh doanh doanh nhân thương mại
truyền thống (xu hướng rủi ro, nhu cầu thành tích, tính chủ động và tính sáng tạo) và tính cách KDXH (sự
đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức). Cuối cùng, tác giả điều tra các tác động trung gian của cảm nhận về sự mong
18
muốn và cảm nhận về tính khả thi trong mối quan hệ giữa các tính cách và YĐKSKDXH để hiểu cơ chế hình
thành ý định thông qua hai tiền đề trên của Mair và Noboa (2006).
Kết quả nghiên cứu cung cấp những hiểu biết thú vị về tác động của các tính cách kinh doanh thương mại
truyền thống và tính cách KDXH.
Đầu tiên, nghiên cứu này đã xác nhận khả năng áp dụng và mở rộng mô hình của Mair và Noboa (2006)
trong việc dự đoán YĐKSKDXH thông qua cảm nhận về sự mong muốn KSKDXH và cảm nhận về tính khả
thi KSKDXH. Kết quả từ giả thuyết H1 và H2 trong nghiên cứu thực nghiệm thứ nhất cho thấy YĐKSKDXH
của một cá nhân phụ thuộc vào sự mong muốn và tính khả thi khi KSKDXH mà cá nhân đó cảm nhận được.
Sự mong muốn thể hiện cho sự hấp dẫn của việc KSKDXH trong khi đó tính khả thi thể hiện niềm tin vào
năng lực để KSKDXH. Trong hai yếu tố này thì cảm nhận về tính khả thi có tác động mạnh hơn so với sự
mong muốn, điều này khẳng định rằng KSKDXH có thể thu hút và giúp hình thành mong muốn nhưng cảm
nhận của cá nhân về việc mình đủ khả năng để KSKDXH hay không mới là yếu tố chi phối chính
YĐKSKDXH.
Thứ hai, tính cách của các cá nhân có YĐKSKDXH là sự kết hợp của các tính cách kinh doanh thương mại
truyền thống (tính chủ động, sáng tạo) và tính cách KDXH (sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức). Điểm thú vị là
hai tính cách điển hình của các doanh nhân thương mại, bao gồm xu hướng chấp nhận rủi ro và nhu cầu đạt
được thành tích, không ảnh hưởng đến ý định KDXH.
Thứ ba, tất cả những tính cách được đề xuất trong nghiên cứu đều ảnh hưởng đến cảm nhận về tính khả thi
KSKDXH. Kết quả này cho thấy vai trò quan trọng của các tính cách cũng như cảm nhận về tính khả thi trong
việc hình thành YĐKSKDXH. Tính cách không chỉ ảnh hưởng đến thái độ, chuẩn mực chủ quan hoặc mong
muốn trở thành doanh nhân như các nghiên cứu trước đây (Chipeta và Surujlal, 2017; Ip và cộng sự, 2018a;
Tiwari và cộng sự, 2017a), mà các tính cách này còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy niềm tin về
năng lực của họ để trở thành một doanh nhân xã hội. Cụ thể, đa số các tính cách đều có tác động đến cảm nhận
về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả thi. Điều này cho thấy hai tiền đề này hoàn toàn có thể dùng để
kiểm tra mối quan hệ từ các tính cách đến YĐKSKDXH. Các tính cách bao gồm xu hướng rủi ro, tính chủ
động, nghĩa vụ đạo đức đều có tác động đến cảm nhận về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả thi (các giả
thuyết H3, H5, H8 đều được chấp nhận). Việc thành lập DNXH trở nên hấp dẫn đối với các cá nhân có xu
hướng chấp nhận rủi ro, tính chủ động và nghĩa vụ đạo đức cao. Tuy nhiên, những cá nhân có tính cách này
lại không theo đuổi KSKDXH một cách bất chấp mà họ luôn có sự đánh giá tính khả thi của việc KSKDXH.
