BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN KHÁNH
TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ
ĐẾN NỢ CÔNG
TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN KHÁNH TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ
ĐẾN NỢ CÔNG TẠI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế “Tác động của yếu tố kinh tế vĩ mô
đến nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á” là kết quả nghiên cứu của
riêng tôi, được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng.
Các thông tin, số liệu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tôi
hoàn toàn chịu trách nhiệm rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày…. tháng……năm 2018
Tác giả luận văn
Nguyễn Khánh
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ........................................................................................... 1
1.1. Lý do chọn đề tài. .............................................................................................. 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu. ......................................................................................... 2
1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu. .......................................... 2
1.4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................. 2
1.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. ............................................................. 3
1.6. Kết cấu của đề tài. ............................................................................................. 4
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................. 5
2.1. Tổng quan lý thuyết về “nợ công”. ................................................................... 5
2.1.1. Khái niệm “nợ công”. ........................................................................................ 5
2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của “nợ công”. ................................................................ 7
2.1.3. Mức an toàn của nợ công và sự tác động của nợ công đến nền kinh tế. ........... 8
2.1.4. Phân loại “nợ công”......................................................................................... 13
2.2. Các yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến nợ công. ............................................. 14
2.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP. ............................................................................ 14
2.2.2. Thâm hụt ngân sách. .................................................................................... 16
2.2.3. Lãi suất thực tế. ............................................................................................ 17
2.2.4. Tỷ giá hối đoái. ............................................................................................ 18
2.2.5. Các yếu tố kinh tế vĩ mô khác. .................................................................... 18
2.3. Các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài. ............................. 19
Kết luận chương 2 ....................................................................................................... 23
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................. 24
3.1. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết đặt ra. ................................................. 24
3.1.1. Mô hình nghiên cứu. .................................................................................... 24
3.1.2. Giả thuyết nghiên cứu. ................................................................................. 26
3.2. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................................ 28
3.3. Dữ liệu nghiên cứu. ......................................................................................... 30
Kết luận chương 3 ....................................................................................................... 31
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU................................................................... 32
4.1. Thực trạng tình hình nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. ...... 32
4.2. Thực trạng về những yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến tình hình nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. ................................................................. 35
4.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP. ............................................................................ 35
4.2.2. Thâm hụt ngân sách. .................................................................................... 38
4.2.3. Lãi suất thực tế. ............................................................................................ 40
4.2.4. Tỷ giá hối đoái. ............................................................................................ 42
4.3. Thống kê mô tả các biến.................................................................................. 43
4.4. Kết quả ước lượng hồi quy mô hình nghiên cứu. ............................................ 44
4.4.1. Kết quả ước lượng. ...................................................................................... 44
4.4.2. Kết quả kiểm định các giả định của mô hình hồi quy. ................................ 45
4.4.2.1.Phân tích tương quan. .............................................................................. 45
4.4.2.2. Hiện tượng đa cộng tuyến. ................................................................... 47
4.4.2.3. Hiện tượng tự tương quan. ................................................................... 47
4.4.2.4. Hiện tượng phương sai sai số thay đổi. ................................................ 48
4.4.2.5. Phân phối chuẩn của phần dư. .............................................................. 48
4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu. ........................................................................ 50
Kết luận chương 4 ....................................................................................................... 56
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...................................................... 57
5.1. Kết luận. .......................................................................................................... 57
5.2. Khuyến nghị cho các nước Đông Á và Đông Nam Á. .................................... 59
5.2.1. Về tăng trưởng kinh tế. ................................................................................ 59
5.2.2. Về ngân sách nhà nước. ............................................................................... 60
5.2.3. Về lãi suất thực tế. ....................................................................................... 61
5.2.4. Về tỷ giá hối đoái. ........................................................................................ 62
5.3. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo. .................................... 62
5.3.1. Hạn chế của luận văn. .................................................................................. 62
5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo. ....................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI
Fixed Effects Model Mô hình tác động cố định FEM
Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Ordinary Least Square Phương pháp bình phương nhỏ nhất OLS
Random Effects Model Mô hình tác động ngẫu nhiên REM
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Mô tả về các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu ........................ 25
Bảng 4.1. Thống kê mô tả về tình hình nợ công trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................................................... 32
Bảng 4.2. Thống kê mô tả về tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm 2010 đến
năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .................................................. 36
Bảng 4.3. Thống kê mô tả về tình hình thâm hụt/thăng dư ngân sách trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................... 38
Bảng 4.4. Thống kê mô tả về lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................................................... 40
Bảng 4.5. Thống kế mô tả các biến của mô hình nghiên cứu của các quốc gia Đông Á
và Đông Nam Á ............................................................................................................ 43
Bảng 4.6. Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu ............................................ 44
Bảng 4.7. Hệ số tương quan của các biến ..................................................................... 46
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện giá trị trung bình của nợ công trong giai đoạn từ năm 2010
đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ........................................... 33
Hình 4.2. Biểu đồ giá trị trung bình tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm 2010 đến
năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .................................................. 36
Hình 4.3. Biểu đồ giá trị trung bình thâm hụt/thặng dự ngân sách trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á .......................... 39
Hình 4.4. Biểu đồ giá trị trung bình của lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm 2010
đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ........................................... 41
Hình 4.5. Biểu đồ tỷ giá hối đoái trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của các
quốc gia Đông Á và Đông Nam Á ................................................................................ 42
Hình 4.6. Biểu đồ Histogram về phân phối chuẩn của phần dư ................................... 49
Hình 4.7. Biểu đồ P – P Plot về phân phối chuẩn của phần dư .................................... 49
Hình 4.8. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và thâm hụt ngân sách ở một số
nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á .............................................................. 52
Hình 4.9. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế ở một số quốc
gia khu vực Đông Á và Đông Nam Á ........................................................................... 54
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Đối với mỗi giai đoạn trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội, Chính phủ của
mỗi quốc gia cần huy động các nguồn lực từ trong nước và nước ngoài để vận hành các
chức năng quản lý Nhà nước cũng như thực hiện nhiệm vụ đối với nền kinh tế và toàn
xã hội. Khi các nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí không đủ đáp ứng được nhu cầu chi tiêu,
Chính phủ phải quyết định vay nợ - khoản nợ đó thường được gọi là nợ công. Nợ công
là nguồn tài trợ rất quan trọng cho sự phát triển kinh tế và không thể thiếu trong ngân
sách của bất kỳ quốc gia nào để phục vụ nhu cầu chi tiêu và sử dụng vào những mục
đích khác nhau của mỗi Chính phủ.
Đông Á và Đông Nam Á là 02 khu vực chiến lược của châu Á, có ảnh hưởng
lớn đến kinh tế và chính trị của khu vực cũng như thế giới. Bên cạnh đó, đây là 02 khu
vực có quan hệ mật thiết về kinh tế và chính trị bao gồm các nước thuộc Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó có Việt Nam và các nước có quan hệ đối
tác chiến lược trong khu vực. Tại Đông Á và Đông Nam Á, một trong những vấn đề
lớn mà Chính phủ các nước đang rất quan tâm đó là tình hình nợ công và quản lý nợ
công. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các yếu tố tác động đến tình hình nợ công đã và
đang là chủ đề thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và các
nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới. Hiện nay, việc nghiên cứu nhóm yếu tố kinh tế vĩ
mô tác động đến tình hình nợ công là vấn đề rất cấp thiết, góp phần đề ra các biện pháp
kiểm soát nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “TÁC ĐỘNG
CỦA CÁC YẾU TỐ KINH TẾ VĨ MÔ ĐẾN NỢ CÔNG TẠI CÁC QUỐC GIA
ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á” để thực hiện đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ
của mình.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng nợ công và tác động của
những yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công tại các quốc gia khu vực Đông Á và Đông
Nam Á hiện nay. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số khuyến nghị về yếu tố
kinh tế vĩ mô giúp Chính phủ các nước hoạch định và hoàn thiện quản lý nợ công trong
thời gian tới.
1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi thu thập dữ liệu.
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu là các yếu tố kinh tế vĩ mô (04 yếu tố bao gồm: Tốc độ
tăng trưởng GDP, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, lãi suất thực tế và tỷ giá hối đoái tác động
đến tình hình nợ công.
1.3.2. Phạm vi thu thập dữ liệu.
- Không gian thu thập dự liệu: Các quốc gia Đông Á ( 05 nước bao gồm:
Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong) và các quốc gia Đông Nam
Á (10 nước bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia, Lào,
Cambodia, Myanmar, Brunei, Philipines).
- Thời gian thu thập dữ liệu: Dữ liệu được thu thập trong thời gian 08 năm từ
2010 đến 2017.
- Nguồn thu thập dữ liệu: Dữ liệu được thu thập từ Ngân hàng Thế giới
(World Bank) đối với các dữ liệu về tỷ giá hối đoái và dữ liệu về lãi suất thực tế; từ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) đối với các dữ liệu về tình hình nợ
công, dữ liệu về tổng chi và tổng thu ngân sách của Chính phủ các quốc gia và dữ liệu
về tốc độ tăng trưởng GDP tại các quốc gia.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Tác giả sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, dữ liệu bảng với 03 mô
hình khác nhau là: mô hình ước lượng OLS thô (Pooled OLS), mô hình tác động ngẫu
3
nhiên (REM - Random Effects Model) và mô hình tác động cố định (FEM - Fixed
Effects Model) để đo lường mức độ ảnh hưởng của các biến độc lập đến biến phụ
thuộc chính là tỷ lệ nợ công trên GDP của các quốc gia. Tiếp theo, để đảm bảo sự phù
hợp của mô hình, tác giả sẽ tiến hành thực hiện một số kiểm định Breusch-Pagan
Lagrangian để lựa chọn giữa Pooled OLS và REM (Baltagi, 2008 trang 319), kiểm
định Hausman để lựa chọn giữa REM và FEM (Baltagi, 2008 trang 320; Gujarati, 2004
trang 652).
Ngoài ra, tác giả tiến hành kiểm định các giả định hồi quy để đảm bảo kết quả
ước lượng của mô hình hồi quy là hiệu quả và đáng tin cậy: hiện tượng phương sai sai
số thay đổi; hiện tượng đa cộng tuyến; phần dư có phân phối chuẩn; hiện tượng tự
tương quan. Cuối cùng, nếu xảy ra hiện tượng tự tương quan hay phương sai sai số
thay đổi, phương pháp FGLS sẽ được sử dụng để kiểm soát các vi phạm này (Judge,
Hill et al, 1988).
1.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Đóng góp về lý luận: Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các nền tảng kiến thức
tổng quát và các phương pháp định lượng, bài nghiên cứu góp phần củng cố thêm bằng
chứng khoa học thực nghiệm và bổ sung thêm vào kho tài liệu về chủ đề nghiên cứu
tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công của Chính phủ tại các quốc gia khu
vực Đông Á và Đông Nam Á. Đặc biệt hơn, điểm mới của bài nghiên cứu tiên phong
trong việc tác giả dựa trên cơ sở các nghiên cứu thực nghiệm trước đây để đề xuất mô
hình nghiên cứu gồm các biến phù hợp với tình hình thực tế tại các quốc gia Đông Á
và Đông Nam Á để làm rõ tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến tình hình nợ công
tại các nước này, trong đó có Việt Nam. Kết hợp kết quả bài nghiên cứu này với các
giả thuyết được xây dựng trước đây, bài nghiên cứu còn có ý nghĩa mở ra nhiều hướng
đi mới cho các nhà khoa học tìm hiểu sâu hơn về chủ đề này.
- Đóng góp về thực tiễn: Bài nghiên cứu tập trung xây dựng mô hình kiểm
định tác động của các yêu tố kinh tế vĩ mô đến nợ công của Chính phủ tại các quốc gia
4
Đông Á và Đông Nam Á có nhiều nét tương đồng về vị trí địa lý tự nhiên, văn hóa và
điều kiện kinh tế xã hội, trong đó có Việt Nam với kỳ vọng bài nghiên cứu có ý nghĩa
thực tiễn cao. Kết quả nghiên cứu này nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định
chính sách về vấn đề mang tính thời sự hiện nay là quản lý nợ công, góp phần làm nền
tảng trong việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như trong
công cuộc cải cách nền kinh tế vĩ mô ở các quốc gia khu vực Đông Á và Đông Nam Á
nói chung và Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên cứu cung cấp cho các nhà hoạch định
chính sách bằng chứng thực nghiệm về tác động của của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến
tình hình nợ công tại các nước Đông Á và Đông Nam Á để từ đó có thể xây dựng các
chính sách vĩ mô phù hợp trong từng giai đoạn khác nhau và có tác động tích cực đến
tình hình nợ công, góp phần ổn định và phát triển kinh tế một cách bền vững tại các
nước này trong thời gian tới.
1.6. Kết cấu của đề tài.
Luận văn được kết cấu thành 05 chương như sau:
- Chương 1: Giới thiệu.
Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu trước đây liên quan đến đề -
tài.
- Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu.
- Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
- Chương 5: Kết luận và khuyến nghị.
5
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
2.1. Tổng quan lý thuyết về “nợ công”.
2.1.1. Khái niệm “nợ công”.
Trong kho tàng kiến thức về kinh tế, có rất nhiều định nghĩa về “nợ công” khác
nhau được các nhà nghiên cứu trên thế giới đưa ra tùy thuộc vào phạm vi sử dụng,
mục đích tìm hiểu và dựa vào thể chế chính trị riêng tại từng quốc gia. Có một số khái
niệm về “nợ công” phổ biến trên thế giới thường được các nhà nghiên cứu sử dụng như
sau:
- Theo Ngân hàng Thế giới, “nợ công” là những khoản nợ do Chính phủ đi vay
và những khoản vay nợ được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm các khoản nợ của Chính
phủ từ mọi cấp trung ương đến các cấp địa phương đi vay. Cụ thể:
+ Các khoản vay nợ của Chính phủ: là một phần của nợ công gồm có các
khoản vay nợ trong nước và các khoản vay nợ từ nước ngoài của Chính phủ; của các
thành phố, tỉnh hoặc các tổ chức chính trị trực thuộc Chính phủ và các doanh nghiệp có
vốn nhà nước.
+ Các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh: là một phàn của nợ công gồm các
khoản vay nợ trong nước và các khoản nợ từ nước ngoài của khu vực kinh tế tư nhân
để thực hiện các dự án kinh tế - xã hội được Chính phủ bảo lãnh.
- Theo định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, khái niệm “nợ công” được hiểu là
các nghĩa vụ nợ của toàn bộ khu vực công, bao gồm các khu vực tài chính công và các
khu vực phi tài chính công. Cụ thể trong đó:
+ Các khu vực tài chính công: bao gồm những tổ chức tiền tệ (các tổ chức tín
dụng Nhà nước, Ngân hàng trung ương) và những tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín
dụng không có chức năng cho vay mà chỉ hỗ trợ phát triển).
+ Các khu vực phi tài chính công: bao gồm Chính phủ, thành phố, tỉnh, bộ
máy chính quyền địa phương và các doanh nghiệp phi tài chính của Nhà nước.
6
- Theo Luật Quản lý nợ công năm 2017 được Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 23 tháng 11 năm 2017 và có hiệu lực thi hành từ
01 tháng 7 năm 2018, “nợ công” được phân loại thành 03 hình thức, bao gồm: các
khoản nợ Chính phủ, các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh và các khoản nợ của
chính quyền địa phương. Cụ thể, Điều 4, Chương I của Luật này quy định:
+ Các khoản nợ Chính phủ: bao gồm các khoản nợ do Chính phủ phát hành
các công cụ nợ; các khoản nợ do Chính phủ ký kết những thỏa thuận vay trong nước và
từ nước ngoài; các khoản nợ của ngân sách Trung ương do vay từ những quỹ dự trữ tài
chính của Nhà nước, ngân quỹ Nhà nước, các quỹ tài chính của Nhà nước ngoài ngân
sách.
+ Các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh: bao gồm các khoản nợ của các
doanh nghiệp mà được Chính phủ bảo lãnh; các khoản nợ của các ngân hàng chính
sách Nhà nước mà được Chính phủ bảo lãnh.
+ Các khoản nợ của chính quyền địa phương: bao gồm những khoản nợ do
phát hành các trái phiếu chính quyền tại địa phương; các khoản nợ do đi vay lại các
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (nguồn vốn vay ODA), vay ưu đãi của nước
ngoài; những khoản nợ ngân sách của các địa phương vay từ các ngân hàng chính sách
của Nhà nước, các quỹ dự trữ tài chính cấp thành phố, tỉnh, từ ngân quỹ Nhà nước và
các khoản vay nơ khác theo quy định của pháp luật Nhà nước về ngân sách nhà nước.
Như vậy, “Nợ công” là một khái niệm rất phức tạp và có nhiều định nhĩa khác
nhau. Tuy nhiên, hầu hết các phương pháp tiếp cận ngày nay đều cho rằng, các khoản
nợ công là các khoản nợ do Chính phủ của một nước chịu trách nhiệm và phải chi trả
các khoản nợ đó. Chính vì thế, thuật ngữ “nợ công” thường được dùng đồng nghĩa với
những thuật ngữ kinh tế như nợ Nhà nước hoặc nợ Chính phủ và là một bộ phận cấu
thành nợ quốc gia. Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, khái niệm “nợ công” được quy định
trong Luật tại Việt Nam được đánh giá hẹp hơn so với các thông lệ quốc tế có liên
quan.
