BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN KHÁNH

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ

ĐẾN NỢ CÔNG

TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN KHÁNH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ

ĐẾN NỢ CÔNG TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á

Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế “Tác động của yếu tố kinh tế vĩ mô

đến nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á” là kết quả nghiên cứu của

riêng tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn dưới sự hướng

dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng.

Các thông tin, số liệu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi

hoàn toàn chịu trách nhiệm rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và

chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.

Tp. Hồ Chí Minh, ngày…. tháng……năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Khánh

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................... 1

1.1. Lý do chọn đề tài. .............................................................................................. 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu. ......................................................................................... 2

1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu. .......................................... 2

1.4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................. 2

1.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. ............................................................. 3

1.6. Kết cấu của đề tài. ............................................................................................. 4

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................. 5

2.1. Tổng quan lý thuyết về “nợ công”. ................................................................... 5

2.1.1. Khái niệm “nợ công”. ........................................................................................ 5

2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của “nợ công”. ................................................................ 7

2.1.3. Mức an toàn của nợ công và sự tác động của nợ công đến nền kinh tế. ........... 8

2.1.4. Phân loại “nợ công”......................................................................................... 13

2.2. Các yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến nợ công. ............................................. 14

2.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP. ............................................................................ 14

2.2.2. Thâm hụt ngân sách. .................................................................................... 16

2.2.3. Lãi suất thực tế. ............................................................................................ 17

2.2.4. Tỷ giá hối đoái. ............................................................................................ 18

2.2.5. Các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. .................................................................... 18

2.3. Các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài. ............................. 19

Kết luận chương 2 ....................................................................................................... 23

CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 24

3.1. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết đặt ra. ................................................. 24

3.1.1. Mô hình nghiên cứu. .................................................................................... 24

3.1.2. Giả thuyết nghiên cứu. ................................................................................. 26

3.2. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................................ 28

3.3. Dữ liệu nghiên cứu. ......................................................................................... 30

Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 31

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................... 32

4.1. Thực trạng tình hình nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. ...... 32

4.2. Thực trạng về những yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến tình hình nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. ................................................................. 35

4.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP. ............................................................................ 35

4.2.2. Thâm hụt ngân sách. .................................................................................... 38

4.2.3. Lãi suất thực tế. ............................................................................................ 40

4.2.4. Tỷ giá hối đoái. ............................................................................................ 42

4.3. Thống kê mô tả các biến.................................................................................. 43

4.4. Kết quả ước lượng hồi quy mô hình nghiên cứu. ............................................ 44

4.4.1. Kết quả ước lượng. ...................................................................................... 44

4.4.2. Kết quả kiểm định các giả định của mô hình hồi quy. ................................ 45

4.4.2.1.Phân tích tương quan. .............................................................................. 45

4.4.2.2. Hiện tượng đa cộng tuyến. ................................................................... 47

4.4.2.3. Hiện tượng tự tương quan. ................................................................... 47

4.4.2.4. Hiện tượng phương sai sai số thay đổi. ................................................ 48

4.4.2.5. Phân phối chuẩn của phần dư. .............................................................. 48

4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu. ........................................................................ 50

Kết luận chương 4 ....................................................................................................... 56

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................................... 57

5.1. Kết luận. .......................................................................................................... 57

5.2. Khuyến nghị cho các nước Đông Á và Đông Nam Á. .................................... 59

5.2.1. Về tăng trưởng kinh tế. ................................................................................ 59

5.2.2. Về ngân sách nhà nước. ............................................................................... 60

5.2.3. Về lãi suất thực tế. ....................................................................................... 61

5.2.4. Về tỷ giá hối đoái. ........................................................................................ 62

5.3. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo. .................................... 62

5.3.1. Hạn chế của luận văn. .................................................................................. 62

5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo. ....................................................................... 63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI

Fixed Effects Model Mô hình tác động cố định FEM

Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Ordinary Least Square Phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS

Random Effects Model Mô hình tác động ngẫu nhiên REM

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Mô tả về các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu ........................ 25

Bảng 4.1. Thống kê mô tả về tình hình nợ công trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm

2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................................................... 32

Bảng 4.2. Thống kê mô tả về tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm 2010 đến

năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .................................................. 36

Bảng 4.3. Thống kê mô tả về tình hình thâm hụt/thăng dư ngân sách trong giai đoạn từ

năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................... 38

Bảng 4.4. Thống kê mô tả về lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm

2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................................................... 40

Bảng 4.5. Thống kế mô tả các biến của mô hình nghiên cứu của các quốc gia Đông Á

và Đông Nam Á ............................................................................................................ 43

Bảng 4.6. Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu ............................................ 44

Bảng 4.7. Hệ số tương quan của các biến ..................................................................... 46

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện giá trị trung bình của nợ công trong giai đoạn từ năm 2010

đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ........................................... 33

Hình 4.2. Biểu đồ giá trị trung bình tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm 2010 đến

năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .................................................. 36

Hình 4.3. Biểu đồ giá trị trung bình thâm hụt/thặng dự ngân sách trong giai đoạn từ

năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................... 39

Hình 4.4. Biểu đồ giá trị trung bình của lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm 2010

đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ........................................... 41

Hình 4.5. Biểu đồ tỷ giá hối đoái trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của các

quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ................................................................................ 42

Hình 4.6. Biểu đồ Histogram về phân phối chuẩn của phần dư ................................... 49

Hình 4.7. Biểu đồ P – P Plot về phân phối chuẩn của phần dư .................................... 49

Hình 4.8. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và thâm hụt ngân sách ở một số

nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á .............................................................. 52

Hình 4.9. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế ở một số quốc

gia khu vực Đông Á và Đông Nam Á ........................................................................... 54

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1. Lý do chọn đề tài.

Đối với mỗi giai đoạn trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội, Chính phủ của

mỗi quốc gia cần huy động các nguồn lực từ trong nước và nước ngoài để vận hành các

chức năng quản lý Nhà nước cũng như thực hiện nhiệm vụ đối với nền kinh tế và toàn

xã hội. Khi các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí không đủ đáp ứng được nhu cầu chi tiêu,

Chính phủ phải quyết định vay nợ - khoản nợ đó thường được gọi là nợ công. Nợ công

là nguồn tài trợ rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế và không thể thiếu trong ngân

sách của bất kỳ quốc gia nào để phục vụ nhu cầu chi tiêu và sử dụng vào những mục

đích khác nhau của mỗi Chính phủ.

Đông Á và Đông Nam Á là 02 khu vực chiến lược của châu Á, có ảnh hưởng

lớn đến kinh tế và chính trị của khu vực cũng như thế giới. Bên cạnh đó, đây là 02 khu

vực có quan hệ mật thiết về kinh tế và chính trị bao gồm các nước thuộc Hiệp hội các

quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó có Việt Nam và các nước có quan hệ đối

tác chiến lược trong khu vực. Tại Đông Á và Đông Nam Á, một trong những vấn đề

lớn mà Chính phủ các nước đang rất quan tâm đó là tình hình nợ công và quản lý nợ

công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến tình hình nợ công đã và

đang là chủ đề thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và các

nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới. Hiện nay, việc nghiên cứu nhóm yếu tố kinh tế vĩ

mô tác động đến tình hình nợ công là vấn đề rất cấp thiết, góp phần đề ra các biện pháp

kiểm soát nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “TÁC ĐỘNG

CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ ĐẾN NỢ CÔNG TẠI CÁC QUỐC GIA

ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á” để thực hiện đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ

của mình.

2

1.2. Mục tiêu nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng nợ công và tác động của

những yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công tại các quốc gia khu vực Đông Á và Đông

Nam Á hiện nay. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị về yếu tố

kinh tế vĩ mô giúp Chính phủ các nước hoạch định và hoàn thiện quản lý nợ công trong

thời gian tới.

1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu.

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố kinh tế vĩ mô (04 yếu tố bao gồm: Tốc độ

tăng trưởng GDP, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, lãi suất thực tế và tỷ giá hối đoái tác động

đến tình hình nợ công.

1.3.2. Phạm vi thu thập dữ liệu.

- Không gian thu thập dự liệu: Các quốc gia Đông Á ( 05 nước bao gồm:

Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong) và các quốc gia Đông Nam

Á (10 nước bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Lào,

Cambodia, Myanmar, Brunei, Philipines).

- Thời gian thu thập dữ liệu: Dữ liệu được thu thập trong thời gian 08 năm từ

2010 đến 2017.

- Nguồn thu thập dữ liệu: Dữ liệu được thu thập từ Ngân hàng Thế giới

(World Bank) đối với các dữ liệu về tỷ giá hối đoái và dữ liệu về lãi suất thực tế; từ

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) đối với các dữ liệu về tình hình nợ

công, dữ liệu về tổng chi và tổng thu ngân sách của Chính phủ các quốc gia và dữ liệu

về tốc độ tăng trưởng GDP tại các quốc gia.

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

Tác giả sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, dữ liệu bảng với 03 mô

hình khác nhau là: mô hình ước lượng OLS thô (Pooled OLS), mô hình tác động ngẫu

3

nhiên (REM - Random Effects Model) và mô hình tác động cố định (FEM - Fixed

Effects Model) để đo lường mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến phụ

thuộc chính là tỷ lệ nợ công trên GDP của các quốc gia. Tiếp theo, để đảm bảo sự phù

hợp của mô hình, tác giả sẽ tiến hành thực hiện một số kiểm định Breusch-Pagan

Lagrangian để lựa chọn giữa Pooled OLS và REM (Baltagi, 2008 trang 319), kiểm

định Hausman để lựa chọn giữa REM và FEM (Baltagi, 2008 trang 320; Gujarati, 2004

trang 652).

Ngoài ra, tác giả tiến hành kiểm định các giả định hồi quy để đảm bảo kết quả

ước lượng của mô hình hồi quy là hiệu quả và đáng tin cậy: hiện tượng phương sai sai

số thay đổi; hiện tượng đa cộng tuyến; phần dư có phân phối chuẩn; hiện tượng tự

tương quan. Cuối cùng, nếu xảy ra hiện tượng tự tương quan hay phương sai sai số

thay đổi, phương pháp FGLS sẽ được sử dụng để kiểm soát các vi phạm này (Judge,

Hill et al, 1988).

1.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.

- Đóng góp về lý luận: Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các nền tảng kiến thức

tổng quát và các phương pháp định lượng, bài nghiên cứu góp phần củng cố thêm bằng

chứng khoa học thực nghiệm và bổ sung thêm vào kho tài liệu về chủ đề nghiên cứu

tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công của Chính phủ tại các quốc gia khu

vực Đông Á và Đông Nam Á. Đặc biệt hơn, điểm mới của bài nghiên cứu tiên phong

trong việc tác giả dựa trên cơ sở các nghiên cứu thực nghiệm trước đây để đề xuất mô

hình nghiên cứu gồm các biến phù hợp với tình hình thực tế tại các quốc gia Đông Á

và Đông Nam Á để làm rõ tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến tình hình nợ công

tại các nước này, trong đó có Việt Nam. Kết hợp kết quả bài nghiên cứu này với các

giả thuyết được xây dựng trước đây, bài nghiên cứu còn có ý nghĩa mở ra nhiều hướng

đi mới cho các nhà khoa học tìm hiểu sâu hơn về chủ đề này.

- Đóng góp về thực tiễn: Bài nghiên cứu tập trung xây dựng mô hình kiểm

định tác động của các yêu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công của Chính phủ tại các quốc gia

4

Đông Á và Đông Nam Á có nhiều nét tương đồng về vị trí địa lý tự nhiên, văn hóa và

điều kiện kinh tế xã hội, trong đó có Việt Nam với kỳ vọng bài nghiên cứu có ý nghĩa

thực tiễn cao. Kết quả nghiên cứu này nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định

chính sách về vấn đề mang tính thời sự hiện nay là quản lý nợ công, góp phần làm nền

tảng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như trong

công cuộc cải cách nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia khu vực Đông Á và Đông Nam Á

nói chung và Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho các nhà hoạch định

chính sách bằng chứng thực nghiệm về tác động của của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến

tình hình nợ công tại các nước Đông Á và Đông Nam Á để từ đó có thể xây dựng các

chính sách vĩ mô phù hợp trong từng giai đoạn khác nhau và có tác động tích cực đến

tình hình nợ công, góp phần ổn định và phát triển kinh tế một cách bền vững tại các

nước này trong thời gian tới.

1.6. Kết cấu của đề tài.

Luận văn được kết cấu thành 05 chương như sau:

- Chương 1: Giới thiệu.

Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây liên quan đến đề -

tài.

- Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu.

- Chương 4: Kết quả nghiên cứu.

- Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.

5

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

2.1. Tổng quan lý thuyết về “nợ công”.

2.1.1. Khái niệm “nợ công”.

Trong kho tàng kiến thức về kinh tế, có rất nhiều định nghĩa về “nợ công” khác

nhau được các nhà nghiên cứu trên thế giới đưa ra tùy thuộc vào phạm vi sử dụng,

mục đích tìm hiểu và dựa vào thể chế chính trị riêng tại từng quốc gia. Có một số khái

niệm về “nợ công” phổ biến trên thế giới thường được các nhà nghiên cứu sử dụng như

sau:

- Theo Ngân hàng Thế giới, “nợ công” là những khoản nợ do Chính phủ đi vay

và những khoản vay nợ được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm các khoản nợ của Chính

phủ từ mọi cấp trung ương đến các cấp địa phương đi vay. Cụ thể:

+ Các khoản vay nợ của Chính phủ: là một phần của nợ công gồm có các

khoản vay nợ trong nước và các khoản vay nợ từ nước ngoài của Chính phủ; của các

thành phố, tỉnh hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các doanh nghiệp có

vốn nhà nước.

+ Các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh: là một phàn của nợ công gồm các

khoản vay nợ trong nước và các khoản nợ từ nước ngoài của khu vực kinh tế tư nhân

để thực hiện các dự án kinh tế - xã hội được Chính phủ bảo lãnh.

- Theo định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, khái niệm “nợ công” được hiểu là

các nghĩa vụ nợ của toàn bộ khu vực công, bao gồm các khu vực tài chính công và các

khu vực phi tài chính công. Cụ thể trong đó:

+ Các khu vực tài chính công: bao gồm những tổ chức tiền tệ (các tổ chức tín

dụng Nhà nước, Ngân hàng trung ương) và những tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín

dụng không có chức năng cho vay mà chỉ hỗ trợ phát triển).

+ Các khu vực phi tài chính công: bao gồm Chính phủ, thành phố, tỉnh, bộ

máy chính quyền địa phương và các doanh nghiệp phi tài chính của Nhà nước.

6

- Theo Luật Quản lý nợ công năm 2017 được Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ

01 tháng 7 năm 2018, “nợ công” được phân loại thành 03 hình thức, bao gồm: các

khoản nợ Chính phủ, các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh và các khoản nợ của

chính quyền địa phương. Cụ thể, Điều 4, Chương I của Luật này quy định:

+ Các khoản nợ Chính phủ: bao gồm các khoản nợ do Chính phủ phát hành

các công cụ nợ; các khoản nợ do Chính phủ ký kết những thỏa thuận vay trong nước và

từ nước ngoài; các khoản nợ của ngân sách Trung ương do vay từ những quỹ dự trữ tài

chính của Nhà nước, ngân quỹ Nhà nước, các quỹ tài chính của Nhà nước ngoài ngân

sách.

+ Các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh: bao gồm các khoản nợ của các

doanh nghiệp mà được Chính phủ bảo lãnh; các khoản nợ của các ngân hàng chính

sách Nhà nước mà được Chính phủ bảo lãnh.

+ Các khoản nợ của chính quyền địa phương: bao gồm những khoản nợ do

phát hành các trái phiếu chính quyền tại địa phương; các khoản nợ do đi vay lại các

nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (nguồn vốn vay ODA), vay ưu đãi của nước

ngoài; những khoản nợ ngân sách của các địa phương vay từ các ngân hàng chính sách

của Nhà nước, các quỹ dự trữ tài chính cấp thành phố, tỉnh, từ ngân quỹ Nhà nước và

các khoản vay nơ khác theo quy định của pháp luật Nhà nước về ngân sách nhà nước.

Như vậy, “Nợ công” là một khái niệm rất phức tạp và có nhiều định nhĩa khác

nhau. Tuy nhiên, hầu hết các phương pháp tiếp cận ngày nay đều cho rằng, các khoản

nợ công là các khoản nợ do Chính phủ của một nước chịu trách nhiệm và phải chi trả

các khoản nợ đó. Chính vì thế, thuật ngữ “nợ công” thường được dùng đồng nghĩa với

những thuật ngữ kinh tế như nợ Nhà nước hoặc nợ Chính phủ và là một bộ phận cấu

thành nợ quốc gia. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, khái niệm “nợ công” được quy định

trong Luật tại Việt Nam được đánh giá hẹp hơn so với các thông lệ quốc tế có liên

quan.

7

Đối với cả 03 cách định nghĩa nợ công từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ

Quốc tế và trong Luật Quản lý nợ công năm 2017 của Việt Nam, cần lưu ý rằng “nợ

công” và “nợ Chính phủ” không phải là các khái niệm đồng nhất. Nợ Chính phủ trong

các khái niệm này chỉ là một yếu tố cấu thành trong tổng nợ công.

Tuy mỗi khái niệm được hình thành dựa trên các cách tiếp cận khác nhau và phù

hợp sử dụng cho từng hoàn cảnh cụ thể tại mỗi quốc gia nhưng có thể hiểu nợ công

theo một cách chung nhất, đó là tổng các khoản tiền đi vay của Chính phủ thuộc mọi

cấp của các cơ quan hành chính Nhà nước từ cấp trung ương đến các địa phương. Mục

đích khi thực hiện các khoản vay này nhằm tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu quá lớn và

xuất hiện tình trạng ngân sách bị thâm hụt. Do đó có thể hiểu nợ công chính là các

khoản thâm hụt ngân sách được cộng dồn tại một thời điểm nhất định tại một quốc gia.