Điều này được hiểu rằng mặc dù họ bị thu hút bởi KSKDXH, nhưng họ chỉ có ý định thực hiện hành vi nếu
họ có kiến thức và kỹ năng để đánh giá khả năng thành công của mình khi KSKDXH đó chứ không phải theo
đuổi mục tiêu một cách bất chấp. Trong khi đó, nhu cầu thành tích chỉ ảnh hưởng đến cảm nhận về sự mong
muốn mà không có tác động đến cảm nhận về tính khả thi (H4a được chấp nhận và H4b bị bác bỏ). Kết quả
này đúng với quan điểm của McClelland (1965) khi cho rằng những cá nhân có nhu cầu cao về thành tích khao
khát đạt được thành tựu của họ thông qua việc trở thành doanh nhân, tuy nhiên mặt khác việc mong muốn đạt
được thành tựu này đôi khi dẫn đến họ sẽ bỏ qua bước đánh giá tính khả thi và chỉ lao vào KSKDXH, điều này
dễ dẫn đến sự thất bại khi KSKDXH khi mong muốn chứng tỏ bản thân để đạt được những thành tựu cho bản
thân quá lớn và lấn át thực tế rằng bản thân vẫn chưa đủ khả năng để KSKDXH. Ngược lại với nhu cầu thành
tích, tính sáng tạo và sự đồng cảm lại chỉ tác động đến cảm nhận về tính khả thi mà không tác động đến cảm
nhận về sự mong muốn (H6b, H7b được chấp nhận và H6a, H7a bị bác bỏ). Kết quả này cho thấy hai tính
cách này tương đối đặc biệt khi nó không ảnh hưởng đến thái độ hay sự mong muốn KSKDXH. Tính sáng tạo
được coi là năng lực cốt lõi để giải quyết các vấn đề xã hội và nó liên quan chặt chẽ đến sự đổi mới. Là một
19
tác nhân giúp thay đổi xã hội, các doanh nhân xã hội khai thác sự đổi mới ở cấp độ hệ thống để mang lại sự
thay đổi tích cực cho xã hội (Lehner và Kansikas, 2012; Zahra và cộng sự, 2009). Các cá nhân có tính sáng
tạo cao luôn tự tin khi xử lý các vấn đề phức tạp như các vấn đề xã hội (Duckworth và cộng sự, 2016; Fuller
và cộng sự, 2018). Trong khi đó, trong nghiên cứu này sự đồng cảm lại không thúc đẩy động lực xã hội mà lại
mang đến tầm nhìn xã hội, khi tính cách này giúp hiểu thêm về các vấn đề xã hội thông qua chia sẻ trải nghiệm
của người khác vì thế giúp các cá nhân tin rằng họ có thể đối phó với công việc xã hội. Nhìn chung, nghiên
cứu này cung cấp thêm một cách nhìn khác về vai trò của tính cách. Trong khi những nghiên cứu đi trước cho
thấy vai trò của tính cách đến thái độ hay sự mong muốn KSKD để hình thành YĐKSKD thì nghiên cứu này
khẳng định thêm vai trò của tính cách không chỉ ở sự mong muốn mà các cá nhân có những tính cách đặc trưng
sẽ đánh giá tính khả thi khi KSKD hơn là chỉ làm theo mong muốn của bản thân.
Thứ tư, trong khi cảm nhận về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả thi trung gian hoàn toàn trong mối
quan hệ từ tính cách kinh doanh truyền thống (tính chủ động và tính sáng tạo) đến YĐKSKDXH thì cảm nhận
về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả thi chỉ trung gian một phần trong mối quan hệ từ các tính cách
KDXH (sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức) đến YĐKSKDXH. Điều này có thể đến từ sự khác biệt về bản chất
của hai nhóm tính cách. Đặc điểm KDXH có thể ảnh hưởng trực tiếp đến ý định khi một cá nhân có sự đồng
cảm hoặc nghĩa vụ đạo đức đối với các vấn đề xã hội. Trong khi đó, đặc điểm kinh doanh nói chung đòi hỏi
một quá trình đánh giá và thu thập thông tin để hình thành cảm nhận về sự mong muốn và cảm nhận về tính
khả thi trước khi hình thành YĐKSKDXH.
Liên quan đến các tính cách kinh doanh truyền thống, nghiên cứu này xem xét tác động của bốn đặc điểm
tính các bao gồm xu hướng rủi ro, nhu cầu thành tích, tính chủ động và tính sáng tạo. Những kết quả nghiên
cứu cho thấy hai tính cách điển hình của các doanh nhân thương mại, bao gồm xu hướng chấp nhận rủi ro và
nhu cầu thành tích, không ảnh hưởng đến ý định KDXH. Kết quả từ nghiên cứu này hoàn toàn khác với kết
quả của Chipeta và Surujlal (2017) khi họ cho thấy mối quan hệ giữa xu hướng chấp nhận rủi ro và ý định trở
thành doanh nhân xã hội của sinh viên. YĐKSKDXH được coi là không bị ảnh hưởng bởi xu hướng chấp nhận
rủi ro vì các doanh nhân xã hội là những người không cho phép các rào cản rủi ro giảm mong muốn theo đuổi
các giá trị xã hội (Austin và cộng sự, 2006). Họ nhận thức được những rủi ro thất bại như là một phần của quá
trình đổi mới thay vì xem nó là một rủi ro cá nhân và sẵn sàng chấp nhận nó (Mair và Marti, 2006). Các doanh
nhân xã hội không tìm kiếm các giải pháp ngắn hạn hoặc kết quả ngắn hạn mà muốn tạo ra một tác động xã