7
Đối với cả 03 cách định nghĩa nợ công từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế và trong Luật Quản lý nợ công năm 2017 của Việt Nam, cần lưu ý rằng “nợ
công” và “nợ Chính phủ” không phải là các khái niệm đồng nhất. Nợ Chính phủ trong
các khái niệm này chỉ là một yếu tố cấu thành trong tổng nợ công.
Tuy mỗi khái niệm được hình thành dựa trên các cách tiếp cận khác nhau và phù
hợp sử dụng cho từng hoàn cảnh cụ thể tại mỗi quốc gia nhưng có thể hiểu nợ công
theo một cách chung nhất, đó là tổng các khoản tiền đi vay của Chính phủ thuộc mọi
cấp của các cơ quan hành chính Nhà nước từ cấp trung ương đến các địa phương. Mục
đích khi thực hiện các khoản vay này nhằm tài trợ cho các nhu cầu chi tiêu quá lớn và
xuất hiện tình trạng ngân sách bị thâm hụt. Do đó có thể hiểu nợ công chính là các
khoản thâm hụt ngân sách được cộng dồn tại một thời điểm nhất định tại một quốc gia.
Thông thường, để phản ánh đúng các giá trị của khoản nợ công tại một quốc gia, các
nhà kinh tế hay sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ phần trăm giữa nợ công trong tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của nước đó.
2.1.2. Các đặc trưng cơ bản của “nợ công”.
Hiện nay có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về “nợ công”, tuy nhiên, về cơ
bản, “nợ công” có những đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, “nợ công” là các khoản nợ được ràng buộc bởi trách nhiệm trả nợ của
Chính phủ. Khác với những khoản vay nợ thông thường, các khoản nợ công được xác
định đó là một khoản vay nợ mà Nhà nước (gồm cả các cơ quan hành chính Nhà nước
có thẩm quyền) chịu trách nhiệm chi trả cho các khoản nợ ấy. Trách nhiệm này của
Nhà nước được thể hiện thông qua 02 phương thức trả nợ trực tiếp và gián tiếp. Trả nợ
trực tiếp là phương thức mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chính là người đi
vay; do đó, cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ vay. Ngược
lại, trả nợ gián tiếp là phương thức cơ quan nhà nước có thẩm quyền chịu trách nhiệm
bảo lãnh cho một đối tượng khác trong nước vay nợ; khi bên vay nợ không có khả
8
năng trả được nợ thì trách nhiệm thanh toán sẽ thuộc về các cơ quan đã đứng ra bảo
lãnh.
Thứ hai, “nợ công” được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý theo quy
trình chặt chẽ. Quá trình quản lý tình hình nợ công yêu cầu phải có một quy trình
nghiêm ngặt để đảm bảo 02 mục đích: Đầu tiên, đó là phải đảm bảo khả năng thanh
toán nợ của các đơn vị được sử dụng vốn vay, và quan trọng hơn đó là đảm bảo cán
cân thanh toán được cân bằng và ổn định an ninh tài chính của quốc gia; tiếp theo, quá
trình sử dụng nguồn vốn vay phải mang lại hiệu quả. Ngoài ra, vấn đề quản lý tình hình
nợ công chặt chẽ còn mang ý nghĩa quan trọng về đảm bảo tình hình chính trị xã hội ổn
định. Nguyên tắc quản lý nợ công tại Việt Nam đó là Nhà nước quản lý thống nhất, tập
trung và toàn diện nợ công từ công tác huy động đến khi phân bổ, đưa vào sử dụng vốn
vay và cuối cùng là thanh toán các khoản nợ nhằm đảm bảo 02 mục tiêu quan trọng
trên.
Thứ ba, có thể nói mục tiêu cao nhất thông qua việc huy động và sử dụng các
khoản nợ công là dùng để phát triển kinh tế – xã hội tại mỗi quốc gia với mục đích
mang lại các lợi ích cho cộng đồng. Các khoản nợ công được sử dụng không nhằm
thỏa mãn bất kỳ lợi ích riêng nào của các cá nhân hay tổ chức nào, mà phải vì các lợi
ích chung to lớn của cộng đồng. Tại Việt Nam, bản chất của Nhà nước đó là thiết chế
dung để phục vụ các lợi ích chung của toàn xã hội, Nhà nước Việt Nam là Nhà nước
của dân, do dân và vì dân nên dĩ nhiên những khoản nợ công được huy động và sử
dụng phải dựa trên các lợi ích to lớn của nhân dân, mà cụ thể ở đây là với mục đích
phát triển kinh tế – xã hội đất nước và đó chính là điều kiện quan trọng nhất.
2.1.3. Mức an toàn của nợ công và sự tác động của nợ công đến nền kinh tế.
Để đánh giá và nhận định tính bền vững của tình hình nợ công, tiêu chí tỷ lệ nợ
công trên tổng GDP thường được xem là chỉ số phổ biến nhất trong các nghiên cứu đại
diện cho cách nhìn tổng quát nhất về tình hình nợ công tại một quốc gia. Tuy nhiên, chỉ
tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP chỉ phản ảnh được một phần về mức độ an toàn hoặc rủi ro
9
của các khoản nợ công. Mức độ an toàn của tình hình nợ công được thể hiện thông qua
tình trạng nợ công có vượt qua ngưỡng an toàn ở một thời điểm hay trong một giai
đoạn nào đó hay không. Mức độ an toàn hoặc rủi ro của các khoản nợ công của một
nước không chỉ phụ thuộc vào chỉ tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP mà còn phụ thuộc nhiều
hơn vào tình hình phát triển kinh tế tại quốc gia đó. Khi xem xét về nợ công, các nhà
nghiên cứu không chỉ phải quan tâm đến tổng nợ, số nợ phải trả định kỳ mà còn phải
quan tâm nhiều hơn tới các rủi ro và cơ cấu khoản nợ. Quan trọng nhất phải tính đó là
khả năng thanh toán khoản nợ và các rủi ro của nó trong tương lai, chứ không chỉ là
con số tổng nợ trên GDP. Một số tiêu chí được dùng để xem xét mức độ an toàn của
tình hình nợ công cụ thể như sau:
Một là, giới hạn nợ công nằm trong khoảng từ 50% – 60% trong tổng GDP hoặc
không được lớn hơn 150% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia. Theo Ngân
hàng Thế giới thì ngưỡng an toàn của nợ công được quy định là 50% GDP. Ngoài ra,
theo đánh giá của các tổ chức quốc tế thì tỷ lệ nợ công hợp lý là dưới mức 50% GDP
đối với các quốc gia đang phát triển;
Hai là, Chính phủ không sử dụng nhiều hơn 10% trong tổng số chi ngân sách để
trả nợ cũng như tối đa ở mức 15% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, không
có một hạn mức an toàn cụ thể chung nào dành cho cho các nền kinh tế. Trên thực tế,
tỷ lệ nợ công trên GDP thấp không đảm bảo sẽ nằm trong ngưỡng an toàn hoặc ngược
lại. Tại các quốc gia, mức độ an toàn còn phụ thuộc vào quy mô và sự phát triển của
nền kinh tế. Điển hình như Mỹ và Nhật Bản là 02 quốc gia có tỷ lệ nợ công cao (lần
lượt bằng 96% GDP và 200% GDP) nhưng vẫn được đánh giá nằm trong ngưỡng an
toàn. Ngược lại, nhiều nước tuy có tỷ lệ nợ công trên GDP khá thấp như Venezuela (tỷ
lệ nợ công bằng 15% GDP năm 1981), Ucraina (tỷ lệ là 13% GDP năm 2007) nhưng
sau đó vẫn rơi vào khủng hoảng nợ;
Tóm lại, việc xem xét và đánh giá về tình hình nợ công cũng như bản chất của
nó tại một quốc gia là đặc biệt quan trọng. Nếu như chỉ nhìn vào các vào số liệu thể
10
hiện tỷ lệ nợ công cao sẽ gây ra tâm lý thiếu tin tưởng vào Nhà nước, hoang mang
trong người dân, dẫn đến tình trạng kích động và làm căng thẳng xã hội tăng cao, dễ
gây ra tình trạng rối loạn chính trị, kinh tế.
Quan điểm của Keynes đã cho rằng: Trong ngắn hạn, khi Chính phủ đi vay nợ
để bù đắp cho việc thâm hụt ngân sách Nhà nước trong điều kiện mức chi tiêu công
không đổi thì làm tăng khả năng tiêu dùng trong bộ phận dân cư, điều đó dẫn đến làm
gia tăng tổng cầu về các hàng hóa, thương mại dịch vụ, làm tăng sản lượng và nhu cầu
việc làm. Dựa trên quan điểm trên, có thể thấy một số tác động chủ yếu mang tính tích
cực của nợ công như sau:
Thứ nhất, nợ công sẽ làm tăng lên các nguồn lực cho Chính phủ, từ đó làm gia
tăng nguồn vốn cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và tăng khả năng cho sự
đầu tư đồng bộ khác của Nhà nước. Để cơ sở hạ tầng phát triển đồng bộ và nhanh
chóng đòi hỏi quan trọng nhất là phải có nguồn vốn để thực hiện. Bằng các chính sách
huy động từ các khoản nợ công hợp lý sẽ giải quyết được từng bước các nhu cầu về
vốn để có thể đầu tư cho cơ sở hạ tầng, qua đó sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất cho
toàn bộ nền kinh tế;
Thứ hai, nợ công cũng góp phần tận dụng hiệu quả các nguồn tài chính đang
nhàn rỗi của bộ phận dân cư. Có một bộ phận không nhỏ dân cư trong xã hội với các
khoản tiết kiệm của mình, thông qua sự huy động của Nhà nước để các khoản tiền này
được sử dụng và mang lại những hiệu quả kinh tế to lớn cho cả khu vực công và khu
vực tư;
Thứ ba, nợ công sẽ làm tận dụng được các sự hỗ trợ quan trọng từ nước ngoài
cũng như những tổ chức tài chính quốc tế. Các khoản tài trợ quốc tế chính là một trong
những hoạt động quan trọng về kinh tế và ngoại giao của các quốc gia phát triển nhằm
có được tầm ảnh hưởng lớn đến các quốc gia kém phát triển hơn để đạt được những
chương trình hợp tác kinh tế và chính trị song phương. Nếu như tận dụng tốt các cơ hội
này thì các quốc gia sẽ có thêm nhiều nguồn vốn ưu đãi để có thể đầu tư và phát triển
11
cơ sở hạ tầng trong nước, trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của đối tác,
đồng thời đảm bảo về độc lập và chủ quyền của đất nước.
Một sự việc nào cũng bao gồm hai mặt đối lập của nó. Bên cạnh các tác động
mang tính tích cực, có thể nói nợ công cũng là nhân tố gây ra không ít tác động tiêu
cực cho nền kinh tế:
Thứ nhất, Nợ công càng cao sẽ gây áp lực càng lớn đến chính sách tiền tệ của
một quốc gia, đặc biệt là nợ công từ các khoản tài trợ từ nước ngoài. Nếu việc quản lý
tài chính của Chính phủ lỏng lẻo cũng như không có đủ các cơ chế giám sát chặt chẽ
thì việc sử dụng và quản lý các khoản nợ công sẽ là nguyên nhân dẫn đến các tình
trạng tiêu cực như lãng phí, tham nhũng tràn lan. Khi tình trạng này xảy ra sẽ làm thất
thoát ngân sách Nhà nước và các nguồn lực, qua đó làm giảm hiệu quả các khoản đầu
tư.
Thứ hai, nếu như Chính phủ vay nợ của các chủ thể trong nước quá nhiều thì sẽ
làm giảm chỉ tiêu tích lũy vốn tư nhân, điều đó dẫn đến sự tụt giảm về mức độ đầu tư
của khu vực kinh tế tư nhân. Trong tình trạng đó, mức độ suy giảm của nguồn vốn từ
khu vực kinh tế tư nhân sẽ bị thay thế bởi những khoản nợ tích lũy khác của Chính
phủ. Khi người dân sở hữu quá nhiều các trái phiếu của Chính phủ sẽ dẫn đến việc
nguồn vốn nhàn rỗi có trong bộ phận dân cư suy giảm, song song với đó là nhu cầu vay
nợ của Chính phủ sẽ tăng lên và làm dẫn đến chi phí đầu tư tăng cao do lãi suất tăng.
Thứ ba, nợ công sẽ tạo áp lực làm gây ra tình trạng lạm phát. Theo các lý thuyết
hiện đại, nguyên nhân chính gây ra tình trạng lạm phát tăng cao đó là do việc tăng tổng
cầu hoặc do chi phí đẩy. Nếu Chính phủ vay nợ trong nước nhiều dẫn đến lãi suất tăng
thì sẽ làm tăng chi phí đầu tư, qua đó làm giá thành tăng và giá bán sản phẩm cũng tăng
theo. Ngoài ra, nợ công gia tăng và nhu cầu chi tiêu công tăng sẽ khiến tổng cầu hàng
hóa, dịch vụ tăng lên, tạo áp lực gây nên tình trạng lạm phát. Khi Chính phủ vay nợ từ
nước ngoài nhiều hơn, áp lực thanh toán nợ và lãi vay bằng ngoại tệ làm cho cầu ngoại
tệ tăng theo, dẫn đến làm giảm giá đồng nội tệ và đồng ngoại tệ sẽ tăng giá, làm tăng
12
các chi phí đầu vào trong quá trình nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, … và
cuối cùng dẫn đến tình trạng lạm phát cao.
Thứ tư, Nợ công sẽ gây ra sự méo mó đối với các hoạt động kinh tế, gây nên sự
tổn thất các phúc lợi xã hội. Nếu như Chính phủ vay nợ từ nước ngoài thì nguồn tiền để
thanh toán khoản nợ và chi phí lãi vay có thể được lấy bởi nguồn từ các khoản thu thuế
và phí của người dân. Khi đó, vô hình chung người dân sẽ phải chịu thêm một khoản
thuế và phí cao hơn trong tương lai để Chính phủ có thêm nguồn tiền trả lãi vay và nợ
nước ngoài; làm giảm thu nhập và nhu cầu tiêu dùng của người dân và làm cho chất
lượng cuộc sống ngày càng suy giảm. Nếu như Chính phủ vay nợ của các chủ thể trong
nước thì các tác động có thể sẽ ít tiêu cực hơn là vay nợ từ nước ngoài vì trong trường
hợp đó, Chính phủ chỉ phải thanh toán khoản nợ cho chính các người dân nước mình
và bản thân các chủ thể trong nước cũng được các lợi ích do những khoản chi tiêu công
từ việc Chính phủ vay nợ tạo ra. Tuy nhiên, việc người bị đánh thuế cao hơn để trả lại
các lợi ích cho chính bản thân họ khi đang sở hữu các trái phiếu của Chính phủ vẫn gây
ra những tác động tiêu cực khiến cho các hoạt động kinh tế như hành vi tiết kiệm, tiêu
dùng của người dân bị thay đổi, từ đó gây nên những ảnh hưởng đến tình hình kinh tế
vĩ mô như hoạt động sản xuất và nhu cầu việc làm.
Thứ năm, nợ công sẽ làm cho tiết kiệm quốc gia giảm sút. Nếu như Chính phủ
tiến hành vay nợ công để có nguồn vốn bù đắp cho sự thâm hụt ngân sách thì sẽ có khả
năng xảy ra những tác động đến tiết kiệm quốc gia: Một là các khoản tiết kiệm tư nhân
gia tăng nhỏ hơn so với phần giảm của các khoản tiết kiệm Chính phủ, dẫn đến chỉ số
tiết kiệm quốc gia suy giảm; Hai là nợ công làm giảm đầu tư nội địa, dẫn đến làm giảm
đầu ra là tổng vốn nội địa, bên cạnh đó là lãi suất tăng, làm tăng chi phí biên của sản
phẩm trong khi năng suất lao động sụt giảm sẽ làm cho thu nhập trung bình sụt giảm và
qua đó tiết kiệm quốc gia sẽ giảm theo; Ba là việc gia tăng nợ công sẽ làm lãi suất thực
tế trong nước tăng cao hơn so với lãi suất ở nước ngoài, dẫn đến tình trạng dòng tiền từ
nước ngoài chảy mạnh hơn vào trong nước và gây ra hậu quả làm giảm tỷ giá hối đoái,
13
vì thế giá cả hàng hoá nội địa sẽ đắt hơn hàng ngoại nhập và khiến xuất khẩu ròng
giảm cũng như thu nhập người dân giảm, cuối cùng làm cho tiết kiệm quốc gia giảm.
Ngoài ra, các quốc gia với các khoản nợ công lớn sẽ phải đối mặt với những vấn
đề khác mang tính nghiêm trọng hơn như phải có sự thay đổi các chính sách tài chính
của quốc gia để có thể trang trải các chi phí lãi vay và thanh toán khoản nợ, hệ số xếp
hạng tín nhiệm của quốc gia giảm sút, phải thay đổi các kế hoạch và định hướng phát
triển kinh tế của quốc gia, làm giảm vị thế trong các mối quan hệ đa phương và song
phương với các đối tác là chủ nợ và đặt biệt có nguy cơ chịu ảnh hưởng bởi nước ngoài
về kinh tế và chính trị, gây nguy hiểm đến chủ quyền và độc lập dân tộc,….