Thông thường, để phản ánh đúng các giá trị của khoản nợ công tại một quốc gia, các

nhà kinh tế hay sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm giữa nợ công trong tổng sản phẩm

quốc nội (GDP) của nước đó.

2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của “nợ công”.

Hiện nay có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về “nợ công”, tuy nhiên, về cơ

bản, “nợ công” có những đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, “nợ công” là các khoản nợ được ràng buộc bởi trách nhiệm trả nợ của

Chính phủ. Khác với những khoản vay nợ thông thường, các khoản nợ công được xác

định đó là một khoản vay nợ mà Nhà nước (gồm cả các cơ quan hành chính Nhà nước

có thẩm quyền) chịu trách nhiệm chi trả cho các khoản nợ ấy. Trách nhiệm này của

Nhà nước được thể hiện thông qua 02 phương thức trả nợ trực tiếp và gián tiếp. Trả nợ

trực tiếp là phương thức mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính là người đi

vay; do đó, cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ vay. Ngược

lại, trả nợ gián tiếp là phương thức cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm

bảo lãnh cho một đối tượng khác trong nước vay nợ; khi bên vay nợ không có khả

8

năng trả được nợ thì trách nhiệm thanh toán sẽ thuộc về các cơ quan đã đứng ra bảo

lãnh.

Thứ hai, “nợ công” được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý theo quy

trình chặt chẽ. Quá trình quản lý tình hình nợ công yêu cầu phải có một quy trình

nghiêm ngặt để đảm bảo 02 mục đích: Đầu tiên, đó là phải đảm bảo khả năng thanh

toán nợ của các đơn vị được sử dụng vốn vay, và quan trọng hơn đó là đảm bảo cán

cân thanh toán được cân bằng và ổn định an ninh tài chính của quốc gia; tiếp theo, quá

trình sử dụng nguồn vốn vay phải mang lại hiệu quả. Ngoài ra, vấn đề quản lý tình hình

nợ công chặt chẽ còn mang ý nghĩa quan trọng về đảm bảo tình hình chính trị xã hội ổn

định. Nguyên tắc quản lý nợ công tại Việt Nam đó là Nhà nước quản lý thống nhất, tập

trung và toàn diện nợ công từ công tác huy động đến khi phân bổ, đưa vào sử dụng vốn

vay và cuối cùng là thanh toán các khoản nợ nhằm đảm bảo 02 mục tiêu quan trọng

trên.

Thứ ba, có thể nói mục tiêu cao nhất thông qua việc huy động và sử dụng các

khoản nợ công là dùng để phát triển kinh tế – xã hội tại mỗi quốc gia với mục đích

mang lại các lợi ích cho cộng đồng. Các khoản nợ công được sử dụng không nhằm

thỏa mãn bất kỳ lợi ích riêng nào của các cá nhân hay tổ chức nào, mà phải vì các lợi

ích chung to lớn của cộng đồng. Tại Việt Nam, bản chất của Nhà nước đó là thiết chế

dung để phục vụ các lợi ích chung của toàn xã hội, Nhà nước Việt Nam là Nhà nước

của dân, do dân và vì dân nên dĩ nhiên những khoản nợ công được huy động và sử

dụng phải dựa trên các lợi ích to lớn của nhân dân, mà cụ thể ở đây là với mục đích

phát triển kinh tế – xã hội đất nước và đó chính là điều kiện quan trọng nhất.

2.1.3. Mức an toàn của nợ công và sự tác động của nợ công đến nền kinh tế.

Để đánh giá và nhận định tính bền vững của tình hình nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ

công trên tổng GDP thường được xem là chỉ số phổ biến nhất trong các nghiên cứu đại

diện cho cách nhìn tổng quát nhất về tình hình nợ công tại một quốc gia. Tuy nhiên, chỉ

tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP chỉ phản ảnh được một phần về mức độ an toàn hoặc rủi ro

9

của các khoản nợ công. Mức độ an toàn của tình hình nợ công được thể hiện thông qua

tình trạng nợ công có vượt qua ngưỡng an toàn ở một thời điểm hay trong một giai

đoạn nào đó hay không. Mức độ an toàn hoặc rủi ro của các khoản nợ công của một

nước không chỉ phụ thuộc vào chỉ tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP mà còn phụ thuộc nhiều

hơn vào tình hình phát triển kinh tế tại quốc gia đó. Khi xem xét về nợ công, các nhà

nghiên cứu không chỉ phải quan tâm đến tổng nợ, số nợ phải trả định kỳ mà còn phải

quan tâm nhiều hơn tới các rủi ro và cơ cấu khoản nợ. Quan trọng nhất phải tính đó là

khả năng thanh toán khoản nợ và các rủi ro của nó trong tương lai, chứ không chỉ là

con số tổng nợ trên GDP. Một số tiêu chí được dùng để xem xét mức độ an toàn của

tình hình nợ công cụ thể như sau:

Một là, giới hạn nợ công nằm trong khoảng từ 50% – 60% trong tổng GDP hoặc

không được lớn hơn 150% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Theo Ngân

hàng Thế giới thì ngưỡng an toàn của nợ công được quy định là 50% GDP. Ngoài ra,

theo đánh giá của các tổ chức quốc tế thì tỷ lệ nợ công hợp lý là dưới mức 50% GDP

đối với các quốc gia đang phát triển;

Hai là, Chính phủ không sử dụng nhiều hơn 10% trong tổng số chi ngân sách để

trả nợ cũng như tối đa ở mức 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, không

có một hạn mức an toàn cụ thể chung nào dành cho cho các nền kinh tế. Trên thực tế,

tỷ lệ nợ công trên GDP thấp không đảm bảo sẽ nằm trong ngưỡng an toàn hoặc ngược

lại. Tại các quốc gia, mức độ an toàn còn phụ thuộc vào quy mô và sự phát triển của

nền kinh tế. Điển hình như Mỹ và Nhật Bản là 02 quốc gia có tỷ lệ nợ công cao (lần

lượt bằng 96% GDP và 200% GDP) nhưng vẫn được đánh giá nằm trong ngưỡng an

toàn. Ngược lại, nhiều nước tuy có tỷ lệ nợ công trên GDP khá thấp như Venezuela (tỷ

lệ nợ công bằng 15% GDP năm 1981), Ucraina (tỷ lệ là 13% GDP năm 2007) nhưng

sau đó vẫn rơi vào khủng hoảng nợ;

Tóm lại, việc xem xét và đánh giá về tình hình nợ công cũng như bản chất của

nó tại một quốc gia là đặc biệt quan trọng. Nếu như chỉ nhìn vào các vào số liệu thể

10

hiện tỷ lệ nợ công cao sẽ gây ra tâm lý thiếu tin tưởng vào Nhà nước, hoang mang

trong người dân, dẫn đến tình trạng kích động và làm căng thẳng xã hội tăng cao, dễ

gây ra tình trạng rối loạn chính trị, kinh tế.

Quan điểm của Keynes đã cho rằng: Trong ngắn hạn, khi Chính phủ đi vay nợ

để bù đắp cho việc thâm hụt ngân sách Nhà nước trong điều kiện mức chi tiêu công

không đổi thì làm tăng khả năng tiêu dùng trong bộ phận dân cư, điều đó dẫn đến làm

gia tăng tổng cầu về các hàng hóa, thương mại dịch vụ, làm tăng sản lượng và nhu cầu

việc làm. Dựa trên quan điểm trên, có thể thấy một số tác động chủ yếu mang tính tích

cực của nợ công như sau:

Thứ nhất, nợ công sẽ làm tăng lên các nguồn lực cho Chính phủ, từ đó làm gia

tăng nguồn vốn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tăng khả năng cho sự

đầu tư đồng bộ khác của Nhà nước. Để cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ và nhanh

chóng đòi hỏi quan trọng nhất là phải có nguồn vốn để thực hiện. Bằng các chính sách

huy động từ các khoản nợ công hợp lý sẽ giải quyết được từng bước các nhu cầu về

vốn để có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng, qua đó sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất cho

toàn bộ nền kinh tế;

Thứ hai, nợ công cũng góp phần tận dụng hiệu quả các nguồn tài chính đang

nhàn rỗi của bộ phận dân cư. Có một bộ phận không nhỏ dân cư trong xã hội với các

khoản tiết kiệm của mình, thông qua sự huy động của Nhà nước để các khoản tiền này

được sử dụng và mang lại những hiệu quả kinh tế to lớn cho cả khu vực công và khu

vực tư;

Thứ ba, nợ công sẽ làm tận dụng được các sự hỗ trợ quan trọng từ nước ngoài

cũng như những tổ chức tài chính quốc tế. Các khoản tài trợ quốc tế chính là một trong

những hoạt động quan trọng về kinh tế và ngoại giao của các quốc gia phát triển nhằm

có được tầm ảnh hưởng lớn đến các quốc gia kém phát triển hơn để đạt được những

chương trình hợp tác kinh tế và chính trị song phương. Nếu như tận dụng tốt các cơ hội

này thì các quốc gia sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để có thể đầu tư và phát triển

11

cơ sở hạ tầng trong nước, trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của đối tác,

đồng thời đảm bảo về độc lập và chủ quyền của đất nước.

Một sự việc nào cũng bao gồm hai mặt đối lập của nó. Bên cạnh các tác động

mang tính tích cực, có thể nói nợ công cũng là nhân tố gây ra không ít tác động tiêu

cực cho nền kinh tế:

Thứ nhất, Nợ công càng cao sẽ gây áp lực càng lớn đến chính sách tiền tệ của

một quốc gia, đặc biệt là nợ công từ các khoản tài trợ từ nước ngoài. Nếu việc quản lý

tài chính của Chính phủ lỏng lẻo cũng như không có đủ các cơ chế giám sát chặt chẽ

thì việc sử dụng và quản lý các khoản nợ công sẽ là nguyên nhân dẫn đến các tình

trạng tiêu cực như lãng phí, tham nhũng tràn lan. Khi tình trạng này xảy ra sẽ làm thất

thoát ngân sách Nhà nước và các nguồn lực, qua đó làm giảm hiệu quả các khoản đầu

tư.

Thứ hai, nếu như Chính phủ vay nợ của các chủ thể trong nước quá nhiều thì sẽ

làm giảm chỉ tiêu tích lũy vốn tư nhân, điều đó dẫn đến sự tụt giảm về mức độ đầu tư

của khu vực kinh tế tư nhân. Trong tình trạng đó, mức độ suy giảm của nguồn vốn từ

khu vực kinh tế tư nhân sẽ bị thay thế bởi những khoản nợ tích lũy khác của Chính

phủ. Khi người dân sở hữu quá nhiều các trái phiếu của Chính phủ sẽ dẫn đến việc

nguồn vốn nhàn rỗi có trong bộ phận dân cư suy giảm, song song với đó là nhu cầu vay

nợ của Chính phủ sẽ tăng lên và làm dẫn đến chi phí đầu tư tăng cao do lãi suất tăng.

Thứ ba, nợ công sẽ tạo áp lực làm gây ra tình trạng lạm phát. Theo các lý thuyết

hiện đại, nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm phát tăng cao đó là do việc tăng tổng

cầu hoặc do chi phí đẩy. Nếu Chính phủ vay nợ trong nước nhiều dẫn đến lãi suất tăng

thì sẽ làm tăng chi phí đầu tư, qua đó làm giá thành tăng và giá bán sản phẩm cũng tăng

theo. Ngoài ra, nợ công gia tăng và nhu cầu chi tiêu công tăng sẽ khiến tổng cầu hàng

hóa, dịch vụ tăng lên, tạo áp lực gây nên tình trạng lạm phát. Khi Chính phủ vay nợ từ

nước ngoài nhiều hơn, áp lực thanh toán nợ và lãi vay bằng ngoại tệ làm cho cầu ngoại

tệ tăng theo, dẫn đến làm giảm giá đồng nội tệ và đồng ngoại tệ sẽ tăng giá, làm tăng

12

các chi phí đầu vào trong quá trình nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, … và

cuối cùng dẫn đến tình trạng lạm phát cao.

Thứ tư, Nợ công sẽ gây ra sự méo mó đối với các hoạt động kinh tế, gây nên sự

tổn thất các phúc lợi xã hội. Nếu như Chính phủ vay nợ từ nước ngoài thì nguồn tiền để

thanh toán khoản nợ và chi phí lãi vay có thể được lấy bởi nguồn từ các khoản thu thuế

và phí của người dân. Khi đó, vô hình chung người dân sẽ phải chịu thêm một khoản

thuế và phí cao hơn trong tương lai để Chính phủ có thêm nguồn tiền trả lãi vay và nợ

nước ngoài; làm giảm thu nhập và nhu cầu tiêu dùng của người dân và làm cho chất

lượng cuộc sống ngày càng suy giảm. Nếu như Chính phủ vay nợ của các chủ thể trong

nước thì các tác động có thể sẽ ít tiêu cực hơn là vay nợ từ nước ngoài vì trong trường

hợp đó, Chính phủ chỉ phải thanh toán khoản nợ cho chính các người dân nước mình

và bản thân các chủ thể trong nước cũng được các lợi ích do những khoản chi tiêu công

từ việc Chính phủ vay nợ tạo ra. Tuy nhiên, việc người bị đánh thuế cao hơn để trả lại

các lợi ích cho chính bản thân họ khi đang sở hữu các trái phiếu của Chính phủ vẫn gây

ra những tác động tiêu cực khiến cho các hoạt động kinh tế như hành vi tiết kiệm, tiêu

dùng của người dân bị thay đổi, từ đó gây nên những ảnh hưởng đến tình hình kinh tế

vĩ mô như hoạt động sản xuất và nhu cầu việc làm.

Thứ năm, nợ công sẽ làm cho tiết kiệm quốc gia giảm sút. Nếu như Chính phủ

tiến hành vay nợ công để có nguồn vốn bù đắp cho sự thâm hụt ngân sách thì sẽ có khả

năng xảy ra những tác động đến tiết kiệm quốc gia: Một là các khoản tiết kiệm tư nhân

gia tăng nhỏ hơn so với phần giảm của các khoản tiết kiệm Chính phủ, dẫn đến chỉ số

tiết kiệm quốc gia suy giảm; Hai là nợ công làm giảm đầu tư nội địa, dẫn đến làm giảm

đầu ra là tổng vốn nội địa, bên cạnh đó là lãi suất tăng, làm tăng chi phí biên của sản

phẩm trong khi năng suất lao động sụt giảm sẽ làm cho thu nhập trung bình sụt giảm và

qua đó tiết kiệm quốc gia sẽ giảm theo; Ba là việc gia tăng nợ công sẽ làm lãi suất thực

tế trong nước tăng cao hơn so với lãi suất ở nước ngoài, dẫn đến tình trạng dòng tiền từ

nước ngoài chảy mạnh hơn vào trong nước và gây ra hậu quả làm giảm tỷ giá hối đoái,

13

vì thế giá cả hàng hoá nội địa sẽ đắt hơn hàng ngoại nhập và khiến xuất khẩu ròng

giảm cũng như thu nhập người dân giảm, cuối cùng làm cho tiết kiệm quốc gia giảm.

Ngoài ra, các quốc gia với các khoản nợ công lớn sẽ phải đối mặt với những vấn

đề khác mang tính nghiêm trọng hơn như phải có sự thay đổi các chính sách tài chính

của quốc gia để có thể trang trải các chi phí lãi vay và thanh toán khoản nợ, hệ số xếp

hạng tín nhiệm của quốc gia giảm sút, phải thay đổi các kế hoạch và định hướng phát

triển kinh tế của quốc gia, làm giảm vị thế trong các mối quan hệ đa phương và song

phương với các đối tác là chủ nợ và đặt biệt có nguy cơ chịu ảnh hưởng bởi nước ngoài

về kinh tế và chính trị, gây nguy hiểm đến chủ quyền và độc lập dân tộc,….

Tại mỗi quốc gia, việc nhận biết được những tác động tích cực cũng như tiêu

cực của nợ công nhằm mục đích phát huy các mặt tích cực và có các biện pháp làm hạn

chế các mặt tiêu cực, từ đó có những định hướng để xây dựng và thực hiện các chính

sách pháp luật về quản lý tình hình nợ công. Đó là điều rất cần thiết và cấp thiết tại tất

cả các quốc gia, trong đó có các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á.

2.1.4. Phân loại “nợ công”.

Căn cứ vào mỗi tiêu thức khác nhau, “nợ công” sẽ được phân loại thành nhiều

hình thức. Trên thế giới, người ta thường phân loại nợ công dựa vào chủ thể vay nợ,

nguồn gốc vay nợ, hình thức vay nợ và kỳ hạn thanh toán khoản nợ. Cụ thể:

- Phân loại theo chủ thể nợ:

Căn cứ vào tiêu thức phân loại theo chủ thể vay nợ, Luật quản lý Nợ công

(năm 2017) của Viêt Nam bao gồm 03 loại: Các khoản nợ Chính phủ, các khoản nợ

được Chính phủ bảo lãnh và các khoản nợ của chính quyền địa phương (chi tiết đã

được tác giả trình bày tại mục 2.1, chương 2 của luận văn).

- Phân loại theo nguồn gốc vay nợ (theo địa lý lãnh thổ):

+ Các khoản nợ vay trong nước: bao gồm tất cả các khoản vay nợ từ các chủ

thể trong nước.

14

+ Các khoản nợ vay từ nước ngoài: bao gồm tất cả các khoản vay nợ từ các

chủ thể nước ngoài.