hội lâu dài và kết quả bền vững (Van Ryzin và cộng sự, 2009). Về nhu cầu thành tích, kết quả của nghiên cứu
này có thể được giải thích bởi các doanh nhân xã hội tiềm năng có định hướng xã hội trong suy nghĩ của họ,
khi họ bắt đầu có YĐKSKDXH thì họ đã định hướng theo đuổi giá trị xã hội thay vì danh tiếng, tiền bạc hoặc
thành tích. Cảm nhận về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả thi trung gian hoàn toàn mối quan hệ giữa
tính chủ động và YĐKSKDXH cho thấy các cá nhân có tính chủ động cao luôn tìm kiếm cơ hội để thay đổi
cuộc sống của họ và bắt đầu kinh doanh cũng là một trong những lựa chọn ưu tiên của họ (Chipeta và Surujlal,
2017). Do đó, họ luôn có mong muốn trở thành doanh nhân (Crant, 1996). Ngoài ra, họ luôn nỗ lực phát triển
khả năng của mình để đáp ứng tốt nhất các cơ hội mà họ tìm thấy, vì vậy những cá nhân này luôn cảm thấy tự
tin khi tìm kiếm cơ hội để trở thành doanh nhân nói chung và doanh nhân xã hội nói riêng. Kết quả từ nghiên
cứu này cũng một lần nữa khẳng định vai trò của tính sáng tạo trong YĐKSKD và YĐKSKDXH (Kedmenec
và cộng sự, 2015; Leadbeater, 1997). Trong DNXH, một doanh nhân là một nhà đổi mới với các cách tiếp cận
sáng tạo khác nhau (Dees, 2007). Nhiều nghiên cứu cho thấy các doanh nhân xã hội có tính sáng tạo lớn hơn
so với các doanh nhân thương mại vì họ phải đối mặt với các vấn đề và tình huống ít phổ biến hơn trong xã
hội (Kedmenec và cộng sự, 2015). Những kết quả về các tác động trung gian chỉ ra rằng cảm nhận về tính khả
20
thi qua trung gian hoàn toàn mối quan hệ giữa tính sáng tạo và YĐKSKDXH. Điều này có thể được giải thích
rằng tính sáng tạo chỉ tăng niềm tin về khả năng của cá nhân để khiến họ tìm ra các giải pháp cho các vấn đề
xã hội, nhưng không có nghĩa là đổi mới thúc đẩy mong muốn trở thành doanh nhân xã hội.
Hai tính cách xã hội, bao gồm sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức, cũng tác động tích cực đến YĐKSKDXH.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tương tự như tính cách kinh doanh truyền thống, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo
đức cũng có tác động mạnh mẽ đến mong muốn cá nhân trở thành một doanh nhân xã hội. Cảm nhận về sự
mong muốn và cảm nhận về tính khả thi một phần qua trung gian mối quan hệ giữa nghĩa vụ đạo đức và ý định
KDXH. Quá trình nhận thức các vấn đề xã hội của một cá nhân là một trong những tính cách cơ bản phân biệt
doanh nhân thương mại và doanh nhân xã hội (Ip và cộng sự, 2018a) và điều này đặc biệt đúng đối với những
cá nhân có ý định trở thành doanh nhân xã hội. Nghĩa vụ đạo đức có khả năng đẩy mạnh khả năng nhận thức
của cá nhân, thúc đẩy các cá nhân giúp đỡ mọi người xung quanh bằng cách định hình mong muốn trở thành
doanh nhân xã hội. Những phát hiện từ các nghiên cứu trước đây cho thấy sự mâu thuẫn trong tác động của sự
đồng cảm đến YĐKSKDXH (Hockerts, 2017), nhưng kết quả này phù hợp với phần lớn các nghiên cứu trước
đây khi nói đến sự đồng cảm có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến ý định KDXH (Grant và Berry, 2011;
Miller và cộng sự, 2012). Ngoài ra, nghĩa vụ đạo đức và sự đồng cảm giúp các cá nhân vượt qua các rào cản
về kiến thức và kỹ năng để cảm thấy việc trở thành một doanh nhân xã hội là khả thi.
4.2 Kết quả nghiên cứu thứ hai về tác động của giáo dục KSKDXH và kinh nghiệm làm việc với các tổ
chức xã hội đến ý định KSKDXH
4.2.1 Kiểm định mô hình đo lường
Cronbach’s alpha và độ tin cậy tổng hợp của các biến đều lớn hơn 0.7, cho thấy mô hình thỏa mãn độ tin
cậy (Nunnally và Bernstein, 1978). Giá trị của AVE đều trên 0.5, điều này cho thấy tính hợp lệ của từng cấu
trúc trong mô hình (Fornell và Larcker, 1981).
Giá trị phân biệt được đánh giá bằng cách so sánh căn bậc hai của AVE với hệ số tương quan giữa các cấu
trúc (Fornell và Larcker, 1981). Căn bậc hai của AVE (tô đậm) đều lớn hơn các hệ số trong cùng một cột. Do
đó, các thang đo đều đạt giá trị phân biệt.
Ngoài ra, giá trị phân biệt còn được đo lường bằng cách đánh giá hệ số tải chéo (cross loading) của các biến
quan sát và chỉ số Heterotrait-Monotrait Ratio (HTMT) (Henseler và cộng sự, 2015). Trong mô hình này, các
hệ số tải nhân tố đều lớn hơn 0.5 (từ 0.609 đến 0.917) và lớn hơn hệ số tải chéo. Tóm lại, hệ số tải và hệ số tải
chéo đều xác nhận các biến trong mô hình đều đạt giá trị phân biệt.