Tại mỗi quốc gia, việc nhận biết được những tác động tích cực cũng như tiêu
cực của nợ công nhằm mục đích phát huy các mặt tích cực và có các biện pháp làm hạn
chế các mặt tiêu cực, từ đó có những định hướng để xây dựng và thực hiện các chính
sách pháp luật về quản lý tình hình nợ công. Đó là điều rất cần thiết và cấp thiết tại tất
cả các quốc gia, trong đó có các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
2.1.4. Phân loại “nợ công”.
Căn cứ vào mỗi tiêu thức khác nhau, “nợ công” sẽ được phân loại thành nhiều
hình thức. Trên thế giới, người ta thường phân loại nợ công dựa vào chủ thể vay nợ,
nguồn gốc vay nợ, hình thức vay nợ và kỳ hạn thanh toán khoản nợ. Cụ thể:
- Phân loại theo chủ thể nợ:
Căn cứ vào tiêu thức phân loại theo chủ thể vay nợ, Luật quản lý Nợ công
(năm 2017) của Viêt Nam bao gồm 03 loại: Các khoản nợ Chính phủ, các khoản nợ
được Chính phủ bảo lãnh và các khoản nợ của chính quyền địa phương (chi tiết đã
được tác giả trình bày tại mục 2.1, chương 2 của luận văn).
- Phân loại theo nguồn gốc vay nợ (theo địa lý lãnh thổ):
+ Các khoản nợ vay trong nước: bao gồm tất cả các khoản vay nợ từ các chủ
thể trong nước.
14
+ Các khoản nợ vay từ nước ngoài: bao gồm tất cả các khoản vay nợ từ các
chủ thể nước ngoài.
- Phân loại theo hình thức vay nợ:
+ Vay nợ trực tiếp: Là hình thức mà Chính phủ có thể phát hành các trái
phiếu Chính phủ để thực hiện việc vay nợ từ các tổ chức và cá nhân nhằm mục đích bù
đắp tình trạng bội chi làm cho ngân sách Nhà nước bị thâm hụt. Trái phiếu của Chính
phủ như trái phiếu, trái phiếu của chính quyền địa phương, trái phiếu ngoại tệ và một
số loại trái phiếu khác.
+ Vay nợ gián tiếp: là hình thức vay nợ của Chính phủ được thực hiện thông
qua các hoạt động vay vốn của các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính như:
Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, hay các Ngân hàng phát triển khu vực…
Những khoản nợ vay này sẽ được các tổ chức tài trợ cho các quốc gia thông qua một số
chương trình phổ biến bao gồm các khoản vay viện trợ phát triển chính thức, các khoản
vay có tính chất thương mại hoặc các khoản vay ưu đãi.
- Phân loại theo kỳ hạn nợ:
+ Nợ ngắn hạn: là các khoản vay nợ có thời hạn thanh toán từ 01 năm trở
xuống.
+ Nợ trung hạn: là các khoản vay nợ có thời hạn thanh toán từ 01 năm đến 10
năm.
+ Nợ dài hạn: là các khoản vay nợ có thời hạn thanh toán trên 10 năm.
2.2. Các yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến nợ công.
2.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP.
Trong Kinh tế học hiện đại, Tổng sản phẩm quốc nội, hay còn được biết đến là
tổng sản phẩm trong nước hay GDP (Gross Domestic Product) được định nghĩa là giá
trị thị trường tính bằng tiền của tất cả sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được
sản xuất, làm ra trong phạm vi của một nền kinh tế (thường là một quốc gia hoặc vùng
15
lãnh thổ) trong một giai đoạn nhất định (thông thường là một năm dương lịch hoặc năm
tài chính).
Có rất nhiều đề tài nghiên cứu đã chỉ ra rằng GDP là một trong các chỉ số cơ bản
nhất được dùng để đánh giá nền kinh tế của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào đó có
phát triển hay không. Tốc độ tăng trưởng GDP được xem như là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
quan trọng nhất, có ảnh hưởng đến hầu hết các ngành nghề và trong tất cả lĩnh vực
trong nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP được đo lường bằng sự tăng thêm của tổng
sản phẩm trong nước của một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ hoặc một địa phương tính
trong một khoảng thời gian (thông thường là một năm dương lịch hoặc năm tài chính).
Chỉ tiêu này được thể hiện qua quy mô tăng trưởng bằng số tuyệt đối và tốc độ tăng
trưởng bằng số tương đối (tỷ lệ %). Quy mô tăng trưởng cung cấp thông tin về sự tăng
lên là nhiều hay ít, trong khi đó, tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh tương đối và
phản ánh sự tăng lên là nhanh hay chậm qua các năm.
Trong giai đoạn kinh tế đang ở tình trạng phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP cao
mang lại cho Chính phủ có thể dễ dàng huy động được các khoản vay nợ có lãi suất
thực tế thấp. Song song vào đó, tăng trưởng GDP nhanh sẽ làm tăng nguồn thu ngân
sách nhà nước thông qua các khoản thuế, phí, góp phần cải thiện đáng kể sự thâm hụt
ngân sách của Chính phủ. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng GDP cao sẽ làm giảm tỷ lệ
nợ công trên GDP. Trái lại, khi nền kinh tế đang suy thoái, tốc độ tăng trưởng kinh tế
còn chậm sẽ làm cho các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô xấu đi, điều này dẫn đến chỉ tiêu nợ
công trên GDP tăng lên.
Trên thế giới, đã có rất nhiều các đề tài nghiên cứu thực nghiệm mà tác giả đã
chứng minh những nhận định trên. Tiêu biểu trong đó là nghiên cứu của Imimole,
Imoughele và Okhuese (2014) đã đưa ra kết quả cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP thực
tế tại Nigeria có tác động đến các khoản nợ vay từ nước ngoài tại quốc gia này. Ngoài
ra, Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế là yếu tố chính có sự ảnh hưởng đến tình hình nợ
16
công được đề cập đến trong đề tài nghiên cứu của Abbas, Akitoby, Abdritzky, Berger,
Komatsuzaki và Tyson (2014); theo các tác giả, tỷ lệ nợ công trên GDP sẽ giảm nếu
như tốc độ tăng trưởng GDP thực cao.
2.2.2. Thâm hụt ngân sách.
Trong kinh tế học vĩ mô, thâm hụt ngân sách xảy ra khi các khoản thu của Chính
phủ không thể bù đắp cho các dự án chi tiêu của ngân sách Nhà nước, khoản chênh
lệch giữa thu và chi chính là phần thâm hụt ngân sách. Ngược lại, trong trường hợp các
khoản thu của Chính phủ lớn hơn các khoản chi, khi đó ngân sách Nhà nước ở tình
trạng thặng dư. Khi định nghĩa về thâm hụt hay thặng dư ngân sách, phần thu của
Chính phủ là đơn thuần, không bao gồm các khoản đi vay nợ. Thực hiện vay nợ chính
là một hình thức để Chính phủ có thể có nguồn vốn để bù đắp cho sự thâm hụt ngân
sách quốc gia.
Xem xét bản chất của nợ công, chúng ta có thể thấy tình trạng thâm hụt ngân
sách là con số thể hiện giá trị tuyệt đối đại diện cho các khoản nợ Chính phủ. Nợ công
có thể được xem như là mức thâm hụt ngân sách đã tích lũy qua nhiều năm. Khi ngân
sách Nhà nước rơi vào tình trạng thâm hụt, nhu cầu vay nợ của Nhà nước sẽ ngày càng
gia tăng, qua đó làm cho tình hình nợ công ngày càng trầm trọng hơn. Trái lại, nếu
nguồn thu của Chính phủ đủ để thực hiện các kế hoạch chi tiêu thì quốc gia đó sẽ
không có nhu cầu phải đi vay nợ, đồng thời khi ngân sách thặng dư, Nhà nước sẽ có
điều kiện để thoải mái chi trả cho các khoản nợ đã đi vay từ trước bằng hình thức mua
lại trái phiếu của Chính phủ trước thời hạn, điều đó làm cho tỷ lệ nợ công giảm xuống.
Để nghiên cứu tác động của tình trạng thâm hụt ngân sách đến tình hình nợ
công, một số tác giả bao gồm: Dornbusch (1984) đã thực hiện nghiên cứu tại Brazil,
kết quả cho thấy rằng thâm hụt ngân sách chính là nguyên nhân dẫn đến tình hình nợ
nước ngoài ngày càng tăng nhanh tại quốc gia này. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Sachs
và Larrain (1993) đã chứng minh rằng vay nợ trong nước là một trong số cách được
17
các Chính phủ sử dụng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách trong ngắn hạn. Hình thức
vay nợ này giúp Chính phủ cân đối được tình hình thu – chi ngân sách mà đặc biệt sẽ
không ảnh hưởng đến nguồn dự trữ ngoại hối và cung tiền. Tuy nhiên, do nghĩa vụ nợ
gia tăng nên nó cũng gây ảnh hưởng làm trầm trọng hơn tình trạng thâm hụt ngân sách
theo thời gian. Ngoài ra, theo Alfaidi (2002) khi nghiên cứu trường hợp tại Ai Cập, nợ
nước ngoài của nước này gia tăng một cách nhanh chóng khi mức độ thâm hụt ngân
sách ngày càng cao. Cuối cùng, kết quả đề tài của Gartner (2003) đã chỉ chỉ ra rằng
giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách tồn tại một mối quan hệ tương quan
cùng chiều.
2.2.3. Lãi suất thực tế.
Trong kinh tế học, lãi suất thực tế được xác định xấp xỉ bằng cách lấy lãi suất
danh nghĩa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Có thể nói, đây là lãi suất mà các nhà đầu tư kỳ
vọng nhận được sau khi loại trừ đi tác động của yếu tố lạm phát. Lãi suất thực tế có tác
động trực tiếp đến các khoản nợ công có lãi suất thả nổi, kể cả đối với những khoản
vay nợ mới. Thực tế đã chỉ ra rằng nếu trong cơ cấu tổng nợ của một quốc gia, tỷ lệ nợ
công có lãi suất thả nổi càng cao thì mức độ ảnh hưởng của yếu tố lãi suất thực tế đến
tình hình nợ công càng lớn. Khi lãi suất thực tế tăng sẽ làm cho việc thanh toán các chi
phí lãi vay của khoản nợ công có lãi suất thả nổi gặp nhiều khó khăn hơn, điều đó làm
cho tình hình nợ công ngày càng trầm trọng hơn. Khi đó, Chính phủ của các quốc gia
cũng không mong muốn thực hiện vay mới bởi vì lãi suất thực tế đang cao. Mặt khác,
đối những khoản vay nợ có lãi suất cố định thì việc tăng giảm của lãi suất thực tế cũng
làm ảnh hưởng đến giá trị của các công cụ nợ, có nghĩa là, quy mô nợ công của quốc
gia sẽ gián tiếp bị ảnh hưởng. Sở dĩ xảy ra điều này bởi vì lãi suất tăng lên sẽ làm cho
chi phí vay nợ tăng lên và các khoản vay nợ của Chính phủ trở nên đắt hơn dẫn đến
làm gia tăng tình hình nợ công.
Đã có rất nhiều các tác giả nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất thực tế và tình
hình nợ công. Điển hình như Sachs và Larrain (1993) đã cho rằng: Lãi suất thực tế cao
18
là một trong các yếu tố làm gia tăng tỷ lệ nợ công. Các nghiên cứu thực nghiệm của
Alesina và Perotti (1995), Giavazzi và Pagano (1996), Alesina và Ardagna (2010) đã
chứng minh rằng lãi suất thực tế giảm sẽ góp phần cải thiện tình trạng nợ công bởi vì
áp lưc trả lãi sẽ giảm đi. Bên cạnh đó, lãi suất thấp làm cho GDP tăng, dẫn đến tỷ lệ nợ
công trên GDP giảm thông qua việc khuyến khích các bộ phận thực hiện đầu tư và tiêu
dùng. Còn theo Alfaidi (2002), tác giả đã nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển
và cho thấy rằng lãi suất thực tế cao là yếu tố quan trọng làm gia tăng tỷ lệ nợ nước
ngoài ở các nước này.
2.2.4. Tỷ giá hối đoái.
Khái niệm tỷ giá hối đoái (hay tỷ giá trao đổi ngoại tệ) giữa hai loại tiền tệ khác
nhau là tỷ giá mà tại đó đồng tiền này sẽ trao đổi được cho một đồng tiền khác. Có thể
nói, tỷ giá hối đoái được coi là giá cả của đồng tiền một quốc gia được biểu hiện bằng
một loại tiền tệ khác.
Ngày nay, trong cơ cấu của nợ công tại một quốc gia, những khoản nợ vay nước
ngoài bằng đồng ngoại tệ ngày càng chiếm một tỷ trọng khá lớn. Vì vậy, mức độ biến
động của tỷ giá hồi đoái sẽ có tác động trực tiếp đến giá trị các khoản nợ nước ngoài
vay bằng ngoại tệ. Nếu như trong tổng nợ, tỷ trọng các khoản nợ vay bằng ngoại tệ,
nhất là đặc biệt là những đồng tiền nhạy cảm với những biến động lớn về giá trị chiếm
tỷ lệ càng cao thì mức độ ảnh hưởng của sự tăng giảm tỷ giá hối đoái đến tình hình nợ
công càng lớn.
Imimole, Imoughele và Okhuese (2014) tại Nigeria đã chỉ ra rằng có mối tương
quan giữa nợ nước ngoài và biến động của tỷ giá hối đoái. Kết quả nghiên cứu cho thấy
nợ nước ngoài của nước này sẽ tăng 0,81% nếu tỷ giá hối đoái tăng lên 1%.
2.2.5. Các yếu tố kinh tế vĩ mô khác.
Đánh giá nợ công phải đặt trong mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, ngoài
các yếu tố cơ bản gồm thâm hụt ngân sách, tăng trưởng kinh tế, lãi suất thực tế và tỷ
giá hối đoái nêu trên, cần phải xem xét thêm các yếu tố khác như lạm phát, mức độ
19
thâm hụt cán cân vãng lai, mức độ thâm hụt cán cân thương mại, dòng vốn vào (như
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài - FPI, vốn hỗ
trợ phát triển chính thức - ODA…), năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn
(qua tiêu chí ICOR), độ mở của nền kinh tế… để dự báo và đảm bảo nguồn lực thanh
toán nghĩa vụ nợ. Ngoài ra, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô và quản lý nợ công có ảnh
hưởng tới nợ công. Nợ công không được cơ cấu tốt về thời hạn, lãi suất, đồng tiền vay
nợ... có thể làm tăng quy mô, rủi ro và nghĩa vụ nợ. Ngược lại, chính sách quản lý nợ
công tốt có thể kiểm soát được rủi ro và quy mô nợ. Điều này một mặt làm giảm thiểu
rủi ro và chi phí trong quản lý nợ công trung và dài hạn; mặt khác giúp Chính phủ có
sự chủ động trong tài trợ chi tiêu của mình.
Sachs và Larrain (1993) chỉ ra rằng, thâm hụt tài khoản vãng lai và thâm hụt
ngân sách làm gia tăng nợ công: “Thâm hụt tài khoản vãng lai trong những năm 1980
đã khiến Hoa Kỳ từ vị trí của một chủ nợ trở thành con nợ lớn nhất thế giới”. Alfaidi
(2002) xem xét các yếu tố tác động đến nợ nước ngoài của các nước đang phát triển
bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài. Trong đó, các yếu tố bên trong bao gồm
đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hiệu quả sử dụng vốn, thâm hụt cán cân
thanh toán; các yếu tố bên ngoài bao gồm lãi suất, giá dầu và các nguyên liệu thô khác.
Pirtea, Nicolescu và Mota (2014) cho rằng, FDI là một yếu tố tác động đến nợ công do
FDI làm tăng năng suất lao động và làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP. Akitoby,
Komatsuzaki và Binder (2014) cho rằng, lạm phát cao có thể giảm nợ công do lạm phát
làm giảm giá trị của các khoản nợ. Aizenman và Marion (2009), IMF (2012) chỉ ra sau
chiến tranh thế giới thứ II, tỷ lệ nợ công trên GDP của Hoa Kỳ trên 100% nhưng đã cắt
giảm còn khoảng 40% trong vòng một thập kỷ do kết hợp tăng trưởng kinh tế và duy
trì mức lạm phát khoảng 4%.
2.3. Các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài.
Jurgita Stankeviciene & Ausrine Lakstutiene (2013) đã nghiên cứu về mối
quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và tình hình nợ công tại các quốc gia vùng
20
Baltic. Nghiên cứu này đi sâu vào đánh giá và quản lý nợ công khi thay đổi các yếu tố
môi trường trong nền kinh tế vĩ mô. Tác giả sử dụng các phương pháp gồm hệ thống cơ
sở lý thuyết, thống kê toán học, tổng quát hợp lý và phân tích so sánh. Bài nghiên cứu
sử dụng những yếu tố kinh tế vĩ mô để đánh giá tác động của chúng đến tỷ lệ nợ công
trên GDP gồm: khối lượng xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng GDP và chi tiêu công. Kết
quả của nghiên cứu đã chỉ ra Estonia có nợ công thấp nhất; và khối lượng xuất khẩu là
một trong các yếu tố quan trọng nhất có liên quan đến tình hình nợ công ở tất cả các
quốc gia vùng Baltic.
Checherita-Westphal (2012) đã tập trung nghiên cứu tác động trung bình của
nợ Chính phủ đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người với cỡ mẫu thu thập gồm 12
nước thuộc khu vực đồng Euro như: Áo, Phần Lan, Bỉ, Đức, Pháp, Hy Lạp, Italia,
Ailen, Hà Lan, Luxembourg, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha trong khoảng thời gian 40
năm (từ năm 1970). Kết quả bài nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ phi tuyến tính
giữa tăng trưởng GDP bình quân đầu người và nợ công, tác giả cho rằng tỷ lệ nợ công
so với GDP có ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn (từ 90% đến
100% GDP).