- Phân loại theo hình thức vay nợ:

+ Vay nợ trực tiếp: Là hình thức mà Chính phủ có thể phát hành các trái

phiếu Chính phủ để thực hiện việc vay nợ từ các tổ chức và cá nhân nhằm mục đích bù

đắp tình trạng bội chi làm cho ngân sách Nhà nước bị thâm hụt. Trái phiếu của Chính

phủ như trái phiếu, trái phiếu của chính quyền địa phương, trái phiếu ngoại tệ và một

số loại trái phiếu khác.

+ Vay nợ gián tiếp: là hình thức vay nợ của Chính phủ được thực hiện thông

qua các hoạt động vay vốn của các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính như:

Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, hay các Ngân hàng phát triển khu vực…

Những khoản nợ vay này sẽ được các tổ chức tài trợ cho các quốc gia thông qua một số

chương trình phổ biến bao gồm các khoản vay viện trợ phát triển chính thức, các khoản

vay có tính chất thương mại hoặc các khoản vay ưu đãi.

- Phân loại theo kỳ hạn nợ:

+ Nợ ngắn hạn: là các khoản vay nợ có thời hạn thanh toán từ 01 năm trở

xuống.

+ Nợ trung hạn: là các khoản vay nợ có thời hạn thanh toán từ 01 năm đến 10

năm.

+ Nợ dài hạn: là các khoản vay nợ có thời hạn thanh toán trên 10 năm.

2.2. Các yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến nợ công.

2.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP.

Trong Kinh tế học hiện đại, Tổng sản phẩm quốc nội, hay còn được biết đến là

tổng sản phẩm trong nước hay GDP (Gross Domestic Product) được định nghĩa là giá

trị thị trường tính bằng tiền của tất cả sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được

sản xuất, làm ra trong phạm vi của một nền kinh tế (thường là một quốc gia hoặc vùng

15

lãnh thổ) trong một giai đoạn nhất định (thông thường là một năm dương lịch hoặc năm

tài chính).

Có rất nhiều đề tài nghiên cứu đã chỉ ra rằng GDP là một trong các chỉ số cơ bản

nhất được dùng để đánh giá nền kinh tế của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó có

phát triển hay không. Tốc độ tăng trưởng GDP được xem như là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô

quan trọng nhất, có ảnh hưởng đến hầu hết các ngành nghề và trong tất cả lĩnh vực

trong nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP được đo lường bằng sự tăng thêm của tổng

sản phẩm trong nước của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ hoặc một địa phương tính

trong một khoảng thời gian (thông thường là một năm dương lịch hoặc năm tài chính).

Chỉ tiêu này được thể hiện qua quy mô tăng trưởng bằng số tuyệt đối và tốc độ tăng

trưởng bằng số tương đối (tỷ lệ %). Quy mô tăng trưởng cung cấp thông tin về sự tăng

lên là nhiều hay ít, trong khi đó, tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh tương đối và

phản ánh sự tăng lên là nhanh hay chậm qua các năm.

Trong giai đoạn kinh tế đang ở tình trạng phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP cao

mang lại cho Chính phủ có thể dễ dàng huy động được các khoản vay nợ có lãi suất

thực tế thấp. Song song vào đó, tăng trưởng GDP nhanh sẽ làm tăng nguồn thu ngân

sách nhà nước thông qua các khoản thuế, phí, góp phần cải thiện đáng kể sự thâm hụt

ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng GDP cao sẽ làm giảm tỷ lệ

nợ công trên GDP. Trái lại, khi nền kinh tế đang suy thoái, tốc độ tăng trưởng kinh tế

còn chậm sẽ làm cho các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô xấu đi, điều này dẫn đến chỉ tiêu nợ

công trên GDP tăng lên.

Trên thế giới, đã có rất nhiều các đề tài nghiên cứu thực nghiệm mà tác giả đã

chứng minh những nhận định trên. Tiêu biểu trong đó là nghiên cứu của Imimole,

Imoughele và Okhuese (2014) đã đưa ra kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP thực

tế tại Nigeria có tác động đến các khoản nợ vay từ nước ngoài tại quốc gia này. Ngoài

ra, Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế là yếu tố chính có sự ảnh hưởng đến tình hình nợ

16

công được đề cập đến trong đề tài nghiên cứu của Abbas, Akitoby, Abdritzky, Berger,

Komatsuzaki và Tyson (2014); theo các tác giả, tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ giảm nếu

như tốc độ tăng trưởng GDP thực cao.

2.2.2. Thâm hụt ngân sách.

Trong kinh tế học vĩ mô, thâm hụt ngân sách xảy ra khi các khoản thu của Chính

phủ không thể bù đắp cho các dự án chi tiêu của ngân sách Nhà nước, khoản chênh

lệch giữa thu và chi chính là phần thâm hụt ngân sách. Ngược lại, trong trường hợp các

khoản thu của Chính phủ lớn hơn các khoản chi, khi đó ngân sách Nhà nước ở tình

trạng thặng dư. Khi định nghĩa về thâm hụt hay thặng dư ngân sách, phần thu của

Chính phủ là đơn thuần, không bao gồm các khoản đi vay nợ. Thực hiện vay nợ chính

là một hình thức để Chính phủ có thể có nguồn vốn để bù đắp cho sự thâm hụt ngân

sách quốc gia.

Xem xét bản chất của nợ công, chúng ta có thể thấy tình trạng thâm hụt ngân

sách là con số thể hiện giá trị tuyệt đối đại diện cho các khoản nợ Chính phủ. Nợ công

có thể được xem như là mức thâm hụt ngân sách đã tích lũy qua nhiều năm. Khi ngân

sách Nhà nước rơi vào tình trạng thâm hụt, nhu cầu vay nợ của Nhà nước sẽ ngày càng

gia tăng, qua đó làm cho tình hình nợ công ngày càng trầm trọng hơn. Trái lại, nếu

nguồn thu của Chính phủ đủ để thực hiện các kế hoạch chi tiêu thì quốc gia đó sẽ

không có nhu cầu phải đi vay nợ, đồng thời khi ngân sách thặng dư, Nhà nước sẽ có

điều kiện để thoải mái chi trả cho các khoản nợ đã đi vay từ trước bằng hình thức mua

lại trái phiếu của Chính phủ trước thời hạn, điều đó làm cho tỷ lệ nợ công giảm xuống.

Để nghiên cứu tác động của tình trạng thâm hụt ngân sách đến tình hình nợ

công, một số tác giả bao gồm: Dornbusch (1984) đã thực hiện nghiên cứu tại Brazil,

kết quả cho thấy rằng thâm hụt ngân sách chính là nguyên nhân dẫn đến tình hình nợ

nước ngoài ngày càng tăng nhanh tại quốc gia này. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Sachs

và Larrain (1993) đã chứng minh rằng vay nợ trong nước là một trong số cách được

17

các Chính phủ sử dụng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách trong ngắn hạn. Hình thức

vay nợ này giúp Chính phủ cân đối được tình hình thu – chi ngân sách mà đặc biệt sẽ

không ảnh hưởng đến nguồn dự trữ ngoại hối và cung tiền. Tuy nhiên, do nghĩa vụ nợ

gia tăng nên nó cũng gây ảnh hưởng làm trầm trọng hơn tình trạng thâm hụt ngân sách

theo thời gian. Ngoài ra, theo Alfaidi (2002) khi nghiên cứu trường hợp tại Ai Cập, nợ

nước ngoài của nước này gia tăng một cách nhanh chóng khi mức độ thâm hụt ngân

sách ngày càng cao. Cuối cùng, kết quả đề tài của Gartner (2003) đã chỉ chỉ ra rằng

giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách tồn tại một mối quan hệ tương quan

cùng chiều.

2.2.3. Lãi suất thực tế.

Trong kinh tế học, lãi suất thực tế được xác định xấp xỉ bằng cách lấy lãi suất

danh nghĩa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Có thể nói, đây là lãi suất mà các nhà đầu tư kỳ

vọng nhận được sau khi loại trừ đi tác động của yếu tố lạm phát. Lãi suất thực tế có tác

động trực tiếp đến các khoản nợ công có lãi suất thả nổi, kể cả đối với những khoản

vay nợ mới. Thực tế đã chỉ ra rằng nếu trong cơ cấu tổng nợ của một quốc gia, tỷ lệ nợ

công có lãi suất thả nổi càng cao thì mức độ ảnh hưởng của yếu tố lãi suất thực tế đến

tình hình nợ công càng lớn. Khi lãi suất thực tế tăng sẽ làm cho việc thanh toán các chi

phí lãi vay của khoản nợ công có lãi suất thả nổi gặp nhiều khó khăn hơn, điều đó làm

cho tình hình nợ công ngày càng trầm trọng hơn. Khi đó, Chính phủ của các quốc gia

cũng không mong muốn thực hiện vay mới bởi vì lãi suất thực tế đang cao. Mặt khác,

đối những khoản vay nợ có lãi suất cố định thì việc tăng giảm của lãi suất thực tế cũng

làm ảnh hưởng đến giá trị của các công cụ nợ, có nghĩa là, quy mô nợ công của quốc

gia sẽ gián tiếp bị ảnh hưởng. Sở dĩ xảy ra điều này bởi vì lãi suất tăng lên sẽ làm cho

chi phí vay nợ tăng lên và các khoản vay nợ của Chính phủ trở nên đắt hơn dẫn đến

làm gia tăng tình hình nợ công.

Đã có rất nhiều các tác giả nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất thực tế và tình

hình nợ công. Điển hình như Sachs và Larrain (1993) đã cho rằng: Lãi suất thực tế cao

18

là một trong các yếu tố làm gia tăng tỷ lệ nợ công. Các nghiên cứu thực nghiệm của

Alesina và Perotti (1995), Giavazzi và Pagano (1996), Alesina và Ardagna (2010) đã

chứng minh rằng lãi suất thực tế giảm sẽ góp phần cải thiện tình trạng nợ công bởi vì

áp lưc trả lãi sẽ giảm đi. Bên cạnh đó, lãi suất thấp làm cho GDP tăng, dẫn đến tỷ lệ nợ

công trên GDP giảm thông qua việc khuyến khích các bộ phận thực hiện đầu tư và tiêu

dùng. Còn theo Alfaidi (2002), tác giả đã nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển

và cho thấy rằng lãi suất thực tế cao là yếu tố quan trọng làm gia tăng tỷ lệ nợ nước

ngoài ở các nước này.

2.2.4. Tỷ giá hối đoái.

Khái niệm tỷ giá hối đoái (hay tỷ giá trao đổi ngoại tệ) giữa hai loại tiền tệ khác

nhau là tỷ giá mà tại đó đồng tiền này sẽ trao đổi được cho một đồng tiền khác. Có thể

nói, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của đồng tiền một quốc gia được biểu hiện bằng

một loại tiền tệ khác.

Ngày nay, trong cơ cấu của nợ công tại một quốc gia, những khoản nợ vay nước

ngoài bằng đồng ngoại tệ ngày càng chiếm một tỷ trọng khá lớn. Vì vậy, mức độ biến

động của tỷ giá hồi đoái sẽ có tác động trực tiếp đến giá trị các khoản nợ nước ngoài

vay bằng ngoại tệ. Nếu như trong tổng nợ, tỷ trọng các khoản nợ vay bằng ngoại tệ,

nhất là đặc biệt là những đồng tiền nhạy cảm với những biến động lớn về giá trị chiếm

tỷ lệ càng cao thì mức độ ảnh hưởng của sự tăng giảm tỷ giá hối đoái đến tình hình nợ

công càng lớn.

Imimole, Imoughele và Okhuese (2014) tại Nigeria đã chỉ ra rằng có mối tương

quan giữa nợ nước ngoài và biến động của tỷ giá hối đoái. Kết quả nghiên cứu cho thấy

nợ nước ngoài của nước này sẽ tăng 0,81% nếu tỷ giá hối đoái tăng lên 1%.

2.2.5. Các yếu tố kinh tế vĩ mô khác.

Đánh giá nợ công phải đặt trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, ngoài

các yếu tố cơ bản gồm thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế, lãi suất thực tế và tỷ

giá hối đoái nêu trên, cần phải xem xét thêm các yếu tố khác như lạm phát, mức độ

19

thâm hụt cán cân vãng lai, mức độ thâm hụt cán cân thương mại, dòng vốn vào (như

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài - FPI, vốn hỗ

trợ phát triển chính thức - ODA…), năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn

(qua tiêu chí ICOR), độ mở của nền kinh tế… để dự báo và đảm bảo nguồn lực thanh

toán nghĩa vụ nợ. Ngoài ra, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô và quản lý nợ công có ảnh

hưởng tới nợ công. Nợ công không được cơ cấu tốt về thời hạn, lãi suất, đồng tiền vay

nợ... có thể làm tăng quy mô, rủi ro và nghĩa vụ nợ. Ngược lại, chính sách quản lý nợ

công tốt có thể kiểm soát được rủi ro và quy mô nợ. Điều này một mặt làm giảm thiểu

rủi ro và chi phí trong quản lý nợ công trung và dài hạn; mặt khác giúp Chính phủ có

sự chủ động trong tài trợ chi tiêu của mình.

Sachs và Larrain (1993) chỉ ra rằng, thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt

ngân sách làm gia tăng nợ công: “Thâm hụt tài khoản vãng lai trong những năm 1980

đã khiến Hoa Kỳ từ vị trí của một chủ nợ trở thành con nợ lớn nhất thế giới”. Alfaidi

(2002) xem xét các yếu tố tác động đến nợ nước ngoài của các nước đang phát triển

bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài. Trong đó, các yếu tố bên trong bao gồm

đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hiệu quả sử dụng vốn, thâm hụt cán cân

thanh toán; các yếu tố bên ngoài bao gồm lãi suất, giá dầu và các nguyên liệu thô khác.

Pirtea, Nicolescu và Mota (2014) cho rằng, FDI là một yếu tố tác động đến nợ công do

FDI làm tăng năng suất lao động và làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP. Akitoby,

Komatsuzaki và Binder (2014) cho rằng, lạm phát cao có thể giảm nợ công do lạm phát

làm giảm giá trị của các khoản nợ. Aizenman và Marion (2009), IMF (2012) chỉ ra sau

chiến tranh thế giới thứ II, tỷ lệ nợ công trên GDP của Hoa Kỳ trên 100% nhưng đã cắt

giảm còn khoảng 40% trong vòng một thập kỷ do kết hợp tăng trưởng kinh tế và duy

trì mức lạm phát khoảng 4%.

2.3. Các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài.

Jurgita Stankeviciene & Ausrine Lakstutiene (2013) đã nghiên cứu về mối

quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tình hình nợ công tại các quốc gia vùng

20

Baltic. Nghiên cứu này đi sâu vào đánh giá và quản lý nợ công khi thay đổi các yếu tố

môi trường trong nền kinh tế vĩ mô. Tác giả sử dụng các phương pháp gồm hệ thống cơ

sở lý thuyết, thống kê toán học, tổng quát hợp lý và phân tích so sánh. Bài nghiên cứu

sử dụng những yếu tố kinh tế vĩ mô để đánh giá tác động của chúng đến tỷ lệ nợ công

trên GDP gồm: khối lượng xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng GDP và chi tiêu công. Kết

quả của nghiên cứu đã chỉ ra Estonia có nợ công thấp nhất; và khối lượng xuất khẩu là

một trong các yếu tố quan trọng nhất có liên quan đến tình hình nợ công ở tất cả các

quốc gia vùng Baltic.

Checherita-Westphal (2012) đã tập trung nghiên cứu tác động trung bình của

nợ Chính phủ đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người với cỡ mẫu thu thập gồm 12

nước thuộc khu vực đồng Euro như: Áo, Phần Lan, Bỉ, Đức, Pháp, Hy Lạp, Italia,

Ailen, Hà Lan, Luxembourg, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong khoảng thời gian 40

năm (từ năm 1970). Kết quả bài nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ phi tuyến tính

giữa tăng trưởng GDP bình quân đầu người và nợ công, tác giả cho rằng tỷ lệ nợ công

so với GDP có ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (từ 90% đến

100% GDP).

Marek Dabrowski (2014) đã nghiên cứu về các yếu tố quyết định đến mức độ

an toàn của nợ công. Không có một tiêu chuẩn an toàn nào về nợ công cho tất cả các

nền kinh tế. Trong thực tế, mức nợ công an toàn ở từng quốc gia khác nhau, phụ thuộc

vào nhiều yếu tố và hoàn cảnh, không thể xác định được. Bài nghiên cứu sử dụng tỷ lệ

nợ công trên GDP là biến phụ thuộc để nghiên cứu và phân tích các yếu tố tác động.

Những yếu tố ảnh hưởng được sử dụng như các biến độc lập bao gồm: tốc độ tăng

trưởng GDP, tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách trên GDP và lãi suất thực tế của các

khoản vay Chính phủ. Kết quả đề tài nghiên cứu chỉ ra rằng, khi phát triển kinh tế, tỷ lệ

tăng trưởng GDP thực tế tăng lên khiến việc vay nợ dễ dàng hơn vì lãi suất thực thấp

hơn, và việc thu ngân sách nhà nước hiệu quả hơn giúp cải thiện tình trạng nợ công.

Khi suy thoái kinh tế, tất cả các yếu tố này xấu đi làm gia tăng tỷ lệ nợ công trên GDP.

21

Bên cạnh đó, khi những thị trường tài chính không tin tưởng về độ tin cậy của Chính

phủ, lãi suất thực sẽ tăng mạnh dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ nợ công trên GDP của quốc

gia.

Trong những bài nghiên cứu tương tự về tình hình nợ công, đề tài của

Jaimovich, D và Panizza, U (2010) chứng minh rằng những quốc gia đang phát triển

có xu hướng dung nợ công nhiều hơn so với những quốc gia phát triển. Đề tài cũng chỉ

ra rằng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn thì có nợ công cao hơn.