Tất cả các giá trị HTMT đều nhỏ hơn giá trị ngưỡng yêu cầu của HTMT là 0.90, cho thấy các thang đo cho
nghiên cứu này đều đạt giá trị phân biệt. Hơn nữa, kết quả cho thấy rằng không có giá trị nào thấp hơn hay cao
hơn khoảng tin cậy (CI) bao gồm giá trị 1. Như vậy, các cấu trúc trong nghiên cứu này đều đạt được giá trị hội
tụ và giá trị phân biệt.
4.2.2 Kiểm định mô hình cấu trúc
Giá trị R2 cho biến sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH, kết quả mong đợi từ KSKDXH và ý định
KSKDXH lần lượt là 0.125; 0.717 và 0.229 được coi là chấp nhận được (Cohen, 2013). Ngoài ra, tác giả đã sử dụng Q2 để đánh giá mức độ phù hợp mô hình (Chin, 2010). Dựa trên kỹ thuật Blindfolding, Q2 về năng lực bản thân doanh nhân xã hội, kỳ vọng kết quả KDXH và ý định KDXH lần lượt là 0.044; 0.336 và 0.125, cho
thấy các mô hình nghiên cứu khả năng dự đoán vừa và mô hình phù hợp để đự đoán ý định KSKDXH (Hair
và cộng sự, 2016).
T-test với kỹ thuật Bootstrapping (N = 5000) được áp dụng để kiểm tra các tác động trực tiếp. Kết quả chi
tiết được thể hiện trong hình 4.2. Các giả thuyết H1, H2 và H3 kiểm tra các mối quan hệ trực tiếp trong mô
21
hình lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp (từ SESE, SEOE đến SEI và từ SESE đến SEOE). Kết quả cho
thấy các tác động trực tiếp này tích cực và có ý nghĩa, do đó, H1 (β = 0.429, p < 0.000), H2 (β = 0.135, p <
0.000) và H3 (β = 0.829, p < 0.000) được chấp nhận. Ngoài ra, giáo dục KSKDXH có liên quan tích cực với
sự tự tin vào năng lực trong KDXH, nhưng mối quan hệ giữa giáo dục KSKDXH và kết quả mong đợi không
có ý nghĩa, nghĩa là H4 (β = 0.208, p < 0.000) được chấp nhận trong khi H5 (β = -0.010, p > 0.05) bị bác bỏ.
Kinh nghiệm trước đây với các tổ chức xã hội cũng liên quan tích cực với sự tự tin vào năng lực trong KDXH
và kết quả mong đợi từ KSKDXH, do đó giả thuyết H6 (β = 0.161, p < 0.001) và H7 (β = 0.073, p < 0.05)
Nguồn: tính toán của tác giả
được chấp nhận.
Hình 4.2. Kết quả kiểm định các giả thuyết (H1 – H7)
4.2.3 Kiểm tra tác động trung gian
Tác giả đã sử dụng quy trình bốn bước được đề xuất bởi Baron và Kenny (1986) để kiểm tra các hiệu ứng
trung gian (Bảng 4.3).
Ở bước 1, hai biến độc lập giáo dục KSKDXH và kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội (EDU và
EXP) ảnh hưởng tích cực đến biến phụ thuộc ý định KSKDXH (SEI).
Trong bước 2 và 3, EXP và EDU có tác động đến hai biến trung gian (sự tự tin và năng lực KSKDXH -
SESE và kết quả mong đợi từ KSKDXH - SEOE), hai biến trung gian này cũng ảnh hưởng đáng kể đến SEI;
và SESE ảnh hưởng đáng kể đến SEOE.
Ở bước 4, khi kiểm tra tác động của EDU, EXP, SESE và SEOE đến SEI, kết quả cho thấy tất cả các mối
quan hệ ở bước 2 và 3 đều được hỗ trợ, trong khi liên quan đến tác động trực tiếp của hai tiền đề (EDU và
EXP) ở bước 1, kết quả tại bước này chỉ hỗ trợ mối quan hệ giữa EDU và SEI, mối quan hệ giữa EXP và SEI
không có ý nghĩa. Do đó, kết quả cho thấy tác động trung gian tuần tự hoàn toàn của sự tự tin và năng lực
KSKDXH (SESE) và kết quả mong đợi từ KSKDXH (SEOE) trong mối quan hệ từ kinh nghiệm (EXP) đến ý
định KSKDXH (SEI), trong khi đó sự tự tin vào năng lực bản thân khi KSKDXH (SESE) chỉ trung gian một
phần tác động của giáo dục (EDU) đến ý định KSKDXH (SEI).