Marek Dabrowski (2014) đã nghiên cứu về các yếu tố quyết định đến mức độ
an toàn của nợ công. Không có một tiêu chuẩn an toàn nào về nợ công cho tất cả các
nền kinh tế. Trong thực tế, mức nợ công an toàn ở từng quốc gia khác nhau, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố và hoàn cảnh, không thể xác định được. Bài nghiên cứu sử dụng tỷ lệ
nợ công trên GDP là biến phụ thuộc để nghiên cứu và phân tích các yếu tố tác động.
Những yếu tố ảnh hưởng được sử dụng như các biến độc lập bao gồm: tốc độ tăng
trưởng GDP, tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách trên GDP và lãi suất thực tế của các
khoản vay Chính phủ. Kết quả đề tài nghiên cứu chỉ ra rằng, khi phát triển kinh tế, tỷ lệ
tăng trưởng GDP thực tế tăng lên khiến việc vay nợ dễ dàng hơn vì lãi suất thực thấp
hơn, và việc thu ngân sách nhà nước hiệu quả hơn giúp cải thiện tình trạng nợ công.
Khi suy thoái kinh tế, tất cả các yếu tố này xấu đi làm gia tăng tỷ lệ nợ công trên GDP.
21
Bên cạnh đó, khi những thị trường tài chính không tin tưởng về độ tin cậy của Chính
phủ, lãi suất thực sẽ tăng mạnh dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ nợ công trên GDP của quốc
gia.
Trong những bài nghiên cứu tương tự về tình hình nợ công, đề tài của
Jaimovich, D và Panizza, U (2010) chứng minh rằng những quốc gia đang phát triển
có xu hướng dung nợ công nhiều hơn so với những quốc gia phát triển. Đề tài cũng chỉ
ra rằng các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn thì có nợ công cao hơn.
Tuy nhiên, phát hiện này không còn thích hợp với thực trạng ngày nay bởi vì hầu hết
các quốc gia phát triển có xu hướng muốn tỷ lệ nợ công càng nhiều càng tốt. Nguyên
nhân dẫn đến sự lầm tưởng này là vì tác giả đã sử dụng dữ liệu của các quốc gia thuộc
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD.
Bài nghiên cứu của Bogdan Andrei Dumitrescu (2014) đề cập đến những yếu
tố ảnh hưởng đến nợ công tại Romania. Tác giả đã bắt đầu bởi phương trình nợ công
và các hạn chế về ngân sách liên ngân hàng để đề xuất phân tích về sự phát triển của tỷ
lệ nợ công trên GDP tại Romania giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2013, qua đó xác
định những yếu tố chính ảnh hưởng và phân tích tính bền vững của tỷ lệ nợ công trong
ngắn hạn cũng như dài hạn. Các yếu tố sẽ ảnh hưởng đến tình hình nợ công trong bài
nghiên cứu bao gồm: lãi suất danh nghĩa, tỷ lệ lạm phát, cán cân ngân sách sơ cấp và
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sự suy giảm của cán cân ngân sách sau cuộc khủng hoảng
kinh tế và việc thúc đẩy những chính sách tài chính không bền vững ở các năm trước
khủng hoảng gây ra tình trạng lạm phát đã làm gia tăng tỷ lệ nợ công ở khoảng thời
gian khá ngắn.Việc làm vững chắc tình hình tài chính trong những năm gần đây làm
giảm thâm hụt ngân sách và tỷ lệ lạm phát, qua đó đồng thời làm gia tăng tốc độ phát
triển kinh tế đã và đang góp phần ổn định nợ công.
Theo bài nghiên cứu của Don P. Clark (2011), khi FDI tăng sẽ làm ảnh hưởng
đến tình hình nợ công. Mỹ và Trung Quốc là 02 ví dụ thích hợp nhất cho nhận định
này. Bằng chứng cho thấy khi FDI vào bất kỳ quốc gia nào càng lớn thì nó sẽ càng là
22
một yếu tố quan trọng làm thay đổi tỷ lệ lãi suất. FDI không chỉ có thể làm luân chuyển
vòng quay vốn, mà có thể thúc đẩy việc vay từ bên trong quốc gia ấy. Vì có thể làm
luân chuyển vốn như thế nên FDI thường bị gọi là cuộc chiến huy động vốn. Khi cuộc
chiến này xảy ra, thảm họa kinh tế sẽ gây áp lực đến bất kỳ một quốc gia nào có liên
quan vì khi đó Chính phủ không thể thực hiện kiểm soát cung tiền.
Christabell Matiti (2013) đã thực hiện nghiên cứu với đề tài về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và tình hình nợ công tại Kenya. Quản lý nợ công hiệu quả
giúp kinh tế tăng trưởng và ổn định qua hành động huy động nguồn lực có chi phí vay
thấp và làm hạn chế các rủi ro tài chính. Bài nghiên cứu sử dụng những yếu tố có ảnh
hưởng đến tình hình nợ công gồm chi tiêu công, tốc độ tăng trưởng kinh tế và các
nguồn thu thuế. Tác giả sử dụng số liệu thứ cấp được thu thập từ Cục Thống kê quốc
gia và Ngân hàng Trung ương Kenya trong giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2012. Dữ
liệu thu thập được bằng phương pháp sử dụng các bảng thu thập số liệu đã hiệu chỉnh,
được làm sạch và đã mã hoá. Kết quả bài nghiên cứu chỉ ra rằng, đặc trưng của các
khoản nợ trong nước đó là có lãi suất cao hơn so với các khoản nợ từ nước ngoài bởi vì
các khoản nợ nước ngoài hầu hết được ký kết có bao gồm các điều khoản ưu đãi, và
như thế chúng rất tốn kém để duy trì. Việc giảm các khoản nợ từ trong nước có thể
thực hiện được thông qua việc dùng các khoản thu từ những chương trình tư nhân hóa
các tập đoàn Nhà nước hoặc sử dụng những nguồn vốn vay từ bên ngoài.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Phan Thị Diệu Thảo và Thái Hán Vinh
(2015) đã nghiên cứu về vấn đề “Kiểm định tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh
tế”. bằng phương pháp là sử dụng mô hình nghiên cứu hồi quy, quy mô thu thập dữ
liệu là 7 quốc đang phát triển tại khu vực Đông Nam Á bao gồm: Việt Nam, Thái Lan,
Malaysia, Cambodia, Indonesia, Lào và Philipines trong giai đoạn từ năm 1995 đến
năm 2013. Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy mối quan hệ phi tuyến tính giữa nợ
công và tăng trưởng kinh tế theo mô hình chữ U ngược.
23
Kết luận chương 2
Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã thực hiện hệ thống hóa tổng quan lý
thuyết về nợ công, về các tác động của các khoản nợ công đến cả nền kinh tế cũng như
về các yếu tố kinh tế vĩ mô có sự ảnh hưởng đến tình hình nợ công bao gồm: Tốc độ
tăng trưởng GDP, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, lãi suất thực tế, tỷ giá hối đoái và một số
yếu tố kinh tế vĩ mô khác. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã thực hiện giới thiệu tổng quan
một số đề tài nghiên cứu thực nghiệm về tác động của yếu tố kinh tế vĩ mô đến tình
hình nợ công trên thế giới và tại Việt Nam, qua đó có cơ sở vững vàng để đề xuất mô
hình và phương pháp nghiên cứu cho luận văn.
24
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết đặt ra.
3.1.1. Mô hình nghiên cứu.
Hầu hết các đề tài nghiên cứu trước đây đều dùng biến tỷ lệ nợ công trên GDP
là biến phụ thuộc, vì thế tác giả cũng sẽ dùng biến này để đại diện cho tình hình nợ
công trong mô hình nghiên cứu mà luận văn sử dụng. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng kế
thừa các yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến tình hình nợ công dùng trong mô hình
nghiên cứu của Marek Dabrowski (2014) và được thêm vào yếu tố tỷ giá hối đoái để có
thể đánh giá các tác động của những yếu tố kinh tế vĩ mô vào tỷ lệ nợ công trên GDP ở
các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á. Sở dĩ tác giả bổ sung yếu tố này bởi vì trong cơ
cấu của danh mục nợ công bao gồm cả các khoản nợ vay nước ngoài bằng ngoại tệ, vì
thế, tình hình biến động của tỷ giá hối đoái sẽ có tác động trực tiếp đến tỷ lệ nợ công.
Như vậy, mô hình nghiên cứu mà tác giả đề xuất sử dụng trong luận văn để
thực hiện đánh giá các tác động của những yếu tố kinh tế vĩ mô đến tình hình nợ công
được thể hiện thông qua phương trình hồi quy tuyến tính đa biến, cụ thể như sau:
PD(it) =µ0 + µ1GDP(it) + µ2BDEF(it)+ µ3INT(it) + µ4EX(it) + σ (it)
Trong đó:
- PD(it): biến đại diện cho tỷ lệ nợ công trên GDP tại quốc gia i trong giai đoạn t.
- GDP(it) : biến đại diện cho tốc độ tăng trưởng GDP tại quốc gia i trong giai đoạn t.
- BDEF(it) : biến đại diện cho tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP tại quốc gia i trong
giai đoạn t.
- INT(it): biến đại diện cho tỷ lệ lãi suất thực tế tại quốc gia i trong giai đoạn t.
- EX(it): biến đại diện cho tỷgiá hối đoái cuối kỳ tại quốc gia i trong giai đoạn t.
- σ (it): sai số của mô hình.
Chi tiết về phương pháp đo lường các biến trong mô hình được thể hiện trong
bảng 3.1 như sau:
25
Bảng 3.1. Mô tả về các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu
TÊN BIẾN KÝ HIỆU PHƯƠNG PHÁP ĐO LƯỜNG
Biến phụ thuộc
Nợ công của quốc gia (i) tại thời
Tỷ lệ nợ công trên điểm cuối năm (t) chia cho tổng PD(it) GDP (Public Debt) GDP của quốc gia đótại thời điểm
cuối năm (t).
Các biến độc lập
Tốc độ tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
GDP (Gross quốc nội GDP (%) của các quốc gia GDP (it)
Domestic Product) (i) tại năm (t).
Tỷ lệ thâm hụt ngân sách năm (t) =
( Tổng chi ngân sách năm (t) của Tỷ lệ thâm hụt quốc gia (i) trừ đi tổng thu ngân ngân sách (Budget BDEF(it) sách năm (t) của quốc gia (i) ), tieps Deficit) theo đó, chia cho GDP của quốc gia
đótại năm (t).
Lãi suất thực tế Lãi suất thực tế cua các khoản vay
(Effective Interest Chính phủ (%) của quốc gia (i) tại INT(it)
Rate) năm (t).
Tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái cuối kỳ tại năm (t) EX(it) (Exchange Rate) của quốc gia (i) so với đồng USD.
Theo nghiên cứu của Tabachnick & Fidell (2007), số lượng quan sát (kích thước
mẫu) tối thiểu thu thập để thực hiện việc phân tích hồi quy đa biến cần phải đảm bảo
26
phù hợp với công thức: N ≥ 50 + 8m (trong đó, N là kích thước mẫu và m là số lượng
biến độc lập).
Chính vì vậy, tác giả chọn kích thước mẫu cho mô hình nghiên cứu của mình là
120, gồm 05 quốc gia khu vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan,
Hong Kong) và 10 quốc gia khu vực Đông Nam Á (Singapore, Malaysia, Thái Lan,
Việt Nam, Indonesia, Lào, Cambodia, Myanmar, Brunei, Philipines) với các dữ liệu
thu thập được từ Ngân hang Thế giới (dữ liệu về tỷ giá hối đoái và tỷ lệ lãi suất thực tế)
và từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (dữ liệu về tình hình nợ công, dữ liệu về tổng chi và tổng thu
ngân sách của Chính phủ các quốc gia và dữ liệu về tốc độ tăng trưởng GDP tại các
quốc gia) trong giai đoạn 08 năm từ năm 2010 đến năm 2017. Tác giả cho rằng, kích
thước mẫu nghiên cứu này đủ lớn và phù hợp để kết quả mô hình hồi quy đạt được độ
tin cậy và kết quảmang ý nghĩa thống kê dựa theo các điều kiện về kích thước mẫu
khisử dụng phương pháp phân tích hồi quy.
3.1.2. Giả thuyết nghiên cứu.
Dựa trên cơ sở nền tảng của lý luận cũng như lược khảo các nghiên cứu có liên
quan và để phù hợp với mô hình nghiên cứu tác giả đã đề xuất, các giả thuyết nghiên
cứu mà bài luận văn đưa ra cụ thể như sau:
- Giả thuyết H1: Tốc độ tăng trưởng GDP tại quốc gia (i) có tác động âm
đến tỷ lệ nợ công tại quốc gia đó.
Trong giai đoạn kinh tế trên đà phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP càng cao sẽ
tạo điều kiện để các Chính phủ dễ dàng có sự tiếp cận với các khoản vay nợ có lãi suất
thực tế càng thấp. Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế càng nhanh sẽ góp phần làm gia
tăng các nguồn thu ngân sách cho nhà nước, làm cải thiện tình trạng thâm hụt ngân
sách đáng kể, dẫn đến việc làm giảm sự vay nợ của Chính phủ. Điều đó dẫn đến, khi
tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia cao sẽ giúp làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP
tại nước đó. Ngược lại, trong giai đoạn kinh tế đang suy thoái, tốc độ tăng trưởng kinh
27
tế càng chậm sẽ làm cho các chỉ tiêu về kinh tế vĩ mô xấu đi và điều này dẫn đến làm
gia tăng nhanh chỉ tiêu nợ công trên GDP.
- Giả thuyết H2: Tỷ lệ nợ công trên GDP tại quốc gia (i) có biến động cùng
chiều với yếu tố tỷ lệ thâm hụt ngân sách tại quốc gia đó.
Tại hầu hết các nước, khi thu ngân sách không đủ bù chi, ngân sách Nhà nước sẽ
bị thâm hụt. Và khi đó, một hình thức để bù đắp các khoản thâm hụt này, đó là việc các
quốc gia sẽ sử dụng nguồn vay nợ từ trong và ngoài nước. Do đó dẫn đến nhu cầu vay
nợ của Chính phủ ngày càng gia tăng và sẽ làm nghiêm trọng hơn về tình hình nợ công.
Ngược lại, khi ngân sách Nhà nước trong tình trạng thặng dư, Chính phủ các nước sẽ
không có nhu cầu sử dụng các nguồn vay nợ, đồng thời sẽ có thêm nguồn tài chính dồi
dào để chi trả các khoản nợ công từ trước bằng các hình thức như mua lại trái phiếu
Chính phủ trước thời hạn và qua đó sẽ làm cho mức nợ công tại quốc gia đó giảm
xuống.
- Giả thuyết H3: Lãi suất thực tế của các khoản vay tại quốc gia (i) có tác
động dương đến tỷ lệ nợ công trên GDP tại quốc gia đó.
Tại các quốc gia, việc thay đổi tình hình lãi suất thực tế của các khoản vay sẽ có
tác động trực tiếp đến các khoản nợ công với lãi suất thả nổi và kể cả những khoản vay
mới. Ngoài ra, tỷ lệ các khoản nợ công với lãi suất thả nổi trong tổng nợ càng lớn thì
mức độ ảnh hưởng của yếu tố lãi suất thực tế đến tình hình nợ công càng cao. Nếu lãi
suất thực tế gia tăng sẽ dẫn đến việc trả lãi cho các khoản nợ công với lãi suất thả nổi
sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, từ đó dẫn đến việc tình hình nợ công ngày càng trầm trọng
hơn. Khi đó, Chính phủ sẽ khó có điều kiện tiếp tục thực hiện vay các khoản vay mới
vì gặp vấn đề với lãi suất thực tế đang tăng cao.
- Giả thuyết H4: Tỷ giá hối đoái tại quốc gia (i) có tác động dương đến tỷ lệ
nợ công tại quốc gia đó.
Trong cơ cấu danh mục của tình hình nợ công bao gồm cả những khoản nợ vay
nước ngoài bằng đồng ngoại tệ, vì thế, sự biến động của yếu tố tỷ giá hối đoái sẽ có
28
ảnh hưởng trực tiếp với việc xác định giá trị của các khoản nợ công được vay bằng
đồng ngoại tệ. Đối với các khoản nợ vay bằng đồng ngoại tệ, đặc biệt đối với những
đồng tiền có sự biến động mạnh về giá trị, nếu các khoản vay đố chiếm tỷ lệ cao sẽ dẫn
đến việc ảnh hưởng của sự biến động về tỷ giá hối đoái đến tình hình nợ công của quốc
gia càng lớn.
3.2. Phương pháp nghiên cứu.
Các dữ liệu nghiên cứu sẽ được tác giả thu thập dưới dạng dữ liệu bảng và đưa
vào phân tích hồi quy. Các dữ liệu bảng được sử dụng nhiều trong các đề tài nghiên
cứu định lượng bởi chúng có các ưu điểm nổi bật sau: Hầu hết các kết quả ước lượng
từ việc sử dụng dữ liệu bảng sẽ giúp các tham số có trong mô hình đạt được độ tin cậy
cao hơn; bên cạnh đó, dữ liệu bảng sẽ giúp lượng hóa các tác động không được xác
định khi tác giả dùng dữ liệu chéo hay dữ liệu thời gian. Để có thể thu thập dữ liệu
bảng, tác giả phải tiến hành thu thập số lượng lớn các đối tượng (units) có đặc điểm
giống nhau tại cùng một hoặc trong nhiều thời điểm. Ví dụ như, tác giả có thể thực
hiện thu thập các dữ liệu trong gia đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của cùng những cá
nhân, bệnh viện, tập đoàn, của thành phố và tỉnh, của một quốc gia hay một khu vực.