Tuy nhiên, phát hiện này không còn thích hợp với thực trạng ngày nay bởi vì hầu hết

các quốc gia phát triển có xu hướng muốn tỷ lệ nợ công càng nhiều càng tốt. Nguyên

nhân dẫn đến sự lầm tưởng này là vì tác giả đã sử dụng dữ liệu của các quốc gia thuộc

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD.

Bài nghiên cứu của Bogdan Andrei Dumitrescu (2014) đề cập đến những yếu

tố ảnh hưởng đến nợ công tại Romania. Tác giả đã bắt đầu bởi phương trình nợ công

và các hạn chế về ngân sách liên ngân hàng để đề xuất phân tích về sự phát triển của tỷ

lệ nợ công trên GDP tại Romania giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013, qua đó xác

định những yếu tố chính ảnh hưởng và phân tích tính bền vững của tỷ lệ nợ công trong

ngắn hạn cũng như dài hạn. Các yếu tố sẽ ảnh hưởng đến tình hình nợ công trong bài

nghiên cứu bao gồm: lãi suất danh nghĩa, tỷ lệ lạm phát, cán cân ngân sách sơ cấp và

tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sự suy giảm của cán cân ngân sách sau cuộc khủng hoảng

kinh tế và việc thúc đẩy những chính sách tài chính không bền vững ở các năm trước

khủng hoảng gây ra tình trạng lạm phát đã làm gia tăng tỷ lệ nợ công ở khoảng thời

gian khá ngắn.Việc làm vững chắc tình hình tài chính trong những năm gần đây làm

giảm thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát, qua đó đồng thời làm gia tăng tốc độ phát

triển kinh tế đã và đang góp phần ổn định nợ công.

Theo bài nghiên cứu của Don P. Clark (2011), khi FDI tăng sẽ làm ảnh hưởng

đến tình hình nợ công. Mỹ và Trung Quốc là 02 ví dụ thích hợp nhất cho nhận định

này. Bằng chứng cho thấy khi FDI vào bất kỳ quốc gia nào càng lớn thì nó sẽ càng là

22

một yếu tố quan trọng làm thay đổi tỷ lệ lãi suất. FDI không chỉ có thể làm luân chuyển

vòng quay vốn, mà có thể thúc đẩy việc vay từ bên trong quốc gia ấy. Vì có thể làm

luân chuyển vốn như thế nên FDI thường bị gọi là cuộc chiến huy động vốn. Khi cuộc

chiến này xảy ra, thảm họa kinh tế sẽ gây áp lực đến bất kỳ một quốc gia nào có liên

quan vì khi đó Chính phủ không thể thực hiện kiểm soát cung tiền.

Christabell Matiti (2013) đã thực hiện nghiên cứu với đề tài về mối quan hệ

giữa tăng trưởng kinh tế và tình hình nợ công tại Kenya. Quản lý nợ công hiệu quả

giúp kinh tế tăng trưởng và ổn định qua hành động huy động nguồn lực có chi phí vay

thấp và làm hạn chế các rủi ro tài chính. Bài nghiên cứu sử dụng những yếu tố có ảnh

hưởng đến tình hình nợ công gồm chi tiêu công, tốc độ tăng trưởng kinh tế và các

nguồn thu thuế. Tác giả sử dụng số liệu thứ cấp được thu thập từ Cục Thống kê quốc

gia và Ngân hàng Trung ương Kenya trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2012. Dữ

liệu thu thập được bằng phương pháp sử dụng các bảng thu thập số liệu đã hiệu chỉnh,

được làm sạch và đã mã hoá. Kết quả bài nghiên cứu chỉ ra rằng, đặc trưng của các

khoản nợ trong nước đó là có lãi suất cao hơn so với các khoản nợ từ nước ngoài bởi vì

các khoản nợ nước ngoài hầu hết được ký kết có bao gồm các điều khoản ưu đãi, và

như thế chúng rất tốn kém để duy trì. Việc giảm các khoản nợ từ trong nước có thể

thực hiện được thông qua việc dùng các khoản thu từ những chương trình tư nhân hóa

các tập đoàn Nhà nước hoặc sử dụng những nguồn vốn vay từ bên ngoài.

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Phan Thị Diệu Thảo và Thái Hán Vinh

(2015) đã nghiên cứu về vấn đề “Kiểm định tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh

tế”. bằng phương pháp là sử dụng mô hình nghiên cứu hồi quy, quy mô thu thập dữ

liệu là 7 quốc đang phát triển tại khu vực Đông Nam Á bao gồm: Việt Nam, Thái Lan,

Malaysia, Cambodia, Indonesia, Lào và Philipines trong giai đoạn từ năm 1995 đến

năm 2013. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy mối quan hệ phi tuyến tính giữa nợ

công và tăng trưởng kinh tế theo mô hình chữ U ngược.

23

Kết luận chương 2

Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã thực hiện hệ thống hóa tổng quan lý

thuyết về nợ công, về các tác động của các khoản nợ công đến cả nền kinh tế cũng như

về các yếu tố kinh tế vĩ mô có sự ảnh hưởng đến tình hình nợ công bao gồm: Tốc độ

tăng trưởng GDP, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, lãi suất thực tế, tỷ giá hối đoái và một số

yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã thực hiện giới thiệu tổng quan

một số đề tài nghiên cứu thực nghiệm về tác động của yếu tố kinh tế vĩ mô đến tình

hình nợ công trên thế giới và tại Việt Nam, qua đó có cơ sở vững vàng để đề xuất mô

hình và phương pháp nghiên cứu cho luận văn.

24

CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết đặt ra.

3.1.1. Mô hình nghiên cứu.

Hầu hết các đề tài nghiên cứu trước đây đều dùng biến tỷ lệ nợ công trên GDP

là biến phụ thuộc, vì thế tác giả cũng sẽ dùng biến này để đại diện cho tình hình nợ

công trong mô hình nghiên cứu mà luận văn sử dụng. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng kế

thừa các yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến tình hình nợ công dùng trong mô hình

nghiên cứu của Marek Dabrowski (2014) và được thêm vào yếu tố tỷ giá hối đoái để có

thể đánh giá các tác động của những yếu tố kinh tế vĩ mô vào tỷ lệ nợ công trên GDP ở

các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. Sở dĩ tác giả bổ sung yếu tố này bởi vì trong cơ

cấu của danh mục nợ công bao gồm cả các khoản nợ vay nước ngoài bằng ngoại tệ, vì

thế, tình hình biến động của tỷ giá hối đoái sẽ có tác động trực tiếp đến tỷ lệ nợ công.

Như vậy, mô hình nghiên cứu mà tác giả đề xuất sử dụng trong luận văn để

thực hiện đánh giá các tác động của những yếu tố kinh tế vĩ mô đến tình hình nợ công

được thể hiện thông qua phương trình hồi quy tuyến tính đa biến, cụ thể như sau:

PD(it) =µ0 + µ1GDP(it) + µ2BDEF(it)+ µ3INT(it) + µ4EX(it) + σ (it)

Trong đó:

- PD(it): biến đại diện cho tỷ lệ nợ công trên GDP tại quốc gia i trong giai đoạn t.

- GDP(it) : biến đại diện cho tốc độ tăng trưởng GDP tại quốc gia i trong giai đoạn t.

- BDEF(it) : biến đại diện cho tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP tại quốc gia i trong

giai đoạn t.

- INT(it): biến đại diện cho tỷ lệ lãi suất thực tế tại quốc gia i trong giai đoạn t.

- EX(it): biến đại diện cho tỷgiá hối đoái cuối kỳ tại quốc gia i trong giai đoạn t.

- σ (it): sai số của mô hình.

Chi tiết về phương pháp đo lường các biến trong mô hình được thể hiện trong

bảng 3.1 như sau:

25

Bảng 3.1. Mô tả về các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu

TÊN BIẾN KÝ HIỆU PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG

Biến phụ thuộc

Nợ công của quốc gia (i) tại thời

Tỷ lệ nợ công trên điểm cuối năm (t) chia cho tổng PD(it) GDP (Public Debt) GDP của quốc gia đótại thời điểm

cuối năm (t).

Các biến độc lập

Tốc độ tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm

GDP (Gross quốc nội GDP (%) của các quốc gia GDP (it)

Domestic Product) (i) tại năm (t).

Tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm (t) =

( Tổng chi ngân sách năm (t) của Tỷ lệ thâm hụt quốc gia (i) trừ đi tổng thu ngân ngân sách (Budget BDEF(it) sách năm (t) của quốc gia (i) ), tieps Deficit) theo đó, chia cho GDP của quốc gia

đótại năm (t).

Lãi suất thực tế Lãi suất thực tế cua các khoản vay

(Effective Interest Chính phủ (%) của quốc gia (i) tại INT(it)

Rate) năm (t).

Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái cuối kỳ tại năm (t) EX(it) (Exchange Rate) của quốc gia (i) so với đồng USD.

Theo nghiên cứu của Tabachnick & Fidell (2007), số lượng quan sát (kích thước

mẫu) tối thiểu thu thập để thực hiện việc phân tích hồi quy đa biến cần phải đảm bảo

26

phù hợp với công thức: N ≥ 50 + 8m (trong đó, N là kích thước mẫu và m là số lượng

biến độc lập).

Chính vì vậy, tác giả chọn kích thước mẫu cho mô hình nghiên cứu của mình là

120, gồm 05 quốc gia khu vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan,

Hong Kong) và 10 quốc gia khu vực Đông Nam Á (Singapore, Malaysia, Thái Lan,

Việt Nam, Indonesia, Lào, Cambodia, Myanmar, Brunei, Philipines) với các dữ liệu

thu thập được từ Ngân hang Thế giới (dữ liệu về tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lãi suất thực tế)

và từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (dữ liệu về tình hình nợ công, dữ liệu về tổng chi và tổng thu

ngân sách của Chính phủ các quốc gia và dữ liệu về tốc độ tăng trưởng GDP tại các

quốc gia) trong giai đoạn 08 năm từ năm 2010 đến năm 2017. Tác giả cho rằng, kích

thước mẫu nghiên cứu này đủ lớn và phù hợp để kết quả mô hình hồi quy đạt được độ

tin cậy và kết quảmang ý nghĩa thống kê dựa theo các điều kiện về kích thước mẫu

khisử dụng phương pháp phân tích hồi quy.

3.1.2. Giả thuyết nghiên cứu.

Dựa trên cơ sở nền tảng của lý luận cũng như lược khảo các nghiên cứu có liên

quan và để phù hợp với mô hình nghiên cứu tác giả đã đề xuất, các giả thuyết nghiên

cứu mà bài luận văn đưa ra cụ thể như sau:

- Giả thuyết H1: Tốc độ tăng trưởng GDP tại quốc gia (i) có tác động âm

đến tỷ lệ nợ công tại quốc gia đó.

Trong giai đoạn kinh tế trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP càng cao sẽ

tạo điều kiện để các Chính phủ dễ dàng có sự tiếp cận với các khoản vay nợ có lãi suất

thực tế càng thấp. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế càng nhanh sẽ góp phần làm gia

tăng các nguồn thu ngân sách cho nhà nước, làm cải thiện tình trạng thâm hụt ngân

sách đáng kể, dẫn đến việc làm giảm sự vay nợ của Chính phủ. Điều đó dẫn đến, khi

tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia cao sẽ giúp làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP

tại nước đó. Ngược lại, trong giai đoạn kinh tế đang suy thoái, tốc độ tăng trưởng kinh

27

tế càng chậm sẽ làm cho các chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô xấu đi và điều này dẫn đến làm

gia tăng nhanh chỉ tiêu nợ công trên GDP.

- Giả thuyết H2: Tỷ lệ nợ công trên GDP tại quốc gia (i) có biến động cùng

chiều với yếu tố tỷ lệ thâm hụt ngân sách tại quốc gia đó.

Tại hầu hết các nước, khi thu ngân sách không đủ bù chi, ngân sách Nhà nước sẽ

bị thâm hụt. Và khi đó, một hình thức để bù đắp các khoản thâm hụt này, đó là việc các

quốc gia sẽ sử dụng nguồn vay nợ từ trong và ngoài nước. Do đó dẫn đến nhu cầu vay

nợ của Chính phủ ngày càng gia tăng và sẽ làm nghiêm trọng hơn về tình hình nợ công.

Ngược lại, khi ngân sách Nhà nước trong tình trạng thặng dư, Chính phủ các nước sẽ

không có nhu cầu sử dụng các nguồn vay nợ, đồng thời sẽ có thêm nguồn tài chính dồi

dào để chi trả các khoản nợ công từ trước bằng các hình thức như mua lại trái phiếu

Chính phủ trước thời hạn và qua đó sẽ làm cho mức nợ công tại quốc gia đó giảm

xuống.

- Giả thuyết H3: Lãi suất thực tế của các khoản vay tại quốc gia (i) có tác

động dương đến tỷ lệ nợ công trên GDP tại quốc gia đó.

Tại các quốc gia, việc thay đổi tình hình lãi suất thực tế của các khoản vay sẽ có

tác động trực tiếp đến các khoản nợ công với lãi suất thả nổi và kể cả những khoản vay

mới. Ngoài ra, tỷ lệ các khoản nợ công với lãi suất thả nổi trong tổng nợ càng lớn thì

mức độ ảnh hưởng của yếu tố lãi suất thực tế đến tình hình nợ công càng cao. Nếu lãi

suất thực tế gia tăng sẽ dẫn đến việc trả lãi cho các khoản nợ công với lãi suất thả nổi

sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, từ đó dẫn đến việc tình hình nợ công ngày càng trầm trọng

hơn. Khi đó, Chính phủ sẽ khó có điều kiện tiếp tục thực hiện vay các khoản vay mới

vì gặp vấn đề với lãi suất thực tế đang tăng cao.

- Giả thuyết H4: Tỷ giá hối đoái tại quốc gia (i) có tác động dương đến tỷ lệ

nợ công tại quốc gia đó.

Trong cơ cấu danh mục của tình hình nợ công bao gồm cả những khoản nợ vay

nước ngoài bằng đồng ngoại tệ, vì thế, sự biến động của yếu tố tỷ giá hối đoái sẽ có

28

ảnh hưởng trực tiếp với việc xác định giá trị của các khoản nợ công được vay bằng

đồng ngoại tệ. Đối với các khoản nợ vay bằng đồng ngoại tệ, đặc biệt đối với những

đồng tiền có sự biến động mạnh về giá trị, nếu các khoản vay đố chiếm tỷ lệ cao sẽ dẫn

đến việc ảnh hưởng của sự biến động về tỷ giá hối đoái đến tình hình nợ công của quốc

gia càng lớn.

3.2. Phương pháp nghiên cứu.

Các dữ liệu nghiên cứu sẽ được tác giả thu thập dưới dạng dữ liệu bảng và đưa

vào phân tích hồi quy. Các dữ liệu bảng được sử dụng nhiều trong các đề tài nghiên

cứu định lượng bởi chúng có các ưu điểm nổi bật sau: Hầu hết các kết quả ước lượng

từ việc sử dụng dữ liệu bảng sẽ giúp các tham số có trong mô hình đạt được độ tin cậy

cao hơn; bên cạnh đó, dữ liệu bảng sẽ giúp lượng hóa các tác động không được xác

định khi tác giả dùng dữ liệu chéo hay dữ liệu thời gian. Để có thể thu thập dữ liệu

bảng, tác giả phải tiến hành thu thập số lượng lớn các đối tượng (units) có đặc điểm

giống nhau tại cùng một hoặc trong nhiều thời điểm. Ví dụ như, tác giả có thể thực

hiện thu thập các dữ liệu trong gia đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của cùng những cá

nhân, bệnh viện, tập đoàn, của thành phố và tỉnh, của một quốc gia hay một khu vực.

Có 03 phương pháp hồi quy đã được tác giả áp dụng trong bài nghiên cứu này

với mục đích ước lượng các mức độ của sự tác động bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô đến tỷ

lệ nợ công trên GDP tại các quốc gia, đó là mô hình OLS thô (Pooled OLS), mô hình

tác động ngẫu nhiên (REM - Random Effects Model) và mô hình tác động cố định

(FEM - Fixed Effects Model) . Chi tiết trong đó:

- Mô hình OLS thô (Pooled OLS): Tác giả sử dụng để tiến hành kiểm định

ảnh hưởng của những biến độc lập đến biến phụ thuộc. Việc áp dụng mô hình Pooled

OLS thực chất sử dụng các dữ liệu bảng để thực hiện phân tích bằng phương pháp sử

dụng tất cả dữ liệu thông qua việc sắp xếp chồng và không phân biệt riêng từng cá thể,

có nghĩa là mô hình này dung các dữ liệu như một hình thức phân tích OLS thông

thường trong các nghiên cứu. Tác giả áp dụng phương pháp bình phương bé nhất

29

(OLS) để ước lượng đường thẳng hồi quy vì phương pháp này cho phép sai số cực tiểu

giữa những điểm ước lượng trên cùng đường thẳng hồi quy và các điểm quan sát trong

thực tế của đường thẳng hồi quy, như thế kết quả là phù hợp nhất.

- Mô hình tác động cố định (FEM - Fixed Effects Model): Mô hình FEM

đưa ra giả thuyết rằng đối với mỗi đối tượng nghiên cứu sẽ có các đặc điểm riêng biệt

có ảnh hưởng đến biến giải thích. Tác giả sử dụng mô hình này để xem xét mức độ

tương quan giữa phần dư của các yếu tố được nghiên cứu và biến giải thích, qua đó loại

bỏ được các ảnh hưởng của những đặc điểm riêng của mỗi đối tượng nghiên cứu ra

khỏi các biến giải thích nhằm mục đích ước lượng các tác động thực của các biến giải

thích đến biến được giải thích (các biến phụ thuộc).

- Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM - Random Effects Model): Nếu như

giả thuyết của mô hình tác động cố định FEM đó là có những sự khác biệt riêng giữa

mỗi đối tượng và có sự tác động đến biến giải thích thì mô hình REM đưa ra giả định

chính là các đặc điểm riêng biệt của mỗi đối tượng nghiên cứu là hoàn toàn ngẫu nhiên

và không có sự tương quan đối với các biến giải thích. Điều đó cho thấy, sự khác biệt

chính giữa mô hình REM so với mô hình FEM đó là ở những đặc điểm riêng của mỗi

đối tượng. Nếu như sự khác biệt giữa các đối tượng tác động đến biến giải thích thì khi

đó sử dụng mô hình REM sẽ mang lại hiệu quả nghiên cứu tốt hơn và phù hợp hơn so

với việc sử dụng mô hình FEM.

Sau khi thực hiện ước lượng bằng 03 phương pháp đã giới thiệu ở trên, tác giả

sẽ tiến hành áp dụng kiểm định Breusch - Pagan Lagrangian nhằm lựa chọn giữa 02

phương pháp Pooled OLS và REM, và thực hiện kiểm định Hausman với mục đích lựa

chọn giữa 02 phương pháp REM và FEM.

Ngoài ra, trong thực tế, khi tác giả thực hiện nghiên cứu thì vấn đề về tổng thể

của đề tài nghiên cứu là rất lớn, vì thế rất khó để thể thu thập toàn bộ dữ liệu của tổng

thể. Do đó, thông thường các tác giả sẽ tiến hành chọn lựa tập hợp một số đối tượng để

tạo thành mẫu nghiên cứu, sau đó thực hiện phân tích. Trên cơ sở đó, các tác giả sẽ suy

30

ra những tính chất chung của toàn bộ tổng thể. Chính vì vậy, để kết quả hồi quy mang

lại ý nghĩa và có thể thể hiện đầy đủ các tính chất chung của toàn bộ tổng thể nghiên

cứu thì cần phải đảm bảo rằng các giả định hồi quy đều không bị vi phạm. Nếu như các

giả định hồi quy bị vi phạm sẽ dẫn đến các kết quả ước lượng không còn đáng tin cậy.

Để có thể thực hiện ước lượng mô hình được chính xác thì cần phải tiến hành một số

kiểm định những giả định sau: thứ nhất, phải không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến;

thứ hai, kiểm định White được sử dụng để phát hiện hiện tượng phương sai sai số thay

đổi; thứ ba, dùng kiểm định Wooldridge nhằm phát hiện sự tự tương quan. Bên cạnh

đó, nếu mô hình nghiên cứu vi phạm những giả định hồi quy, khi đó tác giả sẽ sử dụng

phương pháp nhằm khắc phục tình trạng trên, đó là ước lượng FGLS.

3.3. Dữ liệu nghiên cứu.

Tác giả đã thực hiện thu thập các dữ liệu trong các bộ dữ liệu hàng năm từ

nguồn của Ngân hàng Thế giới và từ nguôn của Quỹ tiền tệ quốc tế đối với 05 quốc gia

trong khu vực Đông Á bao gồm: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hong

Kong và 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái

Lan, Việt Nam, Indonesia, Lào, Cambodia, Myanmar, Brunei, Philipines trong giai

đoạn 08 năm, từ năm 2010 đến năm 2017, với kích thước mẫu nghiên cứu là 120.

31

Kết luận chương 3

Trong chương 3 của luận văn, tác giả căn cứ vào những nghiên cứu có liên quan

trên thế giới đã được lược khảo, đặc biệt đó là đề tài của Marek Dabrowski (2014)

nhằm đề xuất mô hình nghiên cứu để đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô

đối với tỷ lệ nợ công trên GDP tại các quốc gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam

Á. Khi tiến hành các nghiên cứu định lượng, tác giả đã sử dụng dữ liệu bảng thu thập

được từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế. Tiếp theo đó, tác giả dùng 03

phương pháp bao gồm Pooled OLS, REM và FEM để thực hiện ước lượng mức độ tác

động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với tỷ lệ nợ công trên GDP. Cuối cùng, các tiêu

chuẩn kiểm định gồm: kiểm định Hausman và kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian đã

được tác giả sử dụng nhằm tìm ra phương pháp ước lượng phù hợp nhất. Ngoài ra, tác

giả đã thực hiện một số các kiểm định sự vi phạm của mô hình nghiên cứu đối với các

giả định hồi quy để đảm bảo rằng các hệ số ước lượng đạt hiệu quả.

32

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Thực trạng tình hình nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.

Bảng 4.1. Thống kê mô tả về tình hình nợ công trong giai đoạn từ năm 2010 đến

năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Minimum

Maximum

Mean

Std. Deviation

Year

2010

.0062

2.0785

.5068

.4914

2011

.0058

2.2209

.5117

.5263

2012

.0055

2.2901

.5258

.5449

2013

.0052

2.3247

.5281

.5499

2014

.0007

2.3607

.5300

.5561

2015

.0006

2.3126

.5356

.5454

2016

.0006

2.3563

.5460

.5588

2017

.0006

2.3639

.5509

.5637

Total

.0006

2.3639

.5294

.5265

(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Để xác định mức an toàn của nợ công hay kiểm soát tình hình nợ công, các quốc

gia thường sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP của mình. Nhìn chung, theo khuyến

nghị của các chuyên gia kinh tế và những tổ chức tài chính quốc tế thì tỷ lệ nợ công

trên tổng GDP của một nước nằm trong khoảng từ 65%-80% GDP (được đánh giá là

quá lớn), khi đó dù vay nợ bằng hình thức nào cũng sẽ có tác động xấu đến GDP của

nước đó, nghiêm trọng hơn có thể làm cho tốc độ tăng trưởng bị âm, vì trong trường

hợp này, ngân sách Nhà nước hầu hết phải dùng để thanh toán các khoản nợ chứ không

đủ dành cho các dự án đầu tư kinh tế cũng như xã hội. Ngoài ra, để đánh giá về thực

trạng của nợ công một cách toàn diện nhất thì cần phải dựa vào tình hình kinh tế vĩ mô

như các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, thống kê về nhu cầu vốn phục vụ cho

đầu tư và phát triển, chỉ tiêu về hệ số tín nhiệm của quốc gia… Theo nhận định từ các

chuyên gia kinh tế trên thế giới, tại các quốc gia đang phát triển hay các nền kinh tế

33

mới nổi, tỷ lệ nợ công trên GDP phù hợp được đề xuất ở mức 40% và trong dài hạn, tỷ

lệ này không nên bị phá vỡ.

Bảng 4.1 cho kết quả cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017, các

quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đạt được mữa tỷ lệ nợ công trên GDP trung bình

trong khoảng từ 50,68% (trong năm 2010) đến 55,09% (trong năm 2017). Xu hướng

chung cho mức tỷ lệ nợ công của các nước Đông Á và Đông Nam Á đó là tăng dần qua

các năm và đạt cực đại vào năm 2017. Đa số các quốc gia trong khu vực Đông Á và

Đông Nam Á thuộc nhóm nước nước đang phát triển, vì thế với việc tỷ lệ nợ công trên

GDP trung bình qua việc thống kê ở trên là cao hơn so khuyến nghị ở mức 40% của

các chuyên gia. Tuy nhiên, những tỷ lệ này vẫn nằm ở mức trong mức được đánh giá là

khá an toàn.

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện giá trị trung bình của nợ công trong giai đoạn từ

năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

34

Dữ liệu về tỷ lệ nợ công chi tiết của các quốc gia được thể hiện cụ thể hơn ở phụ

lục 1. Từ kết quả có được trong phụ lục 1, chúng ta có thể thấy rằng trong các quốc gia

Đông Á và Đông Nam Á được thống kê nghiên cứu trong đề tài này, một số quốc có tỷ

lệ nợ công ở mức cao (hầu hết trên 50%) như Nhật Bản (trong toàn bộ giai đoạn thu

thập dữ liệu, tỷ nợ công đều trên 200%, cao nhất là năm 2017, đạt 236,388%),

Singapore (tỷ nợ công hầu hết trên 100% trong gia đoạn từ 2010 đến 2017, cao nhất là

năm 2017, đạt 110,864%), Việt Nam (tỷ lệ nợ công nằm trong khoảng từ 44,593% đến

58,231%, trong đó, năm 2016, tỷ nợ cao nhất đạt 59,831%), Lào (tỷ lệ nợ công biến

động trên 50% và cao nhất vào năm 2017 với mức nợ công chiếm 62,769% trong

GDP) và Malaysia (tỷ nợ nợ công nằm giữa 52,94% và 57,916%, cao nhất vào năm

2015). Tuy nhiên, trong đó đối với Singapore, phần lớn nợ công được vay từ bộ phận

cư dân của quốc gia này bằng đồng nội tệ của họ với mức lãi suất rất thấp, vì thế nợ

công của quốc đảo này không chịu các tác động rủi ro về tỷ giá hay tình trạng mất khả

năng chi trả. Đây cũng là nước hiếm hoi thuộc khu vực Châu Á được đánh giá mức tín

nhiệm cao nhất AAA (bên cạnh nền kinh tế thuộc Đông Á, đó là Hồng Kông, do tỷ lệ

nợ công rất thấp, nằm trong khoảng từ 0,055% đến 0,619%). Riêng đối với Nhật Bản,

nợ công của nước này được đánh giá đạt cao nhất trong số tất cả nước phát triển, nhưng

tình hình nợ công của Nhật Bản vẫn nằm trong ngưỡng an toàn. Nguyên nhân dẫn đến

kết quả này là do cũng giống Singapore, nợ công của Nhật Bản hầu hết thuộc sở hữu

của các nhà đầu tư trong nước (ước tính khoảng 95%) và lãi suất các khoản vay nợ này

rất thấp. Ngoài ra, trái phiếu Chính phủ của Nhật Bản rất ổn định, ít bị phụ thuộc bởi

các nhà đầu tư trái phiếu quốc tế; đặc biệt, Nhật Bản có nguồn ngoại tệ được dữ trữ dồi

dào và ICOR (hệ số sử dụng vốn đầu tư) được đánh giá hiệu quả. Những quốc gia còn

lại như Việt Nam, Malaysia và Lào có tỷ lệ nợ công cao và Chính phủ các nước này

cần phải có sự lưu ý về vấn đề tỷ lệ nợ công trên GDP khá cao hiện nay. Nguyên nhân

vì trong cơ cấu nợ công tại các quốc gia này, tỷ lệ nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng khá

lớn, dẫn đến tình trạng phải chịu rủi ro về tỷ giá hối đoái khá cao. Ngoài ra, theo sự

35

đánh giá của Moody’s, mức tín nhiệm của Chính phủ Malaysia và Việt Nam năm 2016

lần lượt đạt mức A3 và B1, riêng trường hợp của Lào, tổ chức này không xếp hạng về

sự tín nhiệm. Điều này có nghĩa rằng Việt Nam và Lào hàng năm phải phải thanh toán

nợ gốc và các chi phí lãi vay khá cao, có thể nói là lớn hơn khá nhiều so với các nước

khác (vì mức tín nhiệm thấp nên lãi suất của trái phiếu Chính phủ cao hơn và quy mô

nợ lớn hơn). Kết quả dẫn đến là, nguồn thu của Nhà nước từ các khoản thuế, phí, lệ phí

sẽ phải dành nhiều hơn để thanh toán nợ và giảm tỷ lệ các nguồn đầu tư dành cho phát

triển kinh tế xã hội đất nước. Có thể nói, đây chính là một trong những nguyên nhân

khiến nền kinh tế Việt Nam phát triển khó bền vững bên cạnh các yếu tố như thể chế

còn nhiều yếu kém, nảy sinh các vấn đề tiêu cực, tham nhũng và hiệu quả các khoản

đầu tư chưa cao.

4.2. Thực trạng về những yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến tình hình nợ

công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.

4.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP.

Sau nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế thấp hơn nhiều so với nhiều nước Bắc Á,

nền kinh tế các nước Đông Á và Đông Nam Á đang tăng trưởng mạnh mẽ và nhiều khả

năng sẽ dẫn đầu châu Á trong những năm tới. Từ kết quả thống kê của bảng 4.2, có thể

thấy tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của các nước Đông Á và Đông Nam Á trong

giai đoạn nghiên cứu đều đạt trên 4% (trừ năm 2016) và biến động từ mức thấp nhất là

3,97% (năm 2016) đến mức cao nhất 7,43% (năm 2010).

36

Bảng 4.2. Thống kê mô tả về tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm 2010

đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Thời gian Mức thấp nhất Mức cao nhất Mức trung bình Độ lệch chuẩn

2010 .0265 .1524 .0743 .0299

2011 -.0012 .0950 .0498 .0252

2012 .0091 .0790 .0490 .0257

2013 -.0213 .0843 .0469 .0292

2014 -.0251 .0799 .0440 .0301

2015 -.0041 .0727 .0421 .0261

2016 -.0247 .0704 .0397 .0280

2017 .0055 .0695 .0475 .0212

(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.2. Biểu đồ giá trị trung bình tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm

2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

37

Phụ lục 2 thể hiện một cách chi tiết về tốc độ tăng trưởng GDP của các nước.

Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong 02 khu vực trên là không

đồng đều, giữa nước thấp nhất và cao nhất có sự chênh lệch rất lớn. Ở khu vực Đông

Á, quốc gia có mức tăng trưởng GDP thấp nhất là Nhật Bản (năm 2011 tăng trưởng

âm) và cao nhất là Trung Quốc. Trong khi đó, Brunei là quốc gia tăng trưởng chậm

nhất, thậm chí nhiều năm bị tăng trưởng âm tại khu vực Đông Nam Á. Trái lại, các

nước khác như Việt Nam, Indonesia, Cambodia, Thái Lan, Myanmar, Lào và

Philippines, lại có tốc độ tăng trưởng khá trong khoảng thời gian thu thập dữ nghiên

cứu. Những số liệu này phản ánh có nhiều khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các

quốc gia trong khu vực, mỗi quốc gia có các ưu tiên phát triển kinh tế khác nhau vì có

những cơ hội lẫn thách thức khác nhau đến từ bên ngoài và trong chính mỗi quốc gia.

Ví dụ như Trung Quốc đã nêu lên những định hướng lớn trong xây dựng thể chế kinh

tế hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa với 06 nội dung lớn: Đi sâu vào cải cách kết cấu trọng

cung; nhanh chóng xây dựng nhà nước sáng tạo; thực thi chiến lược chấn hưng nông

thôn; thực thi chiến lược phát triển hài hòa vùng miền; nhanh chóng hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy hình thành cục diện mới mở cửa đối ngoại

toàn diện. Trong khi đó, Nhật Bản hướng vào 04 mục tiêu cơ bản và dài hạn sau:

Khuyến khích lối sống thân thiện với môi trường; hình thành và phát triển các đô thị

phát triển hiện đại, bền vững; phát triển hệ thống kinh tế, xã hội gắn kết hài hoà với

môi trường; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phát triển bền vững quốc gia và bảo vệ

môi trường toàn cầu, thông qua hỗ trợ vốn, khoa học – công nghệ cho các nước đang

phát triển và các nước nghèo cùng chung sức thực hiện chiến lược phát triển bền vững.

Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, thúc đẩy phát triển

bền vững toàn cầu. Riêng đối với Hàn Quốc, kinh tế phát triển nhảy vọt như hiện nay

đó là nhờ nhưng chính sách đúng đắn của Chính phủ trong từng giai đoạn. Hiện tại,

kinh tế quốc gia này đang tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp nặng và sản xuất ô

tô. Ở khu vực Đông Nam Á, chẳng hạn Thái Lan và Indonesia đang chú trọng chính

38

sách phát triển giáo dục và nâng cao đời sống ở nông thôn nhằm giảm khoảng cách

giàu nghèo và đẩy mạnh đầu tư. Trong khi đó, Việt Nam thực hiện quá trình cải cách

doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hóa. Singapore cũng như Malaysia lại chú

trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Philippines và Myanmar cố gắng thúc đẩy phát triển thêm việc làm và hoàn thiện cơ

chế pháp lý để thu hút nguồn vốn FDI. Cambodia lại quan tâm đến vấn đề phát triển

nông nghiệp và du lịch mới. Lào đầu tư ngành năng lượng để tăng xuất khẩu điện.

4.2.2. Thâm hụt ngân sách.

Thâm hụt hay thặng dư ngân sách được xác định bằng chênh lệch giữa tổng thu

và tổng chi ngân sách trung ương và địa phương trong một năm của Chính phủ. Nếu

tổng thu nhỏ hơn tổng chi thì ngân sách sẽ bị thâm hụt và ngược lại sẽ là thặng dư. Dữ

liệu thâm hụt/thặng dư ngân sách trong nghiên cứu được tác giả tính bằng cách lấy hiệu

số của tổng chi trừ cho tổng thu. Do đó, số dương sẽ thể hiện cho tình trạng thâm hụt

ngân sách, còn số âm sẽ thể hiện cho tình trạng thặng dư ngân sách.