22
Bảng 4.3 Kết quả kiểm định tác động trung gian
phụ Biến Trung gian Các bước phân tích Biến nghiên cứu thuộc
SESE SEOE SEI
EDU Bước 1 Biến độc lập EXP 0.293c 0.110a
EDU 0.209c 0.163c
Biến độc lập Bước 2 và bước 3 EXP 0.161 b 0.207a
SESE 0.843c 0.409c Biến trung gian SEOE
EDU 0.208c -0.010 0.155c 0.185c
Biến độc lập
a<.05, b<.01, c<.001
Ghi chú: EDU: giáo dục KSKDXH, EXP: kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội, SESE: sự tự tin vào năng lực
KSKDXH, SEOE: kết quả mong đợi từ KSKDXH, SEI: ý định KSKDXH
Nguồn: tính toán của tác giả
EXP 0.161 b Bước 4 SESE 0.073a 0.829c 0.011 0.386c Biến trung gian SEOE 0.123b
Hai giá trị: chỉ số CI (Confidence interval) thông qua quy trình Bootstrapping với số mẫu là 5.000 và chỉ
số Variance accounted for (VAF) được tính toán để xác nhận các hiệu ứng trung gian đã được xác nhận ở bước
trên.
Bảng 4.4 Kiểm định bổ sung về tác động trung gian
Kiểm định bổ sung về tác động trung gian
Mức ý nghĩa 95% Biến độc lập biến trung VAF Point of estimate Confidence interval gian biến phụ thuộc
EXP-SESE-SEOE-SEI 0.020 0.005 - 0.044 0.9283
Nguồn: tính toán của tác giả
EDU-SESE-SEI 0.046 0.018 - 0.042 0.3026
Quy trình bootstrapping với 5.000 mẫu cho thấy EDU và EXP có ảnh hưởng gián tiếp đến SEI (Bảng 4.4).
Độ lệch với mức ý nghĩa 95% của độ tin cậy (Confidence interval) không bao gồm giá trị (0.005 – 0.044 và
0.008 – 0.042). Chỉ số VAF (variance accounted for) xác định giá trị của hiệu ứng gián tiếp liên quan đến tổng
hiệu ứng (nghĩa là, hiệu ứng trực tiếp + hiệu ứng gián tiếp) (Hair và cộng sự, 2016). Giá trị VAF cho thấy tác
động trung gian một phần của SESE đối với mối quan hệ EDU-SEI (30.26%), trong khi đó, tác động trung
gian hoàn toàn của SESE và SEOE đối với các mối quan hệ từ EXP đến SEI (92.83%). Tóm lại, kết quả từ các
thử nghiệm tác động trung gian đều cho thấy SESE và SEOE trung gian hoàn toàn mối quan hệ từ EXP đến
23
SEI trong khi SESE chỉ trung gian một phần mối quan hệ từ EDU đến SEI, do đó giả thuyết H8b được chấp
nhận và giả thuyết H8a bị bác bỏ.
4.3.4 Thảo luận kết quả nghiên cứu thứ hai về mối quan hệ giữa giáo dục, kinh nghiệm và YĐKSKDXH
Kết quả phân tích các giả thuyết cho thấy cả ba giả thuyết dựa trên lý thuyết nhận thức xã hội nghề nghiệp
(SCCT) (tức là, H1, H2 và H3) đều có ý nghĩa. Cả hai tiền đề của lý thuyết này bao gồm niềm tin vào năng
lực KSKDXH và kết quả kỳ vọng từ KSKDXH đều có tác động trực tiếp và tích cực đến YĐKSKDXH (H1:
β = 0.429, p < 0.001, H2: β = 0.135, p < 0.001), trong khi niềm tin vào năng lực KSKDXH lại có tương quan
mạnh kết quả kỳ vọng từ KSKDXH (H3: β = 0.829, p < 0.001). So với kết quả kỳ vọng từ KSKDXH, niềm
tin vào năng lực KSKDXH được phát hiện có tác động mạnh mẽ hơn đến YĐKSKDXH. Phát hiện này tương
tự như các nghiên cứu trước đây đã xác định năng lực bản thân là yếu tố dự báo mạnh nhất cho YĐKSKD của
cá nhân (Akar and Ustuner, 2017; Bacq and Alt, 2018; Liguori và cộng sự, 2018). Đối với giả thuyết H3, kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng những cá nhân có niềm tin vào năng lực KSKDXH cao có thể đánh giá kết quả
kỳ vọng từ KSKDXH một cách toàn diện hơn, trong khi những người thiếu niềm tin vào năng lực KSKDXH
có thể không nhận ra lợi ích của việc KSKDXH. Nói tóm lại, kết quả cho thấy rằng nếu các cá nhân tin tưởng
nhiều hơn vào khả năng của họ trong KSKDXH và có kỳ vọng kết quả tích cực vào KSKDXH, họ sẽ có nhiều
khả năng thành lập một DNXH trong tương lai. Các giả thuyết được chấp nhận giúp xác nhận khả năng áp
dụng lý thuyết nhận thức xã hội nghề nghiệp (SCCT) trong bối cảnh kinh doanh xã hội, từ đó bổ sung thêm
khả năng áp dụng lý thuyết này trong những lĩnh vực khác nhau.