Có 03 phương pháp hồi quy đã được tác giả áp dụng trong bài nghiên cứu này
với mục đích ước lượng các mức độ của sự tác động bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô đến tỷ
lệ nợ công trên GDP tại các quốc gia, đó là mô hình OLS thô (Pooled OLS), mô hình
tác động ngẫu nhiên (REM - Random Effects Model) và mô hình tác động cố định
(FEM - Fixed Effects Model) . Chi tiết trong đó:
- Mô hình OLS thô (Pooled OLS): Tác giả sử dụng để tiến hành kiểm định
ảnh hưởng của những biến độc lập đến biến phụ thuộc. Việc áp dụng mô hình Pooled
OLS thực chất sử dụng các dữ liệu bảng để thực hiện phân tích bằng phương pháp sử
dụng tất cả dữ liệu thông qua việc sắp xếp chồng và không phân biệt riêng từng cá thể,
có nghĩa là mô hình này dung các dữ liệu như một hình thức phân tích OLS thông
thường trong các nghiên cứu. Tác giả áp dụng phương pháp bình phương bé nhất
29
(OLS) để ước lượng đường thẳng hồi quy vì phương pháp này cho phép sai số cực tiểu
giữa những điểm ước lượng trên cùng đường thẳng hồi quy và các điểm quan sát trong
thực tế của đường thẳng hồi quy, như thế kết quả là phù hợp nhất.
- Mô hình tác động cố định (FEM - Fixed Effects Model): Mô hình FEM
đưa ra giả thuyết rằng đối với mỗi đối tượng nghiên cứu sẽ có các đặc điểm riêng biệt
có ảnh hưởng đến biến giải thích. Tác giả sử dụng mô hình này để xem xét mức độ
tương quan giữa phần dư của các yếu tố được nghiên cứu và biến giải thích, qua đó loại
bỏ được các ảnh hưởng của những đặc điểm riêng của mỗi đối tượng nghiên cứu ra
khỏi các biến giải thích nhằm mục đích ước lượng các tác động thực của các biến giải
thích đến biến được giải thích (các biến phụ thuộc).
- Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM - Random Effects Model): Nếu như
giả thuyết của mô hình tác động cố định FEM đó là có những sự khác biệt riêng giữa
mỗi đối tượng và có sự tác động đến biến giải thích thì mô hình REM đưa ra giả định
chính là các đặc điểm riêng biệt của mỗi đối tượng nghiên cứu là hoàn toàn ngẫu nhiên
và không có sự tương quan đối với các biến giải thích. Điều đó cho thấy, sự khác biệt
chính giữa mô hình REM so với mô hình FEM đó là ở những đặc điểm riêng của mỗi
đối tượng. Nếu như sự khác biệt giữa các đối tượng tác động đến biến giải thích thì khi
đó sử dụng mô hình REM sẽ mang lại hiệu quả nghiên cứu tốt hơn và phù hợp hơn so
với việc sử dụng mô hình FEM.
Sau khi thực hiện ước lượng bằng 03 phương pháp đã giới thiệu ở trên, tác giả
sẽ tiến hành áp dụng kiểm định Breusch - Pagan Lagrangian nhằm lựa chọn giữa 02
phương pháp Pooled OLS và REM, và thực hiện kiểm định Hausman với mục đích lựa
chọn giữa 02 phương pháp REM và FEM.
Ngoài ra, trong thực tế, khi tác giả thực hiện nghiên cứu thì vấn đề về tổng thể
của đề tài nghiên cứu là rất lớn, vì thế rất khó để thể thu thập toàn bộ dữ liệu của tổng
thể. Do đó, thông thường các tác giả sẽ tiến hành chọn lựa tập hợp một số đối tượng để
tạo thành mẫu nghiên cứu, sau đó thực hiện phân tích. Trên cơ sở đó, các tác giả sẽ suy
30
ra những tính chất chung của toàn bộ tổng thể. Chính vì vậy, để kết quả hồi quy mang
lại ý nghĩa và có thể thể hiện đầy đủ các tính chất chung của toàn bộ tổng thể nghiên
cứu thì cần phải đảm bảo rằng các giả định hồi quy đều không bị vi phạm. Nếu như các
giả định hồi quy bị vi phạm sẽ dẫn đến các kết quả ước lượng không còn đáng tin cậy.
Để có thể thực hiện ước lượng mô hình được chính xác thì cần phải tiến hành một số
kiểm định những giả định sau: thứ nhất, phải không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến;
thứ hai, kiểm định White được sử dụng để phát hiện hiện tượng phương sai sai số thay
đổi; thứ ba, dùng kiểm định Wooldridge nhằm phát hiện sự tự tương quan. Bên cạnh
đó, nếu mô hình nghiên cứu vi phạm những giả định hồi quy, khi đó tác giả sẽ sử dụng
phương pháp nhằm khắc phục tình trạng trên, đó là ước lượng FGLS.
3.3. Dữ liệu nghiên cứu.
Tác giả đã thực hiện thu thập các dữ liệu trong các bộ dữ liệu hàng năm từ
nguồn của Ngân hàng Thế giới và từ nguôn của Quỹ tiền tệ quốc tế đối với 05 quốc gia
trong khu vực Đông Á bao gồm: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Hong
Kong và 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái
Lan, Việt Nam, Indonesia, Lào, Cambodia, Myanmar, Brunei, Philipines trong giai
đoạn 08 năm, từ năm 2010 đến năm 2017, với kích thước mẫu nghiên cứu là 120.
31
Kết luận chương 3
Trong chương 3 của luận văn, tác giả căn cứ vào những nghiên cứu có liên quan
trên thế giới đã được lược khảo, đặc biệt đó là đề tài của Marek Dabrowski (2014)
nhằm đề xuất mô hình nghiên cứu để đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô
đối với tỷ lệ nợ công trên GDP tại các quốc gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam
Á. Khi tiến hành các nghiên cứu định lượng, tác giả đã sử dụng dữ liệu bảng thu thập
được từ Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế. Tiếp theo đó, tác giả dùng 03
phương pháp bao gồm Pooled OLS, REM và FEM để thực hiện ước lượng mức độ tác
động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đối với tỷ lệ nợ công trên GDP. Cuối cùng, các tiêu
chuẩn kiểm định gồm: kiểm định Hausman và kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian đã
được tác giả sử dụng nhằm tìm ra phương pháp ước lượng phù hợp nhất. Ngoài ra, tác
giả đã thực hiện một số các kiểm định sự vi phạm của mô hình nghiên cứu đối với các
giả định hồi quy để đảm bảo rằng các hệ số ước lượng đạt hiệu quả.
32
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thực trạng tình hình nợ công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.
Bảng 4.1. Thống kê mô tả về tình hình nợ công trong giai đoạn từ năm 2010 đến
năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Minimum
Maximum
Mean
Std. Deviation
Year
2010
.0062
2.0785
.5068
.4914
2011
.0058
2.2209
.5117
.5263
2012
.0055
2.2901
.5258
.5449
2013
.0052
2.3247
.5281
.5499
2014
.0007
2.3607
.5300
.5561
2015
.0006
2.3126
.5356
.5454
2016
.0006
2.3563
.5460
.5588
2017
.0006
2.3639
.5509
.5637
Total
.0006
2.3639
.5294
.5265
(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Để xác định mức an toàn của nợ công hay kiểm soát tình hình nợ công, các quốc
gia thường sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ công trên GDP của mình. Nhìn chung, theo khuyến
nghị của các chuyên gia kinh tế và những tổ chức tài chính quốc tế thì tỷ lệ nợ công
trên tổng GDP của một nước nằm trong khoảng từ 65%-80% GDP (được đánh giá là
quá lớn), khi đó dù vay nợ bằng hình thức nào cũng sẽ có tác động xấu đến GDP của
nước đó, nghiêm trọng hơn có thể làm cho tốc độ tăng trưởng bị âm, vì trong trường
hợp này, ngân sách Nhà nước hầu hết phải dùng để thanh toán các khoản nợ chứ không
đủ dành cho các dự án đầu tư kinh tế cũng như xã hội. Ngoài ra, để đánh giá về thực
trạng của nợ công một cách toàn diện nhất thì cần phải dựa vào tình hình kinh tế vĩ mô
như các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, thống kê về nhu cầu vốn phục vụ cho
đầu tư và phát triển, chỉ tiêu về hệ số tín nhiệm của quốc gia… Theo nhận định từ các
chuyên gia kinh tế trên thế giới, tại các quốc gia đang phát triển hay các nền kinh tế
33
mới nổi, tỷ lệ nợ công trên GDP phù hợp được đề xuất ở mức 40% và trong dài hạn, tỷ
lệ này không nên bị phá vỡ.
Bảng 4.1 cho kết quả cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017, các
quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đạt được mữa tỷ lệ nợ công trên GDP trung bình
trong khoảng từ 50,68% (trong năm 2010) đến 55,09% (trong năm 2017). Xu hướng
chung cho mức tỷ lệ nợ công của các nước Đông Á và Đông Nam Á đó là tăng dần qua
các năm và đạt cực đại vào năm 2017. Đa số các quốc gia trong khu vực Đông Á và
Đông Nam Á thuộc nhóm nước nước đang phát triển, vì thế với việc tỷ lệ nợ công trên
GDP trung bình qua việc thống kê ở trên là cao hơn so khuyến nghị ở mức 40% của
các chuyên gia. Tuy nhiên, những tỷ lệ này vẫn nằm ở mức trong mức được đánh giá là
khá an toàn.
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.1. Biểu đồ thể hiện giá trị trung bình của nợ công trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
34
Dữ liệu về tỷ lệ nợ công chi tiết của các quốc gia được thể hiện cụ thể hơn ở phụ
lục 1. Từ kết quả có được trong phụ lục 1, chúng ta có thể thấy rằng trong các quốc gia
Đông Á và Đông Nam Á được thống kê nghiên cứu trong đề tài này, một số quốc có tỷ
lệ nợ công ở mức cao (hầu hết trên 50%) như Nhật Bản (trong toàn bộ giai đoạn thu
thập dữ liệu, tỷ nợ công đều trên 200%, cao nhất là năm 2017, đạt 236,388%),
Singapore (tỷ nợ công hầu hết trên 100% trong gia đoạn từ 2010 đến 2017, cao nhất là
năm 2017, đạt 110,864%), Việt Nam (tỷ lệ nợ công nằm trong khoảng từ 44,593% đến
58,231%, trong đó, năm 2016, tỷ nợ cao nhất đạt 59,831%), Lào (tỷ lệ nợ công biến
động trên 50% và cao nhất vào năm 2017 với mức nợ công chiếm 62,769% trong
GDP) và Malaysia (tỷ nợ nợ công nằm giữa 52,94% và 57,916%, cao nhất vào năm
2015). Tuy nhiên, trong đó đối với Singapore, phần lớn nợ công được vay từ bộ phận
cư dân của quốc gia này bằng đồng nội tệ của họ với mức lãi suất rất thấp, vì thế nợ
công của quốc đảo này không chịu các tác động rủi ro về tỷ giá hay tình trạng mất khả
năng chi trả. Đây cũng là nước hiếm hoi thuộc khu vực Châu Á được đánh giá mức tín
nhiệm cao nhất AAA (bên cạnh nền kinh tế thuộc Đông Á, đó là Hồng Kông, do tỷ lệ
nợ công rất thấp, nằm trong khoảng từ 0,055% đến 0,619%). Riêng đối với Nhật Bản,
nợ công của nước này được đánh giá đạt cao nhất trong số tất cả nước phát triển, nhưng
tình hình nợ công của Nhật Bản vẫn nằm trong ngưỡng an toàn. Nguyên nhân dẫn đến
kết quả này là do cũng giống Singapore, nợ công của Nhật Bản hầu hết thuộc sở hữu
của các nhà đầu tư trong nước (ước tính khoảng 95%) và lãi suất các khoản vay nợ này
rất thấp. Ngoài ra, trái phiếu Chính phủ của Nhật Bản rất ổn định, ít bị phụ thuộc bởi
các nhà đầu tư trái phiếu quốc tế; đặc biệt, Nhật Bản có nguồn ngoại tệ được dữ trữ dồi
dào và ICOR (hệ số sử dụng vốn đầu tư) được đánh giá hiệu quả. Những quốc gia còn
lại như Việt Nam, Malaysia và Lào có tỷ lệ nợ công cao và Chính phủ các nước này
cần phải có sự lưu ý về vấn đề tỷ lệ nợ công trên GDP khá cao hiện nay. Nguyên nhân
vì trong cơ cấu nợ công tại các quốc gia này, tỷ lệ nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng khá
lớn, dẫn đến tình trạng phải chịu rủi ro về tỷ giá hối đoái khá cao. Ngoài ra, theo sự
35
đánh giá của Moody’s, mức tín nhiệm của Chính phủ Malaysia và Việt Nam năm 2016
lần lượt đạt mức A3 và B1, riêng trường hợp của Lào, tổ chức này không xếp hạng về
sự tín nhiệm. Điều này có nghĩa rằng Việt Nam và Lào hàng năm phải phải thanh toán
nợ gốc và các chi phí lãi vay khá cao, có thể nói là lớn hơn khá nhiều so với các nước
khác (vì mức tín nhiệm thấp nên lãi suất của trái phiếu Chính phủ cao hơn và quy mô
nợ lớn hơn). Kết quả dẫn đến là, nguồn thu của Nhà nước từ các khoản thuế, phí, lệ phí
sẽ phải dành nhiều hơn để thanh toán nợ và giảm tỷ lệ các nguồn đầu tư dành cho phát
triển kinh tế xã hội đất nước. Có thể nói, đây chính là một trong những nguyên nhân
khiến nền kinh tế Việt Nam phát triển khó bền vững bên cạnh các yếu tố như thể chế
còn nhiều yếu kém, nảy sinh các vấn đề tiêu cực, tham nhũng và hiệu quả các khoản
đầu tư chưa cao.
4.2. Thực trạng về những yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động đến tình hình nợ
công tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á.
4.2.1. Tốc độ tăng trưởng GDP.
Sau nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế thấp hơn nhiều so với nhiều nước Bắc Á,
nền kinh tế các nước Đông Á và Đông Nam Á đang tăng trưởng mạnh mẽ và nhiều khả
năng sẽ dẫn đầu châu Á trong những năm tới. Từ kết quả thống kê của bảng 4.2, có thể
thấy tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của các nước Đông Á và Đông Nam Á trong
giai đoạn nghiên cứu đều đạt trên 4% (trừ năm 2016) và biến động từ mức thấp nhất là
3,97% (năm 2016) đến mức cao nhất 7,43% (năm 2010).
36
Bảng 4.2. Thống kê mô tả về tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm 2010
đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Thời gian Mức thấp nhất Mức cao nhất Mức trung bình Độ lệch chuẩn
2010 .0265 .1524 .0743 .0299
2011 -.0012 .0950 .0498 .0252
2012 .0091 .0790 .0490 .0257
2013 -.0213 .0843 .0469 .0292
2014 -.0251 .0799 .0440 .0301
2015 -.0041 .0727 .0421 .0261
2016 -.0247 .0704 .0397 .0280
2017 .0055 .0695 .0475 .0212
(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.2. Biểu đồ giá trị trung bình tăng trưởng GDP trong giai đoạn từ năm
2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
37
Phụ lục 2 thể hiện một cách chi tiết về tốc độ tăng trưởng GDP của các nước.
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước trong 02 khu vực trên là không
đồng đều, giữa nước thấp nhất và cao nhất có sự chênh lệch rất lớn. Ở khu vực Đông
Á, quốc gia có mức tăng trưởng GDP thấp nhất là Nhật Bản (năm 2011 tăng trưởng
âm) và cao nhất là Trung Quốc. Trong khi đó, Brunei là quốc gia tăng trưởng chậm
nhất, thậm chí nhiều năm bị tăng trưởng âm tại khu vực Đông Nam Á. Trái lại, các
nước khác như Việt Nam, Indonesia, Cambodia, Thái Lan, Myanmar, Lào và
Philippines, lại có tốc độ tăng trưởng khá trong khoảng thời gian thu thập dữ nghiên
cứu. Những số liệu này phản ánh có nhiều khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các
quốc gia trong khu vực, mỗi quốc gia có các ưu tiên phát triển kinh tế khác nhau vì có
những cơ hội lẫn thách thức khác nhau đến từ bên ngoài và trong chính mỗi quốc gia.