Bảng 4.3. Thống kê mô tả về tình hình thâm hụt/thăng dư ngân sách trong giai

đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Year Minimum Maximum Mean Std. Deviation

2010 -.0761 .0953 .0124 .0457

2011 -.2564 .0944 -.0076 .0799

2012 -.1573 .0861 .0010 .0594

2013 -.1299 .0791 .0080 .0524

2014 -.0547 .0629 .0088 .0333

2015 -.0360 .1452 .0247 .0412

2016 -.0446 .2148 .0277 .0595

2017 -.0604 .1237 .0214 .0442

(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

39

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.3. Biểu đồ giá trị trung bình thâm hụt/thặng dự ngân sách trong giai đoạn

từ năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Số liệu trong bảng 4.3 cho thấy tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách trên GDP của

các nước Đông Á và Đông Nam Á từ 2010 đến 2017 có giá trị trung bình biến động

trong khoảng từ -0,76% (năm 2011) đến 2,77% (năm 2016). Hầu hết trong các năm

thu thập dữ liệu nghiên cứu, giá trị trung bình của tỷ lệ thâm hụt ngân sách Chính phủ

của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đều đạt giá trị dương (duy nhất năm 2011

cho giá trị âm), điều đó có nghĩa rằng năm 2011, các quốc gia ở 2 khu vực này thặng

dư ngân sách, còn lại đều rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách. Trong đó, năm 2016 tỷ

lệ thâm hụt ngân sách trên GDP của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đạt giá trị

trung bình cao nhất là 2,77%. Có thể thấy, với tình trạng gần như thâm hụt ngân sách

qua các năm thì việc vay nợ của các nước trong 02 khu vực đang nghiên cứu là một

biện pháp thường xuyên và quan trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về thực trạng và

đưa ra các khuyến nghị để quản lý tình hình nợ công tại đây là rất phù hợp và cần thiết.

40

Theo phụ lục 3, các nước thường có tỷ lệ ngân sách thặng dư so với GDP là Hàn

Quốc, Singapore và Hong Kong (cả 8 năm từ 2010 – 2017 đều thặng dư ngân sách);

Brunei (có 5 năm thặng dư ngân sách); Philippine và Thái Lan (có 3 năm thặng dư

ngân sách); Myanmar (thặng dư ngân sách vào năm 2012). Trong khi đó, tất cả các

nước còn lại bao gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Cambodia, Indonesia, Lào,

Malaysia và Việt Nam đều có tình trạng thâm hụt ngân sách trong suốt giai đoạn từ

năm 2010 đến năm 2017. Thực tế này cho thấy đa số Chính phủ các nước Đông Á và

Đông Nam Á đều có tình trạng thu không đủ chi dẫn đến thâm hụt ngân sách trong

nhiều năm. Những khoản thâm hụt này sẽ được giải quyết bằng cách vay mượn nợ từ

trong hoặc ngoài nước. Do đó, tình trạng thâm hụt này kéo theo thực trạng nợ công có

xu hướng ngày càng tăng trong khu vực.

4.2.3. Lãi suất thực tế.

Bảng 4.4. Thống kê mô tả về lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm

2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Thời gian Mức thấp nhất Mức cao nhất Mức trung bình Độ lệch chuẩn

2010 -.0959 .0930 .0127 .0476

2011 -.1222 .0551 .0072 .0489

2012 .0141 .0957 .0422 .0232

2013 .0164 .0857 .0475 .0210

2014 -.0052 .0847 .0422 .0261

2015 -.0098 .2783 .0619 .0745

2016 .0077 .1617 .0523 .0440

2017 .0028 .0655 .0265 .0198

(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

41

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.4. Biểu đồ giá trị trung bình của lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm

2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Lãi suất thực tế được tính xấp xỉ bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát.

Đây là lãi suất mà nhà đầu tư hy vọng nhận được sau khi trừ đi lạm phát. Việc tăng

giảm lãi suất thực tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản nợ công có lãi suất thả

nổi và những khoản vay mới. Từ các tính toán trong bảng 4.4 có thể thấy, từ năm 2010

đến năm 2017, lãi suất thực tế của các nước Đông Á và Đông Nam Á có giá trị trung

bình thay đổi trong khoảng từ 0,72% (năm 2011) đến 6,19% (năm 2015). Lãi suất thực

tế của các nước thuộc 02 khu vực này có sự biến động khá lớn và không ổn định qua

các năm. Điều này sẽ gây nguy cơ đến các khoản nợ công có lãi suất thả nổi và việc đi

vay mới của các Chính phủ bởi vì tình hình biến động của lãi suất có biên độ lớn và

khó dự báo.

42

4.2.4. Tỷ giá hối đoái.

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.5. Biểu đồ tỷ giá hối đoái trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của

các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á

Biểu đồ hình 4.5 cũng như các số liệu chi tiết trong phụ lục 5 phản ánh xu

hướng chung của các đồng tiền trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á có nhiều biến

động và hiện nay đa số là giảm giá trị so với đồng USD. Điều này cho thấy có sự cạnh

tranh về việc giảm giá trị nội tệ giữa các nước trong từng khu vực.

Xu hướng này cho thấy các nước trong 02 khu vực đang sử dụng công cụ tỷ giá

để kích thích xuất khẩu, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Xu hướng hạ giá trị đồng tiền sẽ

làm giá của hàng xuất khẩu trên thị trường rẻ hơn so với thị trường quốc tế, tuy nhiên

cũng khiến cho giá hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường trong nước. Đặc

biệt, trong 02 khu vực nghiên cứu, các mặt hàng xuất khẩu của các nước trong khu vực

Đông Nam Á (trừ Singapore) có nhiều đặc điểm chung về chủng loại và lợi thế nguồn

nhân công giá rẻ chính vì thế khiến việc cạnh tranh về xuất khẩu giữa các nước trong

43

khu vực trở nên gay gắt hơn, nếu không có sự điều chỉnh hợp lý về tỉ giá. Mặt khác,

việc hạ giá đồng nội tệ sẽ tạo sức ép lên các khoản nợ công bằng ngoại tệ, lúc này các

nước phải chi nhiều nội tệ hơn để mua ngoại tệ trả nợ.

4.3. Thống kê mô tả các biến.

Bảng 4.5. Thống kế mô tả các biến của mô hình nghiên cứu của các quốc gia Đông

Á và Đông Nam Á

N Minimum Maximum Mean Std. Deviation

120 .0006 2.3639 .5167 .5023 PD

120 -.3599 .2148 .0092 .0570 BDFE

120 -.1222 .3542 .0358 .0524 INT

120 -.0542 .1524 .0467 .0330 GDP

120 1.2496 22370.0867 3226.8359 5764.8911 EX

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

Bộ dữ liệu nghiên cứu được tác giả dùng STATA để thống kê mô tả các biến

trong mô hình dựa trên các tiêu chí sau: kích thước mẫu, mức độ trung bình, độ lệch

chuẩn, mức thấp nhất và mức cao nhất. Các biến được thống kê bao gồm: biến phụ

thuộc đó là tỷ lệ nợ công trên tổng GDP (PD) và các biến độc lập bao gồm: Tốc độ

tăng trưởng kinh tế (GDP), tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP (BDEF), tỷ lệ lãi suất

thực tế (INT), và tỷ giá hối đoái (EX).

Bảng 4.5 thế hiện kết quả thống kê mô tả dữ liệu. Kết quả thể hiện giá trị trung

bình của tỷ lệ nợ công trên GDP là 51,67%, giá trị nhỏ nhất là 0,06% và lớn nhất là

236,39% với độ lệch chuẩn 50,23%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có giá trị trung bình là

4,67%, độ lệch chuẩn là 3,30%, mức lớn nhất và nhỏ nhất lần lượt là 15,24% và

-5,42%. Đây là một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối tốt so với các khu vực khác

trên thế giới. Giá trị trung bình của tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách là 0,92%, nhỏ

nhất là -35,99% và lớn nhất là 21,48%, độ lệch chuẩn là 5,70%. Tỷ lệ lãi suất thực tế

nằm trong khoảng từ -12,22% đến 35,42%, với mức lãi suất trung bình là 3,58% và độ

44

lệch chuẩn là 5,24%. Giá trị trung bình của tỷ giá hối đoái là 3226,8359 với giá trị lớn

nhất và thấp nhất lần lượt là 22.370 và 1,25. Độ lệch chuẩn của tỷ giá là 5764,8911.

4.4. Kết quả ước lượng hồi quy mô hình nghiên cứu.

4.4.1. Kết quả ước lượng.

Tác giả đã tiến hành hồi quy dữ liệu bảng được thu thập với 03 phương pháp

ước lượng đó là: Phương pháp Pooled OLS, mô hình REM và mô hình FEM nhằm ước

lượng sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô trong mô hình nghiên cứu đến tỷ lệ nợ

công trên GDP. Kết quả phân tích hồi quy được trình bày chi tiết trong phụ lục 6. Bảng

4.6 trình bày tóm tắt kết quả hồi quy.

Bảng 4.6. Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu

Các biến

ảnh Pooled OLS REM FEM

hưởng

3.8002*** -0.0169 -0.0194 BDEF

-3.7153** -0.0405 -0.0408 INT

-2.5948 -0.7335*** -0.7275*** GDP

-0.0000128 0.0000148** 0.0000161** EX

0.5586*** 0.5399*** 0.8134*** Constant

R- 0.1652 0.1664 0.1667 squared

Prob = 0.0056< 0.01 (***) F-test

Prob = 0.8854> 0.1 Hausman test

Prob = 0.0000< 0.01 (***) Breusch-Pagan Lagrangian test

***,** và * thể hiện ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

45

Kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian cho kết quả Prob = 0.0000 < 0.1 nên giả

thuyết phương sai giữa các cá thể hoặc các thời điểm có sự thay đổi được chấp nhận.

Vì vậy phương pháp ước lượng tác động ngẫu nhiên (REM) là phương pháp thích hợp

hơn phương pháp Pooled OLS.

Bên cạnh đó, kiểm định Hausman cho kết quả Prob = 0.8854 > 0.1 do đó phần

dư và các biến độc lập trong mô hình không có sự tương quan vì vậy phương pháp tác

động ngẫu nhiên (REM) sẽ được lựa chọn trong trường hợp này.

Tóm lại kết quả kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrangian cho thấy

trong trường hợp này việc sử dụng phương pháp tác động ngẫu nhiên (REM) để ước

lượng sẽ phù hợp nhất.

4.4.2. Kết quả kiểm định các giả định của mô hình hồi quy.

4.4.2.1.Phân tích tương quan.

Bảng 4.7 cho thấy Phân tích tương quan chỉ ra rằng biến phụ thuộc đều có tương

quan với các biến độc lập trong mô hình nên có thể tiến hành phân tích hồi quy. Ngoài

ra, không có sự tương quan chặt giữa các biến độc lập với nhau nên mô hình sẽ không

xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.

46

Bảng 4.7. Hệ số tương quan của các biến

Correlations

BDFE

INT

GDP

EX

PD

BDFE

Pearson Correlation

1

.399**

-.001

.260**

.242*

Sig. (2-tailed)

.000

.988

.006

.010

N

120

93

120

111

112

INT

Pearson Correlation

.399**

1

-.106

.061

-.116

Sig. (2-tailed)

.313

.560

.292

.000

N

93

93

93

93

85

GDP

Pearson Correlation

-.001

-.106

1

.241*

-.148

Sig. (2-tailed)

.988

.011

.118

.313

N

120

93

120

111

112

EX

Pearson Correlation

.260**

.061

.241*

1

-.108

Sig. (2-tailed)

.006

.560

.279

.011

N

111

93

111

111

103

PD

Pearson Correlation

.242*

-.108

1

-.116

-.148

Sig. (2-tailed)

.010

.292

.118

.279

N

112

85

112

103

112

**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).

*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

47

4.4.2.2. Hiện tượng đa cộng tuyến.

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

Hệ số VIF được dùng để đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến của các biến độc

lập trong mô hình. Nếu hệ số VIF nhỏ hơn 10 thì có thể kết luận mô hình không vi

phạm giả định về đa cộng tuyến. Kiểm định cho thấy các biến độc lập có hệ số VIF

trong khoảng từ 1.11 đến 1.72. Chính vì vậy các biến độc lập trong mô hình không có

hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng.

4.4.2.3. Hiện tượng tự tương quan.

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

Hiện tượng tự tương quan có kết quả kiểm định Prob = 0.0004< 0.05 vì vậy giả

thuyết H0 bị bác bỏ. Điều này cho thấy có hiện tượng tự tương quan. Tuy nhiên, dữ liệu

khảo sát có số lượng đối tượng tương đối lớn (15 đối tượng) và số thời kỳ khảo sát

48

tương đối nhỏ (8 năm) không đủ lớn để phân tích quá trình tạo ra các sai số nhiễu, do

đó kết luận hiện tượng tự tương quan như kiểm định trên thường chưa đủ độ tin cậy để

kết luận và có thể bỏ qua.

4.4.2.4. Hiện tượng phương sai sai số thay đổi.

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

Hiện tượng phương sai sai số thay đổi được kiểm địnhcó kết quả Prob =

0.0006< 0.05 do đó giả thuyết H0 phương sai của sai số không đổi được chấp nhận. Mô

hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi.

4.4.2.5. Phân phối chuẩn của phần dư.

Giả định phân phối chuẩn của phần dư nếu bị vi phạm thì có thể kết luận mô

hình nghiên cứu không được sử dụng đúng, phương sai không phải hằng số hoặc số

lượng phần dư không đủ lớn để tiến hành hồi quy (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng

Ngọc, 2005). Để tiến hành kiểm định phân phối chuẩn của phần dư, tác giả dùng hai

loại biểu đồ là biểu đồ Histogram và P-P Plot.

Biểu đồ hình 4.6 chính là biểu đồ Histogram thể hiện biểu đồ tần số của phần dư

chuẩn hóa được đường cong phân phối chuẩn đặt chồng lên với dạng hình chuông, thể

hiện đúng với dạng đồ thị của phân phối chuẩn. Giá trị Mean rất nhỏ (0.01), độ lệch

chuẩn là 0.598, do đó phân phối của phần dư gần như chuẩn.

49

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

Hình 4.6. Biểu đồ Histogram về phân phối chuẩn của phần dư

Đối với biểu đồ P – P Plot, phần dư có phân phối chuẩn thì các điểm phân vị

trong phân phối của phần dư sẽ tập trung xung quanh đường chéo. Điều này được thể

hiện rất rõ trong biểu đồ hình 4.7 do đó có thể kết luận phần dư của mô hình nghiên

cứu có phân phối chuẩn.

(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)

Hình 4.7. Biểu đồ P – P Plot về phân phối chuẩn của phần dư

50

4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu.

Từ các kết quả kiểm định, tác giả kết luận phương pháp ước lượng tác động

ngẫu nhiên (REM) là thích hợp nhất cho mô hình nghiên cứu của luận văn. Kết quả

ước lượng từ bảng 4.6 cho thấy:

Giả thuyết H1: Tốc độ tăng trưởng GDP có tác động âm đến tỷ lệ nợ công.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có tác động tích cực đến tỷ lệ nợ công trên

GDP với mức ý nghĩa 5%. Hệ số của mô hình hồi quy cho thấy khi tốc độ tăng trưởng

kinh tế tăng thêm 1% sẽ làm tỷ lệ nợ công trên GDP giảm 0,7335%. Điều này phù hợp

với giả thuyết nghiên cứu của tác giả. Kết quả này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế

là yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng làm giảm tỷ lệ nợ công. Đối với các quốc gia tại 02

khu vực nghiên cứu, việc tăng trưởng GDP góp phần làm giảm nợ công do nền kinh tế

đã có sự tích lũy, ngoài ra, khi kinh tế ngày càng phát triển thì nguồn thu từ các khoản

nộp ngân sách nhà nước sẽ tăng theo và khi đó các khoản đầu tư, chi ngân sách được

bù đắp từ nguồn tích lũy này, từ đó giảm các khoản vay nợ cũng như có nguồn để chi

trả lãi vay.

Giả thuyết H2: Tỷ lệ nợ công biến động cùng chiều với tỷ lệ thâm hụt ngân

sách.

Mặc dù phương trình hồi quy mẫu cho thấy một ít tác động của thâm hụt ngân

sách đến tỷ lệ nợ công nhưng xét ở khía cạnh tổng thể, ta chưa đủ bằng chứng để kết

luận tỷ lệ thâm hụt ngân sách có sự tác động đến tỷ lệ nợ công. Trong mô hình REM

(Phụ lục 6) giá trị p cho biến BDFE = 0.886 là khá lớn, và khoảng ước lượng 95% hệ

số của biến này nằm trong khoảng (-0.2480;0.2141) (chứa giá trị 0). Theo nhận định

của tác giả, nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do có sự không đồng nhất trong mối

quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách của một số Quốc gia trong cả 02

khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Hình 4.8.a minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công

và tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Lào, qua đó, ta thấy rằng khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách

51

càng tăng thì tỷ lệ nợ công cũng tăng theo. Mối quan hệ này phù hợp so với giả thuyết

đã được tác giả đặt ra và phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây tại nhiều Quốc gia

trên thế giới, đặc biệt đối với các Quốc gia có nên kinh tế đang phát triển hoặc chậm

phát triển. Hình 4.8.b thể hiện mối quan hệ giữa nợ công và thâm hụt ngân sách tại

Nhật Bản. Qua đó, ta thấy Nhật Bản có tỷ lệ tăng nợ công rất cao, tuy nhiên, Nhật Bản

là một cường quốc kinh tế, có khả năng và luôn sẵn sàng cho các biện pháp ngăn chặn

khủng hoảng nợ công. Áp lực từ tỷ lệ nợ công cao đã buộc Nhật Bản có những biện

pháp cứng rắn để giảm tối đa vấn đề thâm hụt ngân sách. Do đó, tỷ lệ thâm hụt ngân

sách của Nhật Bản không tăng theo tỷ lệ nợ công. Xu hướng này cũng xuất hiện ở một

số Quốc gia có nền kinh tế tương đối phát triển khác trong 02 khu vực như Hàn Quốc,

Singapore và Malaysia. Việc xuất hiện 2 xu hướng khác nhau trong dữ liệu chung dẫn

đến việc chưa đủ bằng chứng để chứng minh giả thuyết H2 như đề cập ở phần trên.