Tiếp theo, kết quả của giả thuyết H4 (β = 0.208, p < 0.001) là có ý nghĩa trong khi H5 (β = - 0.010, p >
0.05) không có ý nghĩa. Giáo dục KSKDXH chỉ có mối liên hệ tích cực với niềm tin vào năng lực KSKDXH,
chứ không có tác động đến kết quả kỳ vọng từ KSKDXH. Kết quả H4 ngụ ý rằng giáo dục có thể cung cấp
kiến thức và kỹ năng cho các cá nhân để tự tin hơn về khả năng thành lập doanh nghiệp xã hội. Các cá nhân
nhận được sự giáo dục KSKDXH nhiều hơn sẽ có niềm tin cao hơn; phát hiện này phù hợp với Shahab và cộng
sự (2019), Piperopoulos và Dimov (2015) và Von Graevenitz và cộng sự (2010) khi cho rằng niềm tin vào
năng lực là phương tiện để có thể dự báo được về chất lượng giáo dục. Tuy nhiên, giả thuyết H5 lại không có
ý nghĩa biểu thị rằng giáo dục KSKDXH không có tác động đến kết quả kỳ vọng từ KSKDXH. Kết quả thú vị
này ngụ ý rằng kiến thức và kỹ năng có được từ giáo dục KSKDXH không thể dẫn đến thái độ tích cực của
những cá nhân đối với kết quả mà một doanh nhân xã hội có thể đạt được. Điều này có thể được giải thích là
do kết quả kỳ vọng trong KDXH rất khó hình dung. Do đó, giáo dục không đủ khả năng để thuyết phục các cá
nhân về kết quả mong đợi của việc trở thành một doanh nhân xã hội.
Đối với giả thuyết H6 và H7, kết quả cho thấy cả hai đều có ý nghĩa. Kinh nghiệm với các tổ chức xã hội
có tác động tích cực trực tiếp với niềm tin vào năng lực KSKDXH (H6: β = 0.161, p <0.01) và kỳ vọng kết
quả SE (H7: β = 0.073, p < 0.05). Kinh nghiệm với các tổ chức xã hội giúp các cá nhân có được niềm tin hơn
bằng cách cung cấp kiến thức thực tế mà giáo dục không thể cung cấp được. Ngoài ra, không chỉ được tiếp
xúc với các vấn đề xã hội để ra tạo niềm tin trong việc giải quyết chúng, kinh nghiệm với các tổ chức xã hội
còn khiến các cá nhân đồng cảm và hình thành mong muốn giải quyết các vấn đề xã hội (Mair và Noboa,
2006). Kinh nghiệm cũng có thể kích thích sự quan tâm đến tinh thần kinh doanh xã hội thông qua việc quan
sát các kết quả tích cực trong thực tế mà các doanh nhân xã hội thành công đã đạt được. Do đó, càng có nhiều
kinh nghiệm trước đây của một cá nhân với các tổ chức xã hội, một cá nhân càng có được niềm tin cũng như
phát triển những kỳ vọng tích cực về việc trở thành một doanh nhân xã hội.
Liên quan đến phân tích kết quả của các tác động trung gian, kết quả giả thuyết H8a cho thấy rằng chỉ có
niềm tin vào năng lực KSKDXH trung gian cho mối quan hệ giữa mối quan hệ giữa giáo dục và YĐKSKDXH
24
trong khi kết quả kỳ vọng từ KSKDXH lại không có tác động trung gian trong mối quan hệ này. Cụ thể, tác
động gián tiếp của EDU-SESE-SEI (giáo dục KSKDXH - niềm tin vào năng lực KSKDXH - YĐKSKDXH)
có ý nghĩa (p < 0.05; Khoảng tin cậy: 0.018 - 0.042). Phát hiện này là một bổ sung cho một vài nghiên cứu
trước đây khi đã tìm thấy mối liên hệ gián tiếp giữa giáo dục và YĐKSKDXH thông qua một số biến trung
gian như nhận thức về hỗ trợ xã hội (Hockerts, 2018) và nền tảng gia đình doanh nhân (Bae và cộng sự, 2014).
Trong nghiên cứu này, vai trò trung gian của niềm tin vào năng lực KSKDXH được kiểm chứng ngụ ý rằng
quá trình chuyển đổi giáo dục KSKDXH thành thực tiễn dưới dạng YĐKSKDXH đòi hỏi một cơ chế trung
tâm để xây dựng niềm tin cho một cá nhân thông qua tăng cường hiệu quả cho các khóa học.
Kết quả cho giả thuyết trung gian còn lại (H8b) được ủng hộ, niềm tin vào năng lực KSKDXH và kết quả
kỳ vọng từ KSKDXH trung gian hoàn toàn tác động từ kinh nghiệm với các tổ chức xã hội đến YĐKSKDXH.
Tác động gián tiếp của EXP-SESE-SEOE-SEI (kinh nghiệm với các tổ chức xã hội - niềm tin vào năng lực
KSKDXH - kết quả kỳ vọng từ KSKDXH – YĐKSKDXH) có ý nghĩa (p <0.05; Khoảng tin cậy: 0.005-0.044).