Ví dụ như Trung Quốc đã nêu lên những định hướng lớn trong xây dựng thể chế kinh
tế hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa với 06 nội dung lớn: Đi sâu vào cải cách kết cấu trọng
cung; nhanh chóng xây dựng nhà nước sáng tạo; thực thi chiến lược chấn hưng nông
thôn; thực thi chiến lược phát triển hài hòa vùng miền; nhanh chóng hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; thúc đẩy hình thành cục diện mới mở cửa đối ngoại
toàn diện. Trong khi đó, Nhật Bản hướng vào 04 mục tiêu cơ bản và dài hạn sau:
Khuyến khích lối sống thân thiện với môi trường; hình thành và phát triển các đô thị
phát triển hiện đại, bền vững; phát triển hệ thống kinh tế, xã hội gắn kết hài hoà với
môi trường; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong phát triển bền vững quốc gia và bảo vệ
môi trường toàn cầu, thông qua hỗ trợ vốn, khoa học – công nghệ cho các nước đang
phát triển và các nước nghèo cùng chung sức thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học, thúc đẩy phát triển
bền vững toàn cầu. Riêng đối với Hàn Quốc, kinh tế phát triển nhảy vọt như hiện nay
đó là nhờ nhưng chính sách đúng đắn của Chính phủ trong từng giai đoạn. Hiện tại,
kinh tế quốc gia này đang tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp nặng và sản xuất ô
tô. Ở khu vực Đông Nam Á, chẳng hạn Thái Lan và Indonesia đang chú trọng chính
38
sách phát triển giáo dục và nâng cao đời sống ở nông thôn nhằm giảm khoảng cách
giàu nghèo và đẩy mạnh đầu tư. Trong khi đó, Việt Nam thực hiện quá trình cải cách
doanh nghiệp nhà nước thông qua cổ phần hóa. Singapore cũng như Malaysia lại chú
trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Philippines và Myanmar cố gắng thúc đẩy phát triển thêm việc làm và hoàn thiện cơ
chế pháp lý để thu hút nguồn vốn FDI. Cambodia lại quan tâm đến vấn đề phát triển
nông nghiệp và du lịch mới. Lào đầu tư ngành năng lượng để tăng xuất khẩu điện.
4.2.2. Thâm hụt ngân sách.
Thâm hụt hay thặng dư ngân sách được xác định bằng chênh lệch giữa tổng thu
và tổng chi ngân sách trung ương và địa phương trong một năm của Chính phủ. Nếu
tổng thu nhỏ hơn tổng chi thì ngân sách sẽ bị thâm hụt và ngược lại sẽ là thặng dư. Dữ
liệu thâm hụt/thặng dư ngân sách trong nghiên cứu được tác giả tính bằng cách lấy hiệu
số của tổng chi trừ cho tổng thu. Do đó, số dương sẽ thể hiện cho tình trạng thâm hụt
ngân sách, còn số âm sẽ thể hiện cho tình trạng thặng dư ngân sách.
Bảng 4.3. Thống kê mô tả về tình hình thâm hụt/thăng dư ngân sách trong giai
đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Year Minimum Maximum Mean Std. Deviation
2010 -.0761 .0953 .0124 .0457
2011 -.2564 .0944 -.0076 .0799
2012 -.1573 .0861 .0010 .0594
2013 -.1299 .0791 .0080 .0524
2014 -.0547 .0629 .0088 .0333
2015 -.0360 .1452 .0247 .0412
2016 -.0446 .2148 .0277 .0595
2017 -.0604 .1237 .0214 .0442
(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
39
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.3. Biểu đồ giá trị trung bình thâm hụt/thặng dự ngân sách trong giai đoạn
từ năm 2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Số liệu trong bảng 4.3 cho thấy tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách trên GDP của
các nước Đông Á và Đông Nam Á từ 2010 đến 2017 có giá trị trung bình biến động
trong khoảng từ -0,76% (năm 2011) đến 2,77% (năm 2016). Hầu hết trong các năm
thu thập dữ liệu nghiên cứu, giá trị trung bình của tỷ lệ thâm hụt ngân sách Chính phủ
của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đều đạt giá trị dương (duy nhất năm 2011
cho giá trị âm), điều đó có nghĩa rằng năm 2011, các quốc gia ở 2 khu vực này thặng
dư ngân sách, còn lại đều rơi vào tình trạng thâm hụt ngân sách. Trong đó, năm 2016 tỷ
lệ thâm hụt ngân sách trên GDP của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á đạt giá trị
trung bình cao nhất là 2,77%. Có thể thấy, với tình trạng gần như thâm hụt ngân sách
qua các năm thì việc vay nợ của các nước trong 02 khu vực đang nghiên cứu là một
biện pháp thường xuyên và quan trọng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về thực trạng và
đưa ra các khuyến nghị để quản lý tình hình nợ công tại đây là rất phù hợp và cần thiết.
40
Theo phụ lục 3, các nước thường có tỷ lệ ngân sách thặng dư so với GDP là Hàn
Quốc, Singapore và Hong Kong (cả 8 năm từ 2010 – 2017 đều thặng dư ngân sách);
Brunei (có 5 năm thặng dư ngân sách); Philippine và Thái Lan (có 3 năm thặng dư
ngân sách); Myanmar (thặng dư ngân sách vào năm 2012). Trong khi đó, tất cả các
nước còn lại bao gồm: Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Cambodia, Indonesia, Lào,
Malaysia và Việt Nam đều có tình trạng thâm hụt ngân sách trong suốt giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2017. Thực tế này cho thấy đa số Chính phủ các nước Đông Á và
Đông Nam Á đều có tình trạng thu không đủ chi dẫn đến thâm hụt ngân sách trong
nhiều năm. Những khoản thâm hụt này sẽ được giải quyết bằng cách vay mượn nợ từ
trong hoặc ngoài nước. Do đó, tình trạng thâm hụt này kéo theo thực trạng nợ công có
xu hướng ngày càng tăng trong khu vực.
4.2.3. Lãi suất thực tế.
Bảng 4.4. Thống kê mô tả về lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Thời gian Mức thấp nhất Mức cao nhất Mức trung bình Độ lệch chuẩn
2010 -.0959 .0930 .0127 .0476
2011 -.1222 .0551 .0072 .0489
2012 .0141 .0957 .0422 .0232
2013 .0164 .0857 .0475 .0210
2014 -.0052 .0847 .0422 .0261
2015 -.0098 .2783 .0619 .0745
2016 .0077 .1617 .0523 .0440
2017 .0028 .0655 .0265 .0198
(Nguồn: Thống kê của tác giả lấy căn cứ từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
41
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.4. Biểu đồ giá trị trung bình của lãi suất thực tế trong giai đoạn từ năm
2010 đến năm 2017 của các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Lãi suất thực tế được tính xấp xỉ bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Đây là lãi suất mà nhà đầu tư hy vọng nhận được sau khi trừ đi lạm phát. Việc tăng
giảm lãi suất thực tế sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến những khoản nợ công có lãi suất thả
nổi và những khoản vay mới. Từ các tính toán trong bảng 4.4 có thể thấy, từ năm 2010
đến năm 2017, lãi suất thực tế của các nước Đông Á và Đông Nam Á có giá trị trung
bình thay đổi trong khoảng từ 0,72% (năm 2011) đến 6,19% (năm 2015). Lãi suất thực
tế của các nước thuộc 02 khu vực này có sự biến động khá lớn và không ổn định qua
các năm. Điều này sẽ gây nguy cơ đến các khoản nợ công có lãi suất thả nổi và việc đi
vay mới của các Chính phủ bởi vì tình hình biến động của lãi suất có biên độ lớn và
khó dự báo.
42
4.2.4. Tỷ giá hối đoái.
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.5. Biểu đồ tỷ giá hối đoái trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017 của
các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á
Biểu đồ hình 4.5 cũng như các số liệu chi tiết trong phụ lục 5 phản ánh xu
hướng chung của các đồng tiền trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á có nhiều biến
động và hiện nay đa số là giảm giá trị so với đồng USD. Điều này cho thấy có sự cạnh
tranh về việc giảm giá trị nội tệ giữa các nước trong từng khu vực.
Xu hướng này cho thấy các nước trong 02 khu vực đang sử dụng công cụ tỷ giá
để kích thích xuất khẩu, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Xu hướng hạ giá trị đồng tiền sẽ
làm giá của hàng xuất khẩu trên thị trường rẻ hơn so với thị trường quốc tế, tuy nhiên
cũng khiến cho giá hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường trong nước. Đặc
biệt, trong 02 khu vực nghiên cứu, các mặt hàng xuất khẩu của các nước trong khu vực
Đông Nam Á (trừ Singapore) có nhiều đặc điểm chung về chủng loại và lợi thế nguồn
nhân công giá rẻ chính vì thế khiến việc cạnh tranh về xuất khẩu giữa các nước trong
43
khu vực trở nên gay gắt hơn, nếu không có sự điều chỉnh hợp lý về tỉ giá. Mặt khác,
việc hạ giá đồng nội tệ sẽ tạo sức ép lên các khoản nợ công bằng ngoại tệ, lúc này các
nước phải chi nhiều nội tệ hơn để mua ngoại tệ trả nợ.
4.3. Thống kê mô tả các biến.
Bảng 4.5. Thống kế mô tả các biến của mô hình nghiên cứu của các quốc gia Đông
Á và Đông Nam Á
N Minimum Maximum Mean Std. Deviation
120 .0006 2.3639 .5167 .5023 PD
120 -.3599 .2148 .0092 .0570 BDFE
120 -.1222 .3542 .0358 .0524 INT
120 -.0542 .1524 .0467 .0330 GDP
120 1.2496 22370.0867 3226.8359 5764.8911 EX
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
Bộ dữ liệu nghiên cứu được tác giả dùng STATA để thống kê mô tả các biến
trong mô hình dựa trên các tiêu chí sau: kích thước mẫu, mức độ trung bình, độ lệch
chuẩn, mức thấp nhất và mức cao nhất. Các biến được thống kê bao gồm: biến phụ
thuộc đó là tỷ lệ nợ công trên tổng GDP (PD) và các biến độc lập bao gồm: Tốc độ
tăng trưởng kinh tế (GDP), tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP (BDEF), tỷ lệ lãi suất
thực tế (INT), và tỷ giá hối đoái (EX).
Bảng 4.5 thế hiện kết quả thống kê mô tả dữ liệu. Kết quả thể hiện giá trị trung
bình của tỷ lệ nợ công trên GDP là 51,67%, giá trị nhỏ nhất là 0,06% và lớn nhất là
236,39% với độ lệch chuẩn 50,23%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có giá trị trung bình là
4,67%, độ lệch chuẩn là 3,30%, mức lớn nhất và nhỏ nhất lần lượt là 15,24% và
-5,42%. Đây là một tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối tốt so với các khu vực khác
trên thế giới. Giá trị trung bình của tỷ lệ thâm hụt/thặng dư ngân sách là 0,92%, nhỏ
nhất là -35,99% và lớn nhất là 21,48%, độ lệch chuẩn là 5,70%. Tỷ lệ lãi suất thực tế
nằm trong khoảng từ -12,22% đến 35,42%, với mức lãi suất trung bình là 3,58% và độ
44
lệch chuẩn là 5,24%. Giá trị trung bình của tỷ giá hối đoái là 3226,8359 với giá trị lớn
nhất và thấp nhất lần lượt là 22.370 và 1,25. Độ lệch chuẩn của tỷ giá là 5764,8911.
4.4. Kết quả ước lượng hồi quy mô hình nghiên cứu.
4.4.1. Kết quả ước lượng.
Tác giả đã tiến hành hồi quy dữ liệu bảng được thu thập với 03 phương pháp
ước lượng đó là: Phương pháp Pooled OLS, mô hình REM và mô hình FEM nhằm ước
lượng sự tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô trong mô hình nghiên cứu đến tỷ lệ nợ
công trên GDP. Kết quả phân tích hồi quy được trình bày chi tiết trong phụ lục 6. Bảng
4.6 trình bày tóm tắt kết quả hồi quy.
Bảng 4.6. Tổng hợp kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu
Các biến
ảnh Pooled OLS REM FEM
hưởng
3.8002*** -0.0169 -0.0194 BDEF
-3.7153** -0.0405 -0.0408 INT
-2.5948 -0.7335*** -0.7275*** GDP
-0.0000128 0.0000148** 0.0000161** EX
0.5586*** 0.5399*** 0.8134*** Constant
R- 0.1652 0.1664 0.1667 squared
Prob = 0.0056< 0.01 (***) F-test
Prob = 0.8854> 0.1 Hausman test
Prob = 0.0000< 0.01 (***) Breusch-Pagan Lagrangian test
***,** và * thể hiện ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
45
Kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian cho kết quả Prob = 0.0000 < 0.1 nên giả
thuyết phương sai giữa các cá thể hoặc các thời điểm có sự thay đổi được chấp nhận.
Vì vậy phương pháp ước lượng tác động ngẫu nhiên (REM) là phương pháp thích hợp
hơn phương pháp Pooled OLS.
Bên cạnh đó, kiểm định Hausman cho kết quả Prob = 0.8854 > 0.1 do đó phần
dư và các biến độc lập trong mô hình không có sự tương quan vì vậy phương pháp tác
động ngẫu nhiên (REM) sẽ được lựa chọn trong trường hợp này.
Tóm lại kết quả kiểm định Hausman và Breusch-Pagan Lagrangian cho thấy
trong trường hợp này việc sử dụng phương pháp tác động ngẫu nhiên (REM) để ước
lượng sẽ phù hợp nhất.
4.4.2. Kết quả kiểm định các giả định của mô hình hồi quy.
4.4.2.1.Phân tích tương quan.
Bảng 4.7 cho thấy Phân tích tương quan chỉ ra rằng biến phụ thuộc đều có tương
quan với các biến độc lập trong mô hình nên có thể tiến hành phân tích hồi quy. Ngoài
ra, không có sự tương quan chặt giữa các biến độc lập với nhau nên mô hình sẽ không
xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến.
46
Bảng 4.7. Hệ số tương quan của các biến
Correlations
BDFE
INT
GDP
EX
PD
BDFE
Pearson Correlation
1
.399**
-.001
.260**
.242*
Sig. (2-tailed)
.000
.988
.006
.010
N
120
93
120
111
112
INT
Pearson Correlation
.399**
1
-.106
.061
-.116
Sig. (2-tailed)
.313
.560
.292
.000
N
93
93
93
93
85
GDP
Pearson Correlation
-.001
-.106
1
.241*
-.148
Sig. (2-tailed)
.988
.011
.118
.313
N
120
93
120
111
112
EX
Pearson Correlation
.260**
.061
.241*
1
-.108
Sig. (2-tailed)
.006
.560
.279
.011
N
111
93
111
111
103
PD
Pearson Correlation
.242*
-.108
1
-.116
-.148
Sig. (2-tailed)
.010
.292
.118
.279
N
112
85
112
103
112
**. Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed).
*. Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed).
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
47
4.4.2.2. Hiện tượng đa cộng tuyến.
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
Hệ số VIF được dùng để đánh giá hiện tượng đa cộng tuyến của các biến độc
lập trong mô hình. Nếu hệ số VIF nhỏ hơn 10 thì có thể kết luận mô hình không vi
phạm giả định về đa cộng tuyến. Kiểm định cho thấy các biến độc lập có hệ số VIF
trong khoảng từ 1.11 đến 1.72. Chính vì vậy các biến độc lập trong mô hình không có
hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng.
4.4.2.3. Hiện tượng tự tương quan.
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
Hiện tượng tự tương quan có kết quả kiểm định Prob = 0.0004< 0.05 vì vậy giả
thuyết H0 bị bác bỏ. Điều này cho thấy có hiện tượng tự tương quan. Tuy nhiên, dữ liệu
khảo sát có số lượng đối tượng tương đối lớn (15 đối tượng) và số thời kỳ khảo sát
48
tương đối nhỏ (8 năm) không đủ lớn để phân tích quá trình tạo ra các sai số nhiễu, do
đó kết luận hiện tượng tự tương quan như kiểm định trên thường chưa đủ độ tin cậy để
kết luận và có thể bỏ qua.
4.4.2.4. Hiện tượng phương sai sai số thay đổi.
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
Hiện tượng phương sai sai số thay đổi được kiểm địnhcó kết quả Prob =
0.0006< 0.05 do đó giả thuyết H0 phương sai của sai số không đổi được chấp nhận. Mô
hình không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi.
4.4.2.5. Phân phối chuẩn của phần dư.
Giả định phân phối chuẩn của phần dư nếu bị vi phạm thì có thể kết luận mô
hình nghiên cứu không được sử dụng đúng, phương sai không phải hằng số hoặc số
lượng phần dư không đủ lớn để tiến hành hồi quy (Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng
Ngọc, 2005). Để tiến hành kiểm định phân phối chuẩn của phần dư, tác giả dùng hai
loại biểu đồ là biểu đồ Histogram và P-P Plot.
Biểu đồ hình 4.6 chính là biểu đồ Histogram thể hiện biểu đồ tần số của phần dư
chuẩn hóa được đường cong phân phối chuẩn đặt chồng lên với dạng hình chuông, thể
hiện đúng với dạng đồ thị của phân phối chuẩn. Giá trị Mean rất nhỏ (0.01), độ lệch
chuẩn là 0.598, do đó phân phối của phần dư gần như chuẩn.
49
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
Hình 4.6. Biểu đồ Histogram về phân phối chuẩn của phần dư
Đối với biểu đồ P – P Plot, phần dư có phân phối chuẩn thì các điểm phân vị
trong phân phối của phần dư sẽ tập trung xung quanh đường chéo. Điều này được thể
hiện rất rõ trong biểu đồ hình 4.7 do đó có thể kết luận phần dư của mô hình nghiên
cứu có phân phối chuẩn.
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ phần mềm Stata)
Hình 4.7. Biểu đồ P – P Plot về phân phối chuẩn của phần dư
50
4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu.