52

a- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách Lào

b- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách Nhật Bản

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.8. Minh họa sự khác nhau trong mối quan hệ giữa nợ công và thâm hụt

ngân sách ở một số nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á

53

Giả thuyết H3: Lãi suất thực tế có tác động dương đến tỷ lệ nợ công.

Tương tự như tình trạng thâm hụt ngân sách, ở quy mô tổng thể, kết quả kiểm

định ở mô hình REM trong Phụ lục 6 cho thấy trên phương diện tổng thể ta chưa thể

kết luận rằng lãi suất thực tế có tác động đến nợ công. Đa số các Quốc gia trong khu

vực Đông Á và Đông Nam Á là các nước đang phát triển, nên nhu cầu mượn nợ để đầu

tư rất cao, dẫn đến nợ công ngày càng tăng. Tuy nhiên, các khoản vay lãi suất thấp mà

các nước này nhận được có xu hướng ngày càng giảm và chuyển dần sang các khoản

vay ưu đãi, vay thương mại với lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, khi nợ công ở một Quốc

gia tăng và trở nên bất ổn, khả năng trả nợ ngắn hạn không khả thi, lãi suất, đặc biệt là

lãi suất nợ dài hạn sẽ được điều chỉnh cao hơn. Thực trạng trên dẫn đến việc lãi suất

thực tế có tác động thuận chiều đối với tỷ lệ nợ công ở một số quốc gia khảo sát (xem

minh họa Hình 4.9.a với nợ công tại Việt Nam). Ở một số Quốc gia khác, chẳng hạn

Nhật Bản (xem minh họa Hình 4.9.b) mặc dù tỷ lệ nợ công ngày càng tăng nhưng

chính sách nợ công của Nhật Bản vẫn được đánh giá là mang tính bền vững và ổn định

do các chính sách điều chỉnh của chính phủ nước này như chính sách cắt giảm thâm hụt

ngân sách, chính sách thuế…(Broda and Weinstein (2005), Kazuo Ogawa và cộng sự

2016), điều này dẫn đến Nhật Bản vẫn được đánh giá cao về khả năng trả nợ dẫn đến

lãi suất, đặc biệt là lãi suất dài hạn được duy trì ở mức thấp. Xu hướng tương tự cũng

đúng với một số quốc gia khác trong 02 khu vực như Hàn Quốc, Trung Quốc, Brunei,

Malaysia và Thái Lan.

54

a- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế Việt Nam

b- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế Nhật Bản

(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)

Hình 4.9. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế ở một số

quốc gia khu vực Đông Á và Đông Nam Á

55

Giả thuyết H4: Tỷ giá hối đoái có tác động dương đến tỷ lệ nợ công.

Tỷ giá hối đoái (EX) có tác động tích cực đến tỷ lệ nợ công trên GDP với mức ý

nghĩa 5%. Khi tỷ giá hối đoái tăng thêm 1% sẽ làm tỷ lệ nợ công trên GDP tăng thêm

0,0000148% (rất nhỏ). Điều này đúng với giả thuyết nghiên cứu của tác giả. Bởi lẽ,

theo Mankiw (2003) cho rằng, khi tỷ giá giảm hay giá đồng nội tệ tăng lên sẽ có tác

động tiêu cực tới xuất khẩu, gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai và có tác động tới nợ

công (tác động gián tiếp, nên hệ số của biến rất nhỏ). Kết quả này hàm ý rằng: cơ cấu

đồng tiền vay trong danh mục nợ công hiện hành của các nước Đông Á và Đông Nam

Á có các khoản vay bằng ngoại tệ đã phát sinh rủi ro do các biến động tỷ giá các đồng

tiền vay bằng ngoại tệ này, việc điều chỉnh giảm giá trị đồng nội tệ của các nước Đông

Á và Đông Nam Á để hỗ trợ cho xuất khẩu đã làm tăng giá trị danh nghĩa các khoản nợ

công bằng ngoại tệ quy theo đồng nội tệ. Điều này khiến cho các khoản nợ công vay

bằng ngoại tệ đang tiềm ẩn những rủi ro cho Chính phủ các nước nếu xảy ra những sự

biến động về tỷ giá lớn mà không thể kiểm soát và được dự báo trước.

56

Kết luận chương 4

Trong chương 4, tác giả tiến hành thống kê mô tả về thực trạng tỷ lệ nợ công

trên GDP và các yếu tố tác động đến nợ công trong mô hình nghiên cứu bao gồm: tốc

độ tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách, lãi suất thực tế và tỷ giá hối đoái tại các

nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á từ năm 2010 đến năm 2017. Qua kết quả

thống kê từ phần mềm STATA, tác giả đã có những phân tích, nhận xét cụ thể về sự

biến động của tỷ lệ nợ công và các yếu tố tác động đến nợ công của các nước Đông Á

và Đông Nam Á qua các năm nhằm có cơ sở thực tế để đưa ra các khuyến nghị phù

hợp.

Các bước nghiên cứu định lượng được thực hiện bao gồm thống kê mô tả các

biến trong mô hình nghiên cứu, xem xét các giả định hồi quy có bị vi phạm hay không

để đảm bảo các hệ số ước lượng là hiệu quả và không lệch, phân tích hồi quy mức độ

tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến tỷ lệ nợ công trên GDP từ đó đưa ra những

phân tích, nhận xét về kết quả nghiên cứu.

57

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

5.1. Kết luận.

Với vị trí và vai trò của khu vực Đông Á và Đông Nam Á ngày càng lên cao

trên bản đồ địa chính trị - kinh tế thế giới, những biến động kinh tế của khu vực này

cũng tạo ra những ảnh hướng đáng kể lên tăng trưởng kinh tế toàn cầu khi đây là khu

vực đầu tàu phát triển kinh tế thế giới với mức độ tăng trưởng luôn ở mức cao. Chính

vì lẻ đó, việc ổn định kinh tế cho khu vực này luôn là tâm điểm quan tâm phân tích của

các nhà kinh tế học trên thế giới nói chung và các nước trong khu vực nói riêng. Một

trong số những chủ đề đáng quan tâm là tình hình nợ công của tổng thể khu vực này.

Với mức độ phát triển kinh tế còn hạn chế, khả năng quản lý kinh tế các quốc gia Đông

Á và Đông Nam Á còn nhiều điểm khác biệt do khác biệt về nền tảng địa chính trị và

văn hoá, việc nghiên cứu giúp xác định các yếu tố có tác động đến nợ công chung của

02 khu vực và qua đó hỗ trợ các nhà phát triển chính sách tại các nước có thể vạch ra

những hướng đi mang tính phổ quát cho khu vực trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô

và tìm ra những giải phát tối ưu nhằm hướng đến sự phát triển bền vững của cả 02 khu

vực với tầm nhìn ngắn đến dài hạn là rất cần thiết và mang đến nhiều kết quả có giá trị.

Thông qua nghiên cứu này, một số kiến thức có liên quan đến chủ đề nợ công

được tác giả hệ thống hoá ở mức độ học thuật với các yếu tố tác động mang tính vĩ mô

được chỉ ra. Đồng thời thông qua thực nghiệm bộ dữ liệu của nghiên cứu, tác giả đã chỉ

ra các yếu tố có tác động trực tiếp đến nợ công của các quốc gia Đông Á và Đông Nam

Á, đồng thời làm rõ những ảnh hưởng của các yếu tố đó lên tình hình nợ công của khu

vực. Thực tiễn nghiên cứu này, những nhà hoạch định chính sách cũng có được cái

nhìn phổ quát về những yêu tố tác động lên nợ công của quốc gia mình trong các giai

đoạn được nghiên cứu để từ đó rút ra những kết luận về định hướng phát triển kinh tế

vĩ mô bền vững trong thời gian tới.

Từ những cơ sở lý thuyết và những nghiên cứu có liên quan của những nhà kinh

tế học trên thế giới, tác giả chỉ ra những yếu tố có thể có tác động lên nợ công của các

58

nước trong 02 khu vực Đông Á và Đông Nam Á bao gồm các yếu tổ như: Tốc độ tăng

trưởng kinh tế (GDP), tỷ lệ thâm hụt ngân sách (BDEF), lãi suất thực của quốc gia

được nghiên cứu (INT) và tỷ giá hối đoái kỳ trước theo quốc gia so với USD (EX). Với

giả thuyết rằng, tất cả những yếu tố vừa nêu đều có tác động lên tỷ lệ nợ công (nợ

công/tổng GDP) trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017.

Từ những yếu tố vừa chỉ ra, thông qua nghiên cứu này, tác giả chỉ ra bức tranh

kinh tế tổng thể của khu vực với tỷ lệ nợ công trong khoản 50,68% - 55,09% và có xu

hướng tăng dần theo thời gian, mức tỷ lệ này là chấp nhận được với cơ cấu các quốc

gia đa phần là đang phát triển và một số trường hợp có nợ công vượt mức 100% (như

Nhật Bản và Singapore). Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trung bình trong khoảng từ -0,76%

đến 2,77% nhưng nhóm thời gian thâm hụt và danh sách các nước thâm hụt luôn nhiều

hơn các thặng dư. Lãi thực và tốc độ tăng trưởng (GDP) các nước trong 02 khu vực

hầu hết ở mức cao thể hiện rằng đây là 02 khu vực năng động với suất sinh lợi lớn và

luôn là khu vực tăng trưởng ấn tượng của kinh tế thế giới. Tỷ giá hối đoái lại là một

câu chuyện khác của 02 khu vực này, khi các quốc gia luôn xem đây là một công cụ hỗ

trợ tăng trưởng kinh tế nước nhà, nên tỷ giá luôn được giữ ở mức thấp để tăng tính

cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu nhưng lại làm tăng áp lực nợ công khi các chính

phủ phải chi tiêu nhiều nội tệ hơn để mua các khoản nợ ngoại tệ.

Bằng các biến độc lập và mô hình đã có, tác giả thực hiện chạy lần lượt 03

phương pháp ước lượng gồm mô hình Pooled OLS, REM và FEM và thông qua các

bước kiểm định để lựa chọn mô hình REM là phương pháp ước lượng phù hợp nhất

cho nghiên cứu. Tiếp sau đó, tác giả thực hiện một số kiểm định về sự vi phạm các giả

định hồi quy và đưa ra kết luận rằng bộ dữ liệu là tốt để thực hiện nghiên cứu.

Với kết quả hồi quy thu được, các yếu tổ đã nêu ra đều có tác động đến nợ công,

cụ thể như sau:

- Khi tốc độ tăng trường GDP tăng 1% sẽ làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP

tương ứng 0,7335% ở mức ý nghĩa 5%.

59

- Tỷ giá hối đoái (EX) tăng 1% cũng làm tăng nợ công nhưng ở mức rất thấp,

chỉ khoảng 0,0000148%, với mức ý nghĩa 5%.

- 2 yếu tố còn lại là tình trạng thâm hụt ngân sách và lãi suất thực tế có một ít

tác động đến tình hình nợ công (đối với mẫu trong khuôn khổ thu thập dữ liệu), tuy

nhiên chưa thể kết luận trên phương diện tổng thể.

5.2. Khuyến nghị cho các nước Đông Á và Đông Nam Á.

5.2.1. Về tăng trưởng kinh tế.

Vấn đề nợ công được đặt trên bàn thảo luận của rất nhiều chuyên gia kinh tế trên

thế giới vì nó chính là tấm gương phản ánh hai mặt của vấn đề phát triển và rủi ro suy

thoái do tăng trưởng tín dụng quốc gia một cách ào ạt. Nợ công sẽ là luồng gió tốt đẩy

tăng trưởng kinh tế quốc gia khi dòng tiền nó mang lại được đầu tư đúng và đủ cho các

dự án kinh tế trọng điểm, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mang tính chiến lược quốc gia,...

nhưng nó cũng sẽ đẩy chính quốc gia đó vào cảnh mất khả năng thanh khoản khi sử

dụng lãng phí nguồn vốn này và làm khả năng sinh lợi từ nó giảm xuống, không thể tạo

ra sự chuyển biến trong nền kinh tế đang sử dụng nó.

Vì tính chất hai mặt đó của nợ công mà các chính phủ tại các quốc gia Đông Á

và Đông Nam Á có những cách thức khác nhau trong việc sử dụng nợ công của riêng

từng quốc gia. Nếu như đối với các nước có nền kinh tế đã phát triển như Nhật Bản,

Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore hay Malaysia đang tập trung phát triển kinh tế gắn

với phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường thì đối với các nước như Thái

Lan, Indonesia đầu tư nhiều vào khu vực nông thôn để nâng cao dân trí, kéo giảm

chênh lệch xã hội và Việt Nam dùng những khoản nợ đầu tư vào cơ sở hạ tầng quốc

gia, thúc đẩy kinh tế vùng miền trong nước. Do đó, việc khuyến nghị các quốc gia nên

làm gì với các khoản tín dụng quốc tế của mình là khá khó khăn. Nhưng tựu trung lại,

chúng ta có thể đưa ra một cơ chế chung cho vấn đề này, đó là việc sử dụng nợ công

cũng cần có những kế hoạch cụ thể và rõ ràng với những chỉ tiêu kinh tế đi kèm với

những món đầu tư đó. Những chỉ tiêu kinh tế đó chính là kim chỉ nam và là điều kiện

60

đảm bảo suất sinh lợi của những món nợ quốc gia. Nó không chỉ đảm bảo khả năng trả

nợ của quốc gia nhận nợ tăng lên mà còn đưa kinh tế của khu vực nhận nợ phát triển

vượt bật trong thời gian ngắn. Để làm được như vậy, các Chính phủ cần có những

chính sách giám sát phát triển kinh tế đối với những vùng, lĩnh vực sử dụng nợ công để

đảm bảo có những điều chỉnh kịp thời và đúng đắn trong quá trình đầu tư bằng nợ

công.

5.2.2. Về ngân sách nhà nước.

Thâm hụt ngân sách nhà nước hiện nay vẫn là một vấn đề nan giải tại các quốc

gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á với thời gian thâm hụt liên tục nhiều năm.

Nhưng để xác định thâm hụt hay thặng dư là có lợi cho sự phát triển kinh tế của các

quốc gia trong 02 khu vực nghiên cứu là việc không xác định được. Trong 02 khu vực,

các quốc gia như Hàn Quốc, Hồng Kông hay Singapore luôn ở tinh trạng thặng dư

ngân sách, trong khi đó các quốc gia còn lại đều ở tình trạng thâm hụt ngân sách. Mối

lo về thâm hụt sẽ kéo theo nợ công tăng dần là có lý, vì thông qua nghiên cứu, chúng ta

có thể thấy đa số các quốc gia có tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ công

tăng theo. Tuy nhiên, đối với các quốc gia có sự quản lý tình hình nợ công tốt, việc gia

tăng tỷ lệ nợ công không hoàn toàn do thâm hụt ngân sách mà có thể các nước này

dùng nợ công để làm gia tăng khả năng đầu tư của quốc gia. Điều này giúp cho những

nhà hoạch định chính sách của các nước có thêm căn cứ để xây dựng chính sách quản

lý nợ công, góp phần làm ổn định tình hình nợ công và phát triển kinh tế tại mỗi quốc

gia.

Chúng ta cũng có thể thấy rằng khu vực Đông Á và Đông Nam Á là một khối

kinh tế với sự thống nhất nhất định mà trong đó bao gồm cả các quốc gia có nền kinh tế

phát triển và các quốc gia thuộc nhóm nước kinh tế đang phát triển. Vì thế, các nhà

hoạch định chính sách cần tổ chức nhiều hơn những cuộc hội thảo khoa học và hội thảo

liên chính phủ để có thể tạo điều kiện cho các quốc gia có điều kiện học hỏi lẫn nhau,

từ đó xây dựng một liên minh vững chắc trong khu vực và trên thế giới. Một chính

61

sách tài khoá quốc gia có liên kết mạnh trong khu vực không chỉ đảm bảo khả năng

cạnh tranh chung của cả khối mà còn mang ý nghĩa thúc đẩy kinh tế cho cả 02 khu vực,

tạo ra lợi thế cạnh tranh từ quy mô bên ngoài cho cả khu vực.

Riêng đối với các nước có mức độ thâm hụt thương mại quá sâu trong nhiều

năm liên tiếp, bản thân các nước cũng cần có cái nhìn nghiêm túc hơn về vấn đề kiềm

chế thâm hụt, cắt giảm nhu cầu vay vốn nước ngoài phục vụ phát triển quốc gia mà

chuyển sang tự đầu tư và phát triển kinh tế nội tại. Hướng đi đó sẽ giúp quốc gia có sự

phát triển ổn định và bền vững hơn, đồng thời có được giảm rủi ro do áp lực nợ công

tăng cao, tránh đi vào vết xe đỗ như trường hợp của Hy Lạp hay một số nước Châu Âu

khi không cân đối được nợ công quốc gia.

5.2.3. Về lãi suất thực tế.

Lãi suất thực chính là những gì một nhà đầu tư kỳ vọng trên thị trường khi quyết

định đầu tư vào khu vực. Lãi suất cao lại làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn thị

trường và làm chi phí của các chính phủ phải trả cho khoản vay của mình tăng lên, bào

sâu hơn vào quá trình thâm hụt ngân sách. Vòng tròn khó khăn này chính là một trong

những bài toán khó cho chính phủ các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á

nhưng nó cũng hàm chứa những tiềm năng phát triển của khu vực.