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của Hockerts (2017) và Lacap và cộng sự (2018) trong đó cho rằng
kinh nghiệm với các tổ chức xã hội là một yếu tố dự báo quan trọng về YĐKSKDXH. Ngoài ra, tác động gián
tiếp của kinh nghiệm đến YĐKSKDXH cũng đã được nghiên cứu trong một số nghiên cứu trước với các yếu
tố trung gian như cảm nhận về tính khả thi, cảm nhận về sự mong muốn (Ayob và cộng sự, 2013) hoặc sự đồng
cảm, nghĩa vụ đạo đức và nhận thức về hỗ trợ xã hội (Hockerts, 2017; Lacap và cộng sự, 2018). Do đó, kết
quả của nghiên cứu này không chỉ ủng hộ các quá trình chuyển đổi các kinh nghiệm xã hội tích lũy thành ý
định mà còn làm rõ một cơ chế trung gian thay thế thông qua niềm tin vào năng lực KSKDXH và kết quả kỳ
vọng từ KSKDXH. Phát hiện này ngụ ý rằng kinh nghiệm với các tổ chức xã hội không thúc đẩy trực tiếp
YĐKSKDXH, mà nó thúc đẩy nuôi dưỡng niềm tin của các cá nhân cũng như kích thích những kỳ vọng tích
cực giúp nâng cao YĐKSKDXH.
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
5.1 Đóng góp về mặt lý thuyết
5.1.1 Đóng góp lý thuyết từ hai lược khảo về KSKDXH và ý định KSKDXH
Đây là nghiên cứu đầu tiên thực hiện tổng quan một cách có hệ thống (systematic literature review) các
nghiên cứu về ý định KSKDXH, đây cũng là nghiên cứu đầu tiên thực hiện tổng quan các nghiên cứu về ý
định KSKDXH. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ý định khởi sự KDXH giúp khám phá những khoảng trống
nghiên cứu và những hướng nghiên cứu mới, tiềm năng trong tương lai.
5.1.2 Đóng góp về lý thuyết của nghiên cứu thứ nhất về mối quan hệ giữa tính cách và ý định KSKDXH
Thứ nhất, kết quả cho thấy hai yếu tố của mô hình của Mair và Noboa (2006) là nhận thức về tính khả thi
KSKDXH, nhận thức sự mong muốn KSKDXH có khả năng dự đoán được ý định KSKDXH và trung gian
trong mối quan hệ từ các tính cách đến ý định KSKDXH. Thứ hai, kết quả cho thấy, tính chủ động, tính sáng
tạo, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức có tác động tích cực đến ý định KSKDXH. Cuối cùng, hai biến trung
gian (nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính khả thi) trung gian mối quan hệ từ tính chủ động đến
ý định KSKDXH và trung gian một phần mối quan hệ từ nghĩa vụ đạo đức đến ý định KSKDXH. Ngoài ra,
chỉ có nhận thức về tính khả thi trung gian hoàn toàn tác động từ tính sáng tạo đến ý định KSKDXH và trung
gian một phần mối quan hệ từ sự đồng cảm đến ý định KSKDXH.
25
5.1.3 Đóng góp về lý thuyết của nghiên cứu thứ hai về mối quan hệ giữa giáo dục, kinh nghiệm và ý định
KSKDXH
Đầu tiên, nghiên cứu này khẳng định khả năng ứng dụng của lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp
để dự đoán ý định KSKDXH. Thứ hai, kết quả cho thấy vai trò quan trọng của giáo dục, kinh nghiệm với ý
định KSKDXH thông qua sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả mong đợi từ KSKDXH.
Nghiên cứu này đã đóng góp cho sự hiểu biết về các khía cạnh khác của kinh nghiệm và giáo dục trong lĩnh
vực nghiên cứu về ý định KSKDXH, cụ thể kinh nghiệm được đo lường bằng kinh nghiệm làm việc với các
tổ chức xã hội và giáo dục được đo lường bằng cảm nhận về trải nghiệm giáo dục KSKDXH. Thứ ba, kết quả
đã đóng góp cho cơ sở lý thuyết về ý định KSKDXH bằng cách khám phá hai tác động trung gian của sự tự
tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả mong đợi từ KSKDXH trong mối quan hệ từ giáo dục
KSKDXH và kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội đến ý định KSKDXH.
5.2 Đóng góp chung về mặt thực tiễn của luận án
Luận án thực hiện lược khảo YĐKSKDXH, lược khảo này giúp những nhà nghiên cứu mới khi tìm hiểu về
các chủ đề này sẽ có được cái nhìn tổng quát về những cấu trúc chính, những hướng nghiên cứu chính trong
YĐKSKDXH. Các nhà hoạch định chính sách, những người vốn rất ít tiếp xúc với các vấn đề học thuật cũng
có thể tiếp cận chủ đề về KSKDXH một cách dễ dàng hơn để tìm hiểu và xây dựng chiến lược phát triển
KDXH. Ví dụ, các công cụ để đo lường và phát hiện những cá nhân tiềm năng để tập trung nguồn lực giúp họ
trở thành doanh nhân xã hội thay vì đầu tư đại trà gây tổn thất và lãng phí.