Từ các kết quả kiểm định, tác giả kết luận phương pháp ước lượng tác động
ngẫu nhiên (REM) là thích hợp nhất cho mô hình nghiên cứu của luận văn. Kết quả
ước lượng từ bảng 4.6 cho thấy:
Giả thuyết H1: Tốc độ tăng trưởng GDP có tác động âm đến tỷ lệ nợ công.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có tác động tích cực đến tỷ lệ nợ công trên
GDP với mức ý nghĩa 5%. Hệ số của mô hình hồi quy cho thấy khi tốc độ tăng trưởng
kinh tế tăng thêm 1% sẽ làm tỷ lệ nợ công trên GDP giảm 0,7335%. Điều này phù hợp
với giả thuyết nghiên cứu của tác giả. Kết quả này cho thấy tốc độ tăng trưởng kinh tế
là yếu tố kinh tế vĩ mô quan trọng làm giảm tỷ lệ nợ công. Đối với các quốc gia tại 02
khu vực nghiên cứu, việc tăng trưởng GDP góp phần làm giảm nợ công do nền kinh tế
đã có sự tích lũy, ngoài ra, khi kinh tế ngày càng phát triển thì nguồn thu từ các khoản
nộp ngân sách nhà nước sẽ tăng theo và khi đó các khoản đầu tư, chi ngân sách được
bù đắp từ nguồn tích lũy này, từ đó giảm các khoản vay nợ cũng như có nguồn để chi
trả lãi vay.
Giả thuyết H2: Tỷ lệ nợ công biến động cùng chiều với tỷ lệ thâm hụt ngân
sách.
Mặc dù phương trình hồi quy mẫu cho thấy một ít tác động của thâm hụt ngân
sách đến tỷ lệ nợ công nhưng xét ở khía cạnh tổng thể, ta chưa đủ bằng chứng để kết
luận tỷ lệ thâm hụt ngân sách có sự tác động đến tỷ lệ nợ công. Trong mô hình REM
(Phụ lục 6) giá trị p cho biến BDFE = 0.886 là khá lớn, và khoảng ước lượng 95% hệ
số của biến này nằm trong khoảng (-0.2480;0.2141) (chứa giá trị 0). Theo nhận định
của tác giả, nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là do có sự không đồng nhất trong mối
quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách của một số Quốc gia trong cả 02
khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Hình 4.8.a minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công
và tỷ lệ thâm hụt ngân sách của Lào, qua đó, ta thấy rằng khi tỷ lệ thâm hụt ngân sách
51
càng tăng thì tỷ lệ nợ công cũng tăng theo. Mối quan hệ này phù hợp so với giả thuyết
đã được tác giả đặt ra và phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây tại nhiều Quốc gia
trên thế giới, đặc biệt đối với các Quốc gia có nên kinh tế đang phát triển hoặc chậm
phát triển. Hình 4.8.b thể hiện mối quan hệ giữa nợ công và thâm hụt ngân sách tại
Nhật Bản. Qua đó, ta thấy Nhật Bản có tỷ lệ tăng nợ công rất cao, tuy nhiên, Nhật Bản
là một cường quốc kinh tế, có khả năng và luôn sẵn sàng cho các biện pháp ngăn chặn
khủng hoảng nợ công. Áp lực từ tỷ lệ nợ công cao đã buộc Nhật Bản có những biện
pháp cứng rắn để giảm tối đa vấn đề thâm hụt ngân sách. Do đó, tỷ lệ thâm hụt ngân
sách của Nhật Bản không tăng theo tỷ lệ nợ công. Xu hướng này cũng xuất hiện ở một
số Quốc gia có nền kinh tế tương đối phát triển khác trong 02 khu vực như Hàn Quốc,
Singapore và Malaysia. Việc xuất hiện 2 xu hướng khác nhau trong dữ liệu chung dẫn
đến việc chưa đủ bằng chứng để chứng minh giả thuyết H2 như đề cập ở phần trên.
52
a- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách Lào
b- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách Nhật Bản
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.8. Minh họa sự khác nhau trong mối quan hệ giữa nợ công và thâm hụt
ngân sách ở một số nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á
53
Giả thuyết H3: Lãi suất thực tế có tác động dương đến tỷ lệ nợ công.
Tương tự như tình trạng thâm hụt ngân sách, ở quy mô tổng thể, kết quả kiểm
định ở mô hình REM trong Phụ lục 6 cho thấy trên phương diện tổng thể ta chưa thể
kết luận rằng lãi suất thực tế có tác động đến nợ công. Đa số các Quốc gia trong khu
vực Đông Á và Đông Nam Á là các nước đang phát triển, nên nhu cầu mượn nợ để đầu
tư rất cao, dẫn đến nợ công ngày càng tăng. Tuy nhiên, các khoản vay lãi suất thấp mà
các nước này nhận được có xu hướng ngày càng giảm và chuyển dần sang các khoản
vay ưu đãi, vay thương mại với lãi suất cao hơn. Bên cạnh đó, khi nợ công ở một Quốc
gia tăng và trở nên bất ổn, khả năng trả nợ ngắn hạn không khả thi, lãi suất, đặc biệt là
lãi suất nợ dài hạn sẽ được điều chỉnh cao hơn. Thực trạng trên dẫn đến việc lãi suất
thực tế có tác động thuận chiều đối với tỷ lệ nợ công ở một số quốc gia khảo sát (xem
minh họa Hình 4.9.a với nợ công tại Việt Nam). Ở một số Quốc gia khác, chẳng hạn
Nhật Bản (xem minh họa Hình 4.9.b) mặc dù tỷ lệ nợ công ngày càng tăng nhưng
chính sách nợ công của Nhật Bản vẫn được đánh giá là mang tính bền vững và ổn định
do các chính sách điều chỉnh của chính phủ nước này như chính sách cắt giảm thâm hụt
ngân sách, chính sách thuế…(Broda and Weinstein (2005), Kazuo Ogawa và cộng sự
2016), điều này dẫn đến Nhật Bản vẫn được đánh giá cao về khả năng trả nợ dẫn đến
lãi suất, đặc biệt là lãi suất dài hạn được duy trì ở mức thấp. Xu hướng tương tự cũng
đúng với một số quốc gia khác trong 02 khu vực như Hàn Quốc, Trung Quốc, Brunei,
Malaysia và Thái Lan.
54
a- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế Việt Nam
b- Mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế Nhật Bản
(Nguồn:Tổng hợp của tác giả từ các dữ liệu thu thập để nghiên cứu)
Hình 4.9. Minh họa mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ công và lãi suất thực tế ở một số
quốc gia khu vực Đông Á và Đông Nam Á
55
Giả thuyết H4: Tỷ giá hối đoái có tác động dương đến tỷ lệ nợ công.
Tỷ giá hối đoái (EX) có tác động tích cực đến tỷ lệ nợ công trên GDP với mức ý
nghĩa 5%. Khi tỷ giá hối đoái tăng thêm 1% sẽ làm tỷ lệ nợ công trên GDP tăng thêm
0,0000148% (rất nhỏ). Điều này đúng với giả thuyết nghiên cứu của tác giả. Bởi lẽ,
theo Mankiw (2003) cho rằng, khi tỷ giá giảm hay giá đồng nội tệ tăng lên sẽ có tác
động tiêu cực tới xuất khẩu, gây ra thâm hụt tài khoản vãng lai và có tác động tới nợ
công (tác động gián tiếp, nên hệ số của biến rất nhỏ). Kết quả này hàm ý rằng: cơ cấu
đồng tiền vay trong danh mục nợ công hiện hành của các nước Đông Á và Đông Nam
Á có các khoản vay bằng ngoại tệ đã phát sinh rủi ro do các biến động tỷ giá các đồng
tiền vay bằng ngoại tệ này, việc điều chỉnh giảm giá trị đồng nội tệ của các nước Đông
Á và Đông Nam Á để hỗ trợ cho xuất khẩu đã làm tăng giá trị danh nghĩa các khoản nợ
công bằng ngoại tệ quy theo đồng nội tệ. Điều này khiến cho các khoản nợ công vay
bằng ngoại tệ đang tiềm ẩn những rủi ro cho Chính phủ các nước nếu xảy ra những sự
biến động về tỷ giá lớn mà không thể kiểm soát và được dự báo trước.
56
Kết luận chương 4
Trong chương 4, tác giả tiến hành thống kê mô tả về thực trạng tỷ lệ nợ công
trên GDP và các yếu tố tác động đến nợ công trong mô hình nghiên cứu bao gồm: tốc
độ tăng trưởng kinh tế, thâm hụt ngân sách, lãi suất thực tế và tỷ giá hối đoái tại các
nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á từ năm 2010 đến năm 2017. Qua kết quả
thống kê từ phần mềm STATA, tác giả đã có những phân tích, nhận xét cụ thể về sự
biến động của tỷ lệ nợ công và các yếu tố tác động đến nợ công của các nước Đông Á
và Đông Nam Á qua các năm nhằm có cơ sở thực tế để đưa ra các khuyến nghị phù
hợp.
Các bước nghiên cứu định lượng được thực hiện bao gồm thống kê mô tả các
biến trong mô hình nghiên cứu, xem xét các giả định hồi quy có bị vi phạm hay không
để đảm bảo các hệ số ước lượng là hiệu quả và không lệch, phân tích hồi quy mức độ
tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến tỷ lệ nợ công trên GDP từ đó đưa ra những
phân tích, nhận xét về kết quả nghiên cứu.
57
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
5.1. Kết luận.
Với vị trí và vai trò của khu vực Đông Á và Đông Nam Á ngày càng lên cao
trên bản đồ địa chính trị - kinh tế thế giới, những biến động kinh tế của khu vực này
cũng tạo ra những ảnh hướng đáng kể lên tăng trưởng kinh tế toàn cầu khi đây là khu
vực đầu tàu phát triển kinh tế thế giới với mức độ tăng trưởng luôn ở mức cao. Chính
vì lẻ đó, việc ổn định kinh tế cho khu vực này luôn là tâm điểm quan tâm phân tích của
các nhà kinh tế học trên thế giới nói chung và các nước trong khu vực nói riêng. Một
trong số những chủ đề đáng quan tâm là tình hình nợ công của tổng thể khu vực này.
Với mức độ phát triển kinh tế còn hạn chế, khả năng quản lý kinh tế các quốc gia Đông
Á và Đông Nam Á còn nhiều điểm khác biệt do khác biệt về nền tảng địa chính trị và
văn hoá, việc nghiên cứu giúp xác định các yếu tố có tác động đến nợ công chung của
02 khu vực và qua đó hỗ trợ các nhà phát triển chính sách tại các nước có thể vạch ra
những hướng đi mang tính phổ quát cho khu vực trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô
và tìm ra những giải phát tối ưu nhằm hướng đến sự phát triển bền vững của cả 02 khu
vực với tầm nhìn ngắn đến dài hạn là rất cần thiết và mang đến nhiều kết quả có giá trị.
Thông qua nghiên cứu này, một số kiến thức có liên quan đến chủ đề nợ công
được tác giả hệ thống hoá ở mức độ học thuật với các yếu tố tác động mang tính vĩ mô
được chỉ ra. Đồng thời thông qua thực nghiệm bộ dữ liệu của nghiên cứu, tác giả đã chỉ
ra các yếu tố có tác động trực tiếp đến nợ công của các quốc gia Đông Á và Đông Nam
Á, đồng thời làm rõ những ảnh hưởng của các yếu tố đó lên tình hình nợ công của khu
vực. Thực tiễn nghiên cứu này, những nhà hoạch định chính sách cũng có được cái
nhìn phổ quát về những yêu tố tác động lên nợ công của quốc gia mình trong các giai
đoạn được nghiên cứu để từ đó rút ra những kết luận về định hướng phát triển kinh tế
vĩ mô bền vững trong thời gian tới.
Từ những cơ sở lý thuyết và những nghiên cứu có liên quan của những nhà kinh
tế học trên thế giới, tác giả chỉ ra những yếu tố có thể có tác động lên nợ công của các
58
nước trong 02 khu vực Đông Á và Đông Nam Á bao gồm các yếu tổ như: Tốc độ tăng
trưởng kinh tế (GDP), tỷ lệ thâm hụt ngân sách (BDEF), lãi suất thực của quốc gia
được nghiên cứu (INT) và tỷ giá hối đoái kỳ trước theo quốc gia so với USD (EX). Với
giả thuyết rằng, tất cả những yếu tố vừa nêu đều có tác động lên tỷ lệ nợ công (nợ
công/tổng GDP) trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017.
Từ những yếu tố vừa chỉ ra, thông qua nghiên cứu này, tác giả chỉ ra bức tranh
kinh tế tổng thể của khu vực với tỷ lệ nợ công trong khoản 50,68% - 55,09% và có xu
hướng tăng dần theo thời gian, mức tỷ lệ này là chấp nhận được với cơ cấu các quốc
gia đa phần là đang phát triển và một số trường hợp có nợ công vượt mức 100% (như
Nhật Bản và Singapore). Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trung bình trong khoảng từ -0,76%
đến 2,77% nhưng nhóm thời gian thâm hụt và danh sách các nước thâm hụt luôn nhiều
hơn các thặng dư. Lãi thực và tốc độ tăng trưởng (GDP) các nước trong 02 khu vực
hầu hết ở mức cao thể hiện rằng đây là 02 khu vực năng động với suất sinh lợi lớn và
luôn là khu vực tăng trưởng ấn tượng của kinh tế thế giới. Tỷ giá hối đoái lại là một
câu chuyện khác của 02 khu vực này, khi các quốc gia luôn xem đây là một công cụ hỗ
trợ tăng trưởng kinh tế nước nhà, nên tỷ giá luôn được giữ ở mức thấp để tăng tính
cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu nhưng lại làm tăng áp lực nợ công khi các chính
phủ phải chi tiêu nhiều nội tệ hơn để mua các khoản nợ ngoại tệ.
Bằng các biến độc lập và mô hình đã có, tác giả thực hiện chạy lần lượt 03
phương pháp ước lượng gồm mô hình Pooled OLS, REM và FEM và thông qua các
bước kiểm định để lựa chọn mô hình REM là phương pháp ước lượng phù hợp nhất
cho nghiên cứu. Tiếp sau đó, tác giả thực hiện một số kiểm định về sự vi phạm các giả
định hồi quy và đưa ra kết luận rằng bộ dữ liệu là tốt để thực hiện nghiên cứu.
Với kết quả hồi quy thu được, các yếu tổ đã nêu ra đều có tác động đến nợ công,
cụ thể như sau:
- Khi tốc độ tăng trường GDP tăng 1% sẽ làm giảm tỷ lệ nợ công trên GDP
tương ứng 0,7335% ở mức ý nghĩa 5%.
59
- Tỷ giá hối đoái (EX) tăng 1% cũng làm tăng nợ công nhưng ở mức rất thấp,
chỉ khoảng 0,0000148%, với mức ý nghĩa 5%.
- 2 yếu tố còn lại là tình trạng thâm hụt ngân sách và lãi suất thực tế có một ít
tác động đến tình hình nợ công (đối với mẫu trong khuôn khổ thu thập dữ liệu), tuy
nhiên chưa thể kết luận trên phương diện tổng thể.
5.2. Khuyến nghị cho các nước Đông Á và Đông Nam Á.
5.2.1. Về tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề nợ công được đặt trên bàn thảo luận của rất nhiều chuyên gia kinh tế trên
thế giới vì nó chính là tấm gương phản ánh hai mặt của vấn đề phát triển và rủi ro suy
thoái do tăng trưởng tín dụng quốc gia một cách ào ạt. Nợ công sẽ là luồng gió tốt đẩy
tăng trưởng kinh tế quốc gia khi dòng tiền nó mang lại được đầu tư đúng và đủ cho các
dự án kinh tế trọng điểm, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng mang tính chiến lược quốc gia,...
nhưng nó cũng sẽ đẩy chính quốc gia đó vào cảnh mất khả năng thanh khoản khi sử
dụng lãng phí nguồn vốn này và làm khả năng sinh lợi từ nó giảm xuống, không thể tạo
ra sự chuyển biến trong nền kinh tế đang sử dụng nó.
Vì tính chất hai mặt đó của nợ công mà các chính phủ tại các quốc gia Đông Á
và Đông Nam Á có những cách thức khác nhau trong việc sử dụng nợ công của riêng
từng quốc gia. Nếu như đối với các nước có nền kinh tế đã phát triển như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore hay Malaysia đang tập trung phát triển kinh tế gắn
với phát triển khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường thì đối với các nước như Thái
Lan, Indonesia đầu tư nhiều vào khu vực nông thôn để nâng cao dân trí, kéo giảm
chênh lệch xã hội và Việt Nam dùng những khoản nợ đầu tư vào cơ sở hạ tầng quốc
gia, thúc đẩy kinh tế vùng miền trong nước. Do đó, việc khuyến nghị các quốc gia nên
làm gì với các khoản tín dụng quốc tế của mình là khá khó khăn. Nhưng tựu trung lại,
chúng ta có thể đưa ra một cơ chế chung cho vấn đề này, đó là việc sử dụng nợ công
cũng cần có những kế hoạch cụ thể và rõ ràng với những chỉ tiêu kinh tế đi kèm với
những món đầu tư đó. Những chỉ tiêu kinh tế đó chính là kim chỉ nam và là điều kiện
60
đảm bảo suất sinh lợi của những món nợ quốc gia. Nó không chỉ đảm bảo khả năng trả
nợ của quốc gia nhận nợ tăng lên mà còn đưa kinh tế của khu vực nhận nợ phát triển
vượt bật trong thời gian ngắn. Để làm được như vậy, các Chính phủ cần có những
chính sách giám sát phát triển kinh tế đối với những vùng, lĩnh vực sử dụng nợ công để
đảm bảo có những điều chỉnh kịp thời và đúng đắn trong quá trình đầu tư bằng nợ
công.