Trên thực tế, trong các năm qua, Chính phủ các nước đã làm khá tốt trong vấn

đề bình ổn lãi suất thực của thị trường, nhưng bao nhiêu đó vẫn là chưa đủ. Các chính

phủ cần những biện pháp dài hạn hơn vì chính sách này là tổng hoà của những chính

sách tiền tệ dài hạn, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô sau khủng hoảng kinh tế,

đưa nền kinh tế đi vào quỹ đạo ổn định. Cụ thể, Chính phủ các nước cần một kế hoạch

hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển kinh doanh, cũng như thu hút nguồn vốn

nước ngoài đầu tư vào thay vì đi vay để làm tăng nợ công. Để làm được điều này, các

chính phủ cần phải cố gắng nâng cao vị thế của mình trên thế giới thông qua việc nâng

chỉ số tín nhiệm tín dụng quốc gia. Một khu vực với những quốc gia có mức tín nhiệm

62

cao cũng là một lợi thế phát triển kinh tế tuyệt vời không chỉ cho riêng các quốc gia mà

còn cho sự phát triển của từng nước nhỏ trong khu vực.

5.2.4. Về tỷ giá hối đoái.

Như đã trình bày về sự khác biệt giữa các nền kinh tế khác nhau trong 02 khu

vực nên tỷ giá hối đoái chung của các quốc gia tác động không nhiều lên nợ công

thông qua mức tác động trong bản kết quả hồi quy của nghiên cứu. Nhưng điều này

cũng không làm giảm tính quan trọng của tỷ giá đối với vấn đề quản lý nợ công của các

quốc gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Vì đây chính là cái giá thực tế các

quốc gia phải bỏ ra khi nhận những khoản tín dụng mang tính quốc tế.

Một quốc gia có chính sách về ngoại tệ hợp lý sẽ làm giảm giá trị khoản nợ của

mình đi đáng kể khi thay đổi tỷ giá trong quá trình nhận nợ. Điều này không chỉ làm

giảm áp lực nợ công đè lên nền kinh tế mà còn giúp tiết kiệm một khoản lớn ngân sách

chi trả cho nợ công của quốc gia đó. Nhưng một chính sách tỷ giá hối đoái quốc gia

thường lại nhắm đền nhiều mục tiêu khác như thúc đẩy xuất nhập khẩu, tăng cường

mậu dịch đa phương,... Trên xu hướng thị trường các nước Đông Á và Đông Nam Á

đang kiềm chế, thậm chí là hạ giá đồng nội tệ như hiện nay, có thể chính sách về xuất

nhập khẩu sẽ phát huy tác dụng khả quan nhưng về dài hạn, các Chính phủ nên để tỷ

giá hối đoái ở mức độ cân bằng, ít biến động vì sẽ làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế nước

nhà, thậm chí xảy ra những căng thẳng chính trị không cần thiết như việc Mỹ phản đối

Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ của họ.

5.3. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo.

5.3.1. Hạn chế của luận văn.

Từ việc thực hiện nghiên cứu thực nghiệm, luận văn đã làm rõ những tác động

của các yếu tố kinh tế vĩ mô lên nợ công các quốc gia khu vực Đông Á và Đông Nam

Á nhưng vẫn tồn tại những hạn chế như sau:

- Nhóm các quốc gia được nghiên cứu trong 02 khu vực là khá ít, tức mẫu thu

thập tuy đạt tiêu chuẩn về mức tối thiểu để phân tích hồi quy đa biến nhưng nếu thực

63

hiện nghiên cứu với kích thước mẫu lớn hơn bằng cách mở rộng giai đoạn nghiên cứu

thì sẽ giúp nâng cao đáng kể giá trị của kết quả nghiên cứu. Nhưng vì thời gian thực

hiện luận văn hạn chế nên chúng ta chấp nhận mức độ của nghiên cứu và kết quả

nghiên cũng là khá tốt, phục vụ được cho các mục đích mà nghiên cứu đề ra.

- Như kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, mức độ giải thích của các các yếu tố tác

động đối với biến phụ thuộc không cao chỉ với 04 biến. Chúng ta đều hiểu rằng còn rất

nhiều yếu tố tác động lên nợ công của một nhóm quốc gia nhưng một nghiên cứu với

đầy đủ các biến sẽ tốn một lượng tài nguyên và thời gian đáng kể nên trong thời lượng

và khả năng của mình, tác giả đã làm khá tốt công việc của mình là đưa ra một mô hình

khả dĩ giải thích cho vấn đề nợ công của các nước khu vực Đông Á và Đông Nam Á.

- Nghiên cứu cũng chỉ thực hiện đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô

lên nợ công mà chưa đánh giá được những yếu tố đó có tác động qua lại nhau hay

không vì nếu có, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả của nghiên cứu.

5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo.

Với những hạn chế vừa nêu ra của đề tài này, chúng ta nhận thấy rằng, nghiên

cứu này hoàn toàn có thể được nâng lên thành một nghiên cứu mang tính phổ quát cao

hơn, có ý nghĩa kinh tế học sâu sắc hơn và mang tính định hướng phát triển kinh tế vĩ

mô khu vực tốt hơn nếu chúng ta có thể khắc phục những vấn đề mà đề tài đang gặp

phải.

Một nghiên cứu tương tự với phạm vị nghiên cứu lớn, chạy trên mô hình dữ liệu

bảng (Panel data) với lượng biến lớn hơn bao gồm nhiều yếu tố vĩ mô hơn sẽ giúp

nghiên cứu trở nên hoàn thiện hơn; giúp ích cho những nhà hoạch định chính sách

không chỉ của một quốc gia cụ thể nào mà là cả 02 khu vực Đông Á và Đông Nam Á

phát triển những chiến lược phù hợp với quốc gia và đồng thời phát huy được thế mạnh

liên kết khu vực.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 Tài liệu trong nước.

1. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu

với SPSS. Tập 2, Nhà xuất bản Hồng Đức.

2. Lê Phan Thị Diệu Thảo và Thái Hán Vinh, 2015. Kiểm định tác động của nợ

công đến tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 116, Tháng

11/2015.

3. Quốc Hội, 2017. Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14. Hà Nội, ngày 23 tháng

11 năm 2017.

 Tài liệu nước ngoài.

1. Abbas A., 2007. Public Domestic Debt and Economic Growth in Low Income

Countries, Department of Economics, Oxford University, Mimeo.

2. Alfaidi, 2002. The Effect of External Debt on the Developing Countries.

3. Baltagi Badi H., 2008. Econometric Analysis of Panel Data. Wiley; 4 edition,

June 9, 2008.

4. Bogdan Andrei Dumitrescu, 2014. The public debt in Romania - factors of

influence, scenarios for the future and a sustainability analysis considering both a

finite and infinite time horizon. Procedia Economics and Finance, 8 (2014), p.

283 – 292.

5. Berg A., and Krueger A., 2003. Trade, Growth, and Poverty: A Selective Survey,

IMF Working Paper, 03/30.

6. Christabell Matiti, 2013. The relationship between public debt and economic

growth in Kenya. International Journal of Social Sciences and Project Planning

Management, Vol.1, Issue 1, 2013.

7. Compos C., Jaimovich D. and Panizza U.,2006. The Unexplained Part of Public

Debt, Emerging Markets Review, 7: 228 - 243.

8. Cuddington John, 1996. Analysing the Sustainability of Fiscal Deficits in

Developing Countries, Economics Department Georgetown University,

Washington DC. 20057-1045.

9. Checherita-W Estphal C. and P. rother, 2012. The impact of high government

debton economic growth and its channels: An empirical investigation for the euro

area, European Economic Review, 56 (7), pp. 1392 - 1405

10. Dornbusch R., and Fisher S.,1990. Macroeconomics, McGraw Hill Publishing

Company, New York.

11. Don P. Clark, 2011. FDI, Technology Spillovers, Growth, and Income Inequality:

A Selective Survey, Global Economy Journal, Volume 11, Issue, 2011.

12. Giannitsarou C. and Scott A.,2006. Inflation Implication of Rising Government

Debt, National Bureau of Economic Research.

13. Granger C. W. and Newbold P.,1974. Spurious Regression in Econometrica,

Journal of Economic, Vol. 2, Paper 111 - 120.

14. Gujirati, 2004. Basic Econometrics. 4thed. The Mcgraw –Hill companies.

15. Judge et al.,1988. Introduction to the Theory and Practice of Econometrics - 2nd

ed. John Wiley & Sons. ISBN 0-471- 62414-4.

16. Jurgita Stankeviciene and Ausrine Lakstutiene, 2013. The Interaction of Public

Debt and Macroeconomic Factors: Case of the Baltic States. Economics and

Business.

17. Jaimovich, D và Panizza, U, 2010. Public debt around the world: a new data set

of central government debt, Applied Economics Letters, 2010.

18. Ley E., 2010. Fiscal (and External) Sustainability, The World Bank, PREM,

Economic Policy and Debt Department, July 18th, 2010.

19. Marek Dabrowski, 2014. Factors Determining a ‘Safe’ Level of Public Debt.

National Research University Higher School of Economics, Moscow.

20. Reinhart C. M., and Rogoff K. S., 2008. This Time is Different: A Panoramic

View of Eight Centuries of Financial Crises.

21. Sachs J. and Larrain F., 1993. Macroeconomics in the Global Economy, Harverter

Wheatsheaf, New York.

22. Tabachnick, B. G.,&; Fidell, L. S., 2007. Using multivariate statistics. Boston:

Pearson/Allyn & Bacon. Chicago (Author-Date, 15th ed.).

23. Wooldridge.J., 2002. Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data.

MIT Press, Cambridge.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

TỶ LỆ NỢ CÔNG TRÊN GDP CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á

VÀ ĐÔNG NAM Á (%)

Quốc gia

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

1.113

2.129

2.101

2.209

3.231

2.953

3.005

2.689

Brunei

33.531

34.89

34.737

35.441

34.104

32.504

33.681

35.134

Cambodia

33.742

33.638

34.269

36.997

39.92

41.066

44.323

47.79

China

24.525

23.106

22.96

24.847

24.682

27.46

28.335

28.913

Indonesia

55.124

50.805

55.238

54.349

58.581

58.093

58.449

62.769

Lao

51.94

52.636

54.552

56.447

56.16

57.916

56.221

54.157

Malaysia

49.622

46.052

40.689

33.209

29.911

34.536

35.747

34.725

Myanmar

49.679

47.476

47.852

45.741

42.064

41.462

38.969

37.825

Philippines

39.831

39.12

41.926

42.192

43.344

42.549

41.805

41.882

Thailand

48.084

44.593

48.39

51.82

55.011

56.968

59.831

58.231

Vietnam

0.619

0.576

0.545

0.52

0.065

0.062

0.059

0.055

Hong Kong

207.852

222.087

229.008

232.469

236.069

231.261

235.627

236.388

Japan

30.825

31.511

32.201

35.39

37.314

39.526

39.996

39.782

Korea

96.987

100.733

105.082

101.487

96.641

100.5

106.774

110.864

Singapore

36.736

38.211

39.182

38.999

37.83

36.553

36.232

35.172

Taiwan

(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế)

PHỤ LỤC 2

TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ

ĐÔNG NAM Á (%)

Quốc gia

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2.6520

3.7440

0.9130

-2.1250

-2.5080

-0.4050

-2.4650

0.5470

Brunei

5.9630

7.1830

7.2550

7.4430

7.0670

7.1970

7.0420

6.9470

Cambodia

10.6060 9.5000

7.9000

7.8000

7.3000

6.9000

6.7200

6.8560

China

6.3780

6.1700

6.0300

5.5570

5.0070

4.8760

5.0330

5.0680

Indonesia

8.0180

7.9860

7.8050

8.0260

7.6120

7.2700

7.0230

6.8300

Lao

7.5280

5.2940

5.4730

4.6940

6.0070

5.0280

4.2200

5.9020

Malaysia

5.3450

5.5910

7.3330

8.4260

7.9910

6.9930

5.8710

6.7200

Myanmar

7.6320

3.6600

6.6840

7.0640

6.1450

6.0670

6.9240

6.6680

Philippines

7.5140

0.8400

7.2430

2.6870

0.9840

3.0200

3.2830

3.9030

Thailand

6.4230

6.2400

5.2470

5.4220

5.9840

6.6790

6.2110

6.8120

Vietnam

6.7680

4.8150

1.7000

3.1020

2.7620

2.3880

2.1370

3.8230

Hong Kong

4.1920

-0.1150 1.4950

2.0000

0.3750

1.3540

0.9380

1.7130

Japan

6.4970

3.6820

2.2920

2.8960

3.3410

2.7900

2.8280

3.0850

Korea

15.2400 6.3510

4.0830

5.1110

3.8840

2.2410

2.3970

3.6190

Singapore

10.6310 3.8050

2.0640

2.2020

4.0210

0.8060

1.4100

2.7900

Taiwan

(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế)

PHỤ LỤC 3

TỶ LỆ THÂM HỤT/THẶNG DƯ NGÂN SÁCH TRÊN GDP CỦA

CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á

Quốc gia

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

-0.0761 -0.2564 -0.1573 -0.1299 -0.0357 0.1452 0.2148 0.1237

Brunei

0.0285 0.0408 0.0380 0.0214 0.0113 0.0158 0.0169 0.0362

Cambodia

0.0036 0.0010 0.0030 0.0083 0.0091 0.0279 0.0370 0.0395

China

0.0124 0.0070 0.0159 0.0222 0.0215 0.0260 0.0249 0.0249

Indonesia

0.0280 0.0150 0.0044 0.0481 0.0393 0.0231 0.0461 0.0483

Lao

0.0453 0.0362 0.0376 0.0405 0.0267 0.0259 0.0261 0.0291

Malaysia

0.0547 0.0353

-0.0094 0.0135 0.0094 0.0442 0.0252 0.0349

Myanmar

0.0235 0.0032 0.0030

-0.0020 -0.0086 -0.0061 0.0037 0.0030

Philippines

0.0126 0.0001 0.0090

-0.0051 0.0079

-0.0013 -0.0056 0.0060

Thailand

0.0276 0.0115 0.0686 0.0744 0.0629 0.0622 0.0625 0.0472

Vietnam

-0.0423 -0.0381 -0.0318 -0.0102 -0.0365 -0.0060 -0.0446 -0.0518

Hong Kong

0.0953 0.0944 0.0861 0.0791 0.0564 0.0380 0.0366 0.0423

Japan

-0.0153 -0.0169 -0.0156 -0.0065 -0.0042 -0.0055 -0.0175 -0.0194

Korea

-0.0620 -0.0874 -0.0788 -0.0663 -0.0547 -0.0360 -0.0330 -0.0604

Singapore

0.0508 0.0402 0.0431 0.0324 0.0273 0.0178 0.0220 0.0181

Taiwan

(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế)

PHỤ LỤC 4

LÃI SUẤT THỰC TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ

ĐÔNG NAM Á (%)

Quốc gia

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

-9.5882 -12.2154 4.2267 8.5661 7.6595 27.8296 16.1651 0.5190

Brunei

-1.0608

-1.4721 3.5232 3.6926 4.7324

4.2527

3.1758 0.2840

China

4.7166

1.0608

1.4054 3.1308 2.0902

1.3088

3.2875

Hong Kong

-1.7461

4.5944

7.7502 6.3749 6.7921

8.3499

9.1802 6.5508

Indonesia

3.5610

3.2293

2.1857 1.6424 -0.5171

-0.9776 0.7691

Japan

2.2782

4.1078

4.3074 3.7579 3.6410

1.1120

1.3626 1.1847

Korea

9.3017

5.5134

9.5703 8.2603 8.4728

8.5113

9.1202 2.4944

Myanmar

-2.1133

-0.4719 3.7484 4.4303 2.0684

4.9785

2.5435

Malaysia

3.3105

2.5394

3.6395 3.6468 2.2960

6.2012

3.8770 3.2315

Philippines

5.4285

4.0812

4.8085 5.6172 5.6191

1.7024

5.3884 4.3716

Singapore

0.2431

1.2767

3.2167 3.2242 3.4578

3.8395

2.0589 2.0553

Thailand

0.9467

-3.5517 2.2949 4.6481 4.3387

7.1645

5.7851 3.1453

Vietnam

(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)

PHỤ LỤC 5

TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ

ĐÔNG NAM Á

Quốc gia

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

1.3635

1.2579

1.2496

1.2512

1.2670

1.3749

1.3813

1.3809

Brunei

6.7703

6.4615

6.3123

6.1958

6.1434

6.2275

6.6445

6.7588

China

7.7692

7.7840

7.7564

7.7560

7.7541

7.7518

7.7623

Hong Kong

9090.43

8770.43

9386.63

10461.2

11865.2

13389.4

13308.3

13380.9

Indonesia

87.7799

79.8070

79.7905

97.5957

105.945

121.044

108.793

112.166

Japan

4184.92

4058.50

4033.00

4027.25

4037.50

4067.75

4058.69

4050.58

Cambodia

1156.06

1108.29

1126.47

1094.85

1052.96

1131.16

1160.43

1130.42

Korea

8258.77

8030.06

8007.76

7860.14

8048.96

8147.91

8179.27

8351.53

Lao

5.6349

5.4441

640.653

933.571

984.346

1162.62

1234.87

1360.36

Myanmar

3.2211

3.0600

3.0888

3.1509

3.2729

3.9055

4.1483

4.3004

Malaysia

45.1097

43.3131

42.2288

42.4462

44.3952

45.5028

47.4925

50.4037

Philippines

1.3635

1.2578

1.2497

1.2513

1.2671

1.3748

1.3815

1.3809

Singapore

31.6857

30.4917

31.0831

30.7260

32.4798

34.2477

35.2964

33.9398

Thailand

18612.9

20509.8

20828.0

20933.4

21148.0

21697.6

21935.0

22370.1

Vietnam

(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)

PHỤ LỤC 6

KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Mô hình Pooled OLS của các nước Đông Nam Á và Đông Á.

Mô hình FEM.

Mô hình REM.

Kiểm định Hausman (lựa chọn giữa REM và FEM).

Kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian (lựa chọn giữa Pooled OLS và REM).