Nghiên cứu thực nghiệm trong luận án này cung cấp những hiểu biết thực tế cho các nhà hoạch định chính
sách và các nhà giáo dục KSKD. Các nhà hoạch định chính sách nên phát triển một môi trường thúc đẩy tính
chủ động, sáng tạo, khơi gợi sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức - đây là những tính cách ảnh hưởng đến ý định
KSKDXH. Các nhà hoạch định chính sách có thể tổ chức và thiết kế các chương trình giúp sinh viên nhận thức
rõ hơn về tinh thần KDXH, tư vấn và hỗ trợ các ý tưởng và giải pháp sáng tạo. Điều này giúp tăng khát vọng
của các doanh nhân xã hội tiềm năng và khiến họ cảm thấy có khả năng trở thành doanh nhân xã hội hơn khi
nhận được nhiều hỗ trợ xã hội. Doanh nhân xã hội tiềm năng có tính cách tương tự như doanh nhân thương
mại. Do đó, phát triển nhiều tính cách hơn cho các doanh nhân thương mại tiềm năng cũng là một chiến lược
phát triển phù hợp để tăng số lượng doanh nhân xã hội. Các khóa học kinh doanh hiện tại nên được mở rộng
để trang bị kiến thức và kỹ năng KSKDXH. Điều này sẽ không chỉ cải thiện nhận thức KSKDXH mà còn trang
bị các khả năng cần thiết cho cả doanh nhân thương mại và doanh nhân xã hội trong tương lai. Các nhà giáo
dục có thể tạo ra nhiều cơ hội để trải nghiệm thực hành với các nhiệm vụ liên quan đến xã hội để giúp khơi
gợi những tính cách KDXH từ sinh viên. Ngoài ra, kinh nghiệm với các vấn đề xã hội trong các công việc tình
nguyện hoặc tiếp xúc trực tiếp với các doanh nhân xã hội có thể trở thành động lực cho một cá nhân trở thành
một doanh nhân xã hội.
Các phát hiện cho thấy ý định KSKDXH có thể được dự đoán bằng sự tự tin vào năng lực bản thân trong
KDXH và kết quả kỳ vọng từ KSKDXH. Sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả kỳ vọng từ
KSKDXH có thể được phát triển thành các công cụ đo lường để đo lường sự tự tin, kỳ vọng và khả năng theo
đuổi tinh thần KSKDXH như một nghề nghiệp. Các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng hai công cụ này
để tìm ứng viên phù hợp.
Trong hai yếu tố của lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp, sự tự tin vào năng lực bản thân có tác động
mạnh hơn đến ý định KSKDXH so với kết quả mong đợi. Do đó, các chiến lược làm tăng sự tự tin cho các
doanh nhân xã hội tiềm năng nên được ưu tiên triển khai như trang bị kiến thức và kỹ năng KSKDXH cho
những đối tượng này, xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển DNXH
26
và cung cấp nguồn vốn để phát triển và khởi sự DNXH. Ưu tiên chiến lược tiếp theo nhắm đến việc làm tăng
nhận thức về kết quả mong đợi của việc trở thành doanh nhân xã hội. Giáo dục, truyền thông và chính phủ cần
hợp tác nhiều hơn để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các DNXH và những gì một doanh nhân xã
hội có thể đạt được. Các DNXH thành công hoặc những đóng góp của các DNXH cần được đưa vào chương
trình giáo dục và xuất hiện nhiều hơn trên báo chí hoặc mạng xã hội để có thể nâng cao nhận thức của người
dân, giúp hình thành những hình mẫu lý tưởng (role model) để thế hệ trẻ noi gương và phát triển theo.
Ngoài ra, trong nghiên cứu này, tác giả mở rộng hai yếu tố môi trường khác bao gồm giáo dục KSKDXH
và kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội. Kết quả nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục KSKDXH
để trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết để hình thành ý định KSKDXH. Các kiến thức và kỹ năng cần được
cập nhật liên tục theo các vấn đề xã hội mới nhất để các cá nhân cảm thấy tự tin vào khả năng KSKDXH của
mình. Chương trình đào tạo và các khóa đào tạo nên nhằm mục đích trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết
cũng như giữ vai trò như nhà tư vấn, định hướng cho các doanh nhân xã hội tiềm năng. Các hoạt động thực tế
với các tổ chức xã hội không chỉ giúp người học có được kinh nghiệm với các vấn đề xã hội mà còn giúp đào
tạo các kỹ năng xã hội và truyền bá tinh thần kinh doanh KSKDXH. Các mạng lưới doanh nhân xã hội cũng
cần được thiết lập để kết nối với các doanh nhân xã hội với những doanh nhân xã hội tiềm năng. Cách này sẽ
giúp những người muốn trở thành doanh nhân xã hội học được các kỹ năng và kiến thức cũng như duy trì động
lực và nhiệt huyết để tham gia vào hoạt động KDXH.