5.2.2. Về ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước hiện nay vẫn là một vấn đề nan giải tại các quốc
gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á với thời gian thâm hụt liên tục nhiều năm.
Nhưng để xác định thâm hụt hay thặng dư là có lợi cho sự phát triển kinh tế của các
quốc gia trong 02 khu vực nghiên cứu là việc không xác định được. Trong 02 khu vực,
các quốc gia như Hàn Quốc, Hồng Kông hay Singapore luôn ở tinh trạng thặng dư
ngân sách, trong khi đó các quốc gia còn lại đều ở tình trạng thâm hụt ngân sách. Mối
lo về thâm hụt sẽ kéo theo nợ công tăng dần là có lý, vì thông qua nghiên cứu, chúng ta
có thể thấy đa số các quốc gia có tỷ lệ thâm hụt ngân sách tăng sẽ dẫn đến tỷ lệ nợ công
tăng theo. Tuy nhiên, đối với các quốc gia có sự quản lý tình hình nợ công tốt, việc gia
tăng tỷ lệ nợ công không hoàn toàn do thâm hụt ngân sách mà có thể các nước này
dùng nợ công để làm gia tăng khả năng đầu tư của quốc gia. Điều này giúp cho những
nhà hoạch định chính sách của các nước có thêm căn cứ để xây dựng chính sách quản
lý nợ công, góp phần làm ổn định tình hình nợ công và phát triển kinh tế tại mỗi quốc
gia.
Chúng ta cũng có thể thấy rằng khu vực Đông Á và Đông Nam Á là một khối
kinh tế với sự thống nhất nhất định mà trong đó bao gồm cả các quốc gia có nền kinh tế
phát triển và các quốc gia thuộc nhóm nước kinh tế đang phát triển. Vì thế, các nhà
hoạch định chính sách cần tổ chức nhiều hơn những cuộc hội thảo khoa học và hội thảo
liên chính phủ để có thể tạo điều kiện cho các quốc gia có điều kiện học hỏi lẫn nhau,
từ đó xây dựng một liên minh vững chắc trong khu vực và trên thế giới. Một chính
61
sách tài khoá quốc gia có liên kết mạnh trong khu vực không chỉ đảm bảo khả năng
cạnh tranh chung của cả khối mà còn mang ý nghĩa thúc đẩy kinh tế cho cả 02 khu vực,
tạo ra lợi thế cạnh tranh từ quy mô bên ngoài cho cả khu vực.
Riêng đối với các nước có mức độ thâm hụt thương mại quá sâu trong nhiều
năm liên tiếp, bản thân các nước cũng cần có cái nhìn nghiêm túc hơn về vấn đề kiềm
chế thâm hụt, cắt giảm nhu cầu vay vốn nước ngoài phục vụ phát triển quốc gia mà
chuyển sang tự đầu tư và phát triển kinh tế nội tại. Hướng đi đó sẽ giúp quốc gia có sự
phát triển ổn định và bền vững hơn, đồng thời có được giảm rủi ro do áp lực nợ công
tăng cao, tránh đi vào vết xe đỗ như trường hợp của Hy Lạp hay một số nước Châu Âu
khi không cân đối được nợ công quốc gia.
5.2.3. Về lãi suất thực tế.
Lãi suất thực chính là những gì một nhà đầu tư kỳ vọng trên thị trường khi quyết
định đầu tư vào khu vực. Lãi suất cao lại làm hạn chế khả năng tiếp cận nguồn vốn thị
trường và làm chi phí của các chính phủ phải trả cho khoản vay của mình tăng lên, bào
sâu hơn vào quá trình thâm hụt ngân sách. Vòng tròn khó khăn này chính là một trong
những bài toán khó cho chính phủ các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á
nhưng nó cũng hàm chứa những tiềm năng phát triển của khu vực.
Trên thực tế, trong các năm qua, Chính phủ các nước đã làm khá tốt trong vấn
đề bình ổn lãi suất thực của thị trường, nhưng bao nhiêu đó vẫn là chưa đủ. Các chính
phủ cần những biện pháp dài hạn hơn vì chính sách này là tổng hoà của những chính
sách tiền tệ dài hạn, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô sau khủng hoảng kinh tế,
đưa nền kinh tế đi vào quỹ đạo ổn định. Cụ thể, Chính phủ các nước cần một kế hoạch
hỗ trợ doanh nghiệp trong nước phát triển kinh doanh, cũng như thu hút nguồn vốn
nước ngoài đầu tư vào thay vì đi vay để làm tăng nợ công. Để làm được điều này, các
chính phủ cần phải cố gắng nâng cao vị thế của mình trên thế giới thông qua việc nâng
chỉ số tín nhiệm tín dụng quốc gia. Một khu vực với những quốc gia có mức tín nhiệm
62
cao cũng là một lợi thế phát triển kinh tế tuyệt vời không chỉ cho riêng các quốc gia mà
còn cho sự phát triển của từng nước nhỏ trong khu vực.
5.2.4. Về tỷ giá hối đoái.
Như đã trình bày về sự khác biệt giữa các nền kinh tế khác nhau trong 02 khu
vực nên tỷ giá hối đoái chung của các quốc gia tác động không nhiều lên nợ công
thông qua mức tác động trong bản kết quả hồi quy của nghiên cứu. Nhưng điều này
cũng không làm giảm tính quan trọng của tỷ giá đối với vấn đề quản lý nợ công của các
quốc gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Vì đây chính là cái giá thực tế các
quốc gia phải bỏ ra khi nhận những khoản tín dụng mang tính quốc tế.
Một quốc gia có chính sách về ngoại tệ hợp lý sẽ làm giảm giá trị khoản nợ của
mình đi đáng kể khi thay đổi tỷ giá trong quá trình nhận nợ. Điều này không chỉ làm
giảm áp lực nợ công đè lên nền kinh tế mà còn giúp tiết kiệm một khoản lớn ngân sách
chi trả cho nợ công của quốc gia đó. Nhưng một chính sách tỷ giá hối đoái quốc gia
thường lại nhắm đền nhiều mục tiêu khác như thúc đẩy xuất nhập khẩu, tăng cường
mậu dịch đa phương,... Trên xu hướng thị trường các nước Đông Á và Đông Nam Á
đang kiềm chế, thậm chí là hạ giá đồng nội tệ như hiện nay, có thể chính sách về xuất
nhập khẩu sẽ phát huy tác dụng khả quan nhưng về dài hạn, các Chính phủ nên để tỷ
giá hối đoái ở mức độ cân bằng, ít biến động vì sẽ làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế nước
nhà, thậm chí xảy ra những căng thẳng chính trị không cần thiết như việc Mỹ phản đối
Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ của họ.
5.3. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo.
5.3.1. Hạn chế của luận văn.
Từ việc thực hiện nghiên cứu thực nghiệm, luận văn đã làm rõ những tác động
của các yếu tố kinh tế vĩ mô lên nợ công các quốc gia khu vực Đông Á và Đông Nam
Á nhưng vẫn tồn tại những hạn chế như sau:
- Nhóm các quốc gia được nghiên cứu trong 02 khu vực là khá ít, tức mẫu thu
thập tuy đạt tiêu chuẩn về mức tối thiểu để phân tích hồi quy đa biến nhưng nếu thực
63
hiện nghiên cứu với kích thước mẫu lớn hơn bằng cách mở rộng giai đoạn nghiên cứu
thì sẽ giúp nâng cao đáng kể giá trị của kết quả nghiên cứu. Nhưng vì thời gian thực
hiện luận văn hạn chế nên chúng ta chấp nhận mức độ của nghiên cứu và kết quả
nghiên cũng là khá tốt, phục vụ được cho các mục đích mà nghiên cứu đề ra.
- Như kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, mức độ giải thích của các các yếu tố tác
động đối với biến phụ thuộc không cao chỉ với 04 biến. Chúng ta đều hiểu rằng còn rất
nhiều yếu tố tác động lên nợ công của một nhóm quốc gia nhưng một nghiên cứu với
đầy đủ các biến sẽ tốn một lượng tài nguyên và thời gian đáng kể nên trong thời lượng
và khả năng của mình, tác giả đã làm khá tốt công việc của mình là đưa ra một mô hình
khả dĩ giải thích cho vấn đề nợ công của các nước khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
- Nghiên cứu cũng chỉ thực hiện đánh giá tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô
lên nợ công mà chưa đánh giá được những yếu tố đó có tác động qua lại nhau hay
không vì nếu có, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả của nghiên cứu.
5.3.2. Hướng nghiên cứu tiếp theo.
Với những hạn chế vừa nêu ra của đề tài này, chúng ta nhận thấy rằng, nghiên
cứu này hoàn toàn có thể được nâng lên thành một nghiên cứu mang tính phổ quát cao
hơn, có ý nghĩa kinh tế học sâu sắc hơn và mang tính định hướng phát triển kinh tế vĩ
mô khu vực tốt hơn nếu chúng ta có thể khắc phục những vấn đề mà đề tài đang gặp
phải.
Một nghiên cứu tương tự với phạm vị nghiên cứu lớn, chạy trên mô hình dữ liệu
bảng (Panel data) với lượng biến lớn hơn bao gồm nhiều yếu tố vĩ mô hơn sẽ giúp
nghiên cứu trở nên hoàn thiện hơn; giúp ích cho những nhà hoạch định chính sách
không chỉ của một quốc gia cụ thể nào mà là cả 02 khu vực Đông Á và Đông Nam Á
phát triển những chiến lược phù hợp với quốc gia và đồng thời phát huy được thế mạnh
liên kết khu vực.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu trong nước.
1. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008. Phân tích dữ liệu nghiên cứu
với SPSS. Tập 2, Nhà xuất bản Hồng Đức.
2. Lê Phan Thị Diệu Thảo và Thái Hán Vinh, 2015. Kiểm định tác động của nợ
công đến tăng trưởng kinh tế. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, số 116, Tháng
11/2015.
3. Quốc Hội, 2017. Luật quản lý nợ công số 20/2017/QH14. Hà Nội, ngày 23 tháng
11 năm 2017.
Tài liệu nước ngoài.
1. Abbas A., 2007. Public Domestic Debt and Economic Growth in Low Income
Countries, Department of Economics, Oxford University, Mimeo.
2. Alfaidi, 2002. The Effect of External Debt on the Developing Countries.
3. Baltagi Badi H., 2008. Econometric Analysis of Panel Data. Wiley; 4 edition,
June 9, 2008.
4. Bogdan Andrei Dumitrescu, 2014. The public debt in Romania - factors of
influence, scenarios for the future and a sustainability analysis considering both a
finite and infinite time horizon. Procedia Economics and Finance, 8 (2014), p.
283 – 292.
5. Berg A., and Krueger A., 2003. Trade, Growth, and Poverty: A Selective Survey,
IMF Working Paper, 03/30.
6. Christabell Matiti, 2013. The relationship between public debt and economic
growth in Kenya. International Journal of Social Sciences and Project Planning
Management, Vol.1, Issue 1, 2013.
7. Compos C., Jaimovich D. and Panizza U.,2006. The Unexplained Part of Public
Debt, Emerging Markets Review, 7: 228 - 243.
8. Cuddington John, 1996. Analysing the Sustainability of Fiscal Deficits in
Developing Countries, Economics Department Georgetown University,
Washington DC. 20057-1045.
9. Checherita-W Estphal C. and P. rother, 2012. The impact of high government
debton economic growth and its channels: An empirical investigation for the euro
area, European Economic Review, 56 (7), pp. 1392 - 1405
10. Dornbusch R., and Fisher S.,1990. Macroeconomics, McGraw Hill Publishing
Company, New York.
11. Don P. Clark, 2011. FDI, Technology Spillovers, Growth, and Income Inequality:
A Selective Survey, Global Economy Journal, Volume 11, Issue, 2011.
12. Giannitsarou C. and Scott A.,2006. Inflation Implication of Rising Government
Debt, National Bureau of Economic Research.
13. Granger C. W. and Newbold P.,1974. Spurious Regression in Econometrica,
Journal of Economic, Vol. 2, Paper 111 - 120.
14. Gujirati, 2004. Basic Econometrics. 4thed. The Mcgraw –Hill companies.
15. Judge et al.,1988. Introduction to the Theory and Practice of Econometrics - 2nd
ed. John Wiley & Sons. ISBN 0-471- 62414-4.
16. Jurgita Stankeviciene and Ausrine Lakstutiene, 2013. The Interaction of Public
Debt and Macroeconomic Factors: Case of the Baltic States. Economics and
Business.
17. Jaimovich, D và Panizza, U, 2010. Public debt around the world: a new data set
of central government debt, Applied Economics Letters, 2010.
18. Ley E., 2010. Fiscal (and External) Sustainability, The World Bank, PREM,
Economic Policy and Debt Department, July 18th, 2010.
19. Marek Dabrowski, 2014. Factors Determining a ‘Safe’ Level of Public Debt.
National Research University Higher School of Economics, Moscow.
20. Reinhart C. M., and Rogoff K. S., 2008. This Time is Different: A Panoramic
View of Eight Centuries of Financial Crises.
21. Sachs J. and Larrain F., 1993. Macroeconomics in the Global Economy, Harverter
Wheatsheaf, New York.
22. Tabachnick, B. G.,&; Fidell, L. S., 2007. Using multivariate statistics. Boston:
Pearson/Allyn & Bacon. Chicago (Author-Date, 15th ed.).
23. Wooldridge.J., 2002. Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data.
MIT Press, Cambridge.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
TỶ LỆ NỢ CÔNG TRÊN GDP CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á
VÀ ĐÔNG NAM Á (%)
Quốc gia
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
1.113
2.129
2.101
2.209
3.231
2.953
3.005
2.689
Brunei
33.531
34.89
34.737
35.441
34.104
32.504
33.681
35.134
Cambodia
33.742
33.638
34.269
36.997
39.92
41.066
44.323
47.79
China
24.525
23.106
22.96
24.847
24.682
27.46
28.335
28.913
Indonesia
55.124
50.805
55.238
54.349
58.581
58.093
58.449
62.769
Lao
51.94
52.636
54.552
56.447
56.16
57.916
56.221
54.157
Malaysia
49.622
46.052
40.689
33.209
29.911
34.536
35.747
34.725
Myanmar
49.679
47.476
47.852
45.741
42.064
41.462
38.969
37.825
Philippines
39.831
39.12
41.926
42.192
43.344
42.549
41.805
41.882
Thailand
48.084
44.593
48.39
51.82
55.011
56.968
59.831
58.231
Vietnam
0.619
0.576
0.545
0.52
0.065
0.062
0.059
0.055
Hong Kong
207.852
222.087
229.008
232.469
236.069
231.261
235.627
236.388
Japan
30.825
31.511
32.201
35.39
37.314
39.526
39.996
39.782
Korea
96.987
100.733
105.082
101.487
96.641
100.5
106.774
110.864
Singapore
36.736
38.211
39.182
38.999
37.83
36.553
36.232
35.172
Taiwan
(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế)
PHỤ LỤC 2
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG GDP CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ
ĐÔNG NAM Á (%)
Quốc gia
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2.6520
3.7440
0.9130
-2.1250
-2.5080
-0.4050
-2.4650
0.5470
Brunei
5.9630
7.1830
7.2550
7.4430
7.0670
7.1970
7.0420
6.9470
Cambodia
10.6060 9.5000
7.9000
7.8000
7.3000
6.9000
6.7200
6.8560
China
6.3780
6.1700
6.0300
5.5570
5.0070
4.8760
5.0330
5.0680
Indonesia
8.0180
7.9860
7.8050
8.0260
7.6120
7.2700
7.0230
6.8300
Lao
7.5280
5.2940
5.4730
4.6940
6.0070
5.0280
4.2200
5.9020
Malaysia
5.3450
5.5910
7.3330
8.4260
7.9910
6.9930
5.8710
6.7200
Myanmar
7.6320
3.6600
6.6840
7.0640
6.1450
6.0670
6.9240
6.6680
Philippines
7.5140
0.8400
7.2430
2.6870
0.9840
3.0200
3.2830
3.9030
Thailand
6.4230
6.2400
5.2470
5.4220
5.9840
6.6790
6.2110
6.8120
Vietnam
6.7680
4.8150
1.7000
3.1020
2.7620
2.3880
2.1370
3.8230
Hong Kong
4.1920
-0.1150 1.4950
2.0000
0.3750
1.3540
0.9380
1.7130
Japan
6.4970
3.6820
2.2920
2.8960
3.3410
2.7900
2.8280
3.0850
Korea
15.2400 6.3510
4.0830
5.1110
3.8840
2.2410
2.3970
3.6190
Singapore
10.6310 3.8050
2.0640
2.2020
4.0210
0.8060
1.4100
2.7900
Taiwan
(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế)
PHỤ LỤC 3
TỶ LỆ THÂM HỤT/THẶNG DƯ NGÂN SÁCH TRÊN GDP CỦA
CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ ĐÔNG NAM Á
Quốc gia
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
-0.0761 -0.2564 -0.1573 -0.1299 -0.0357 0.1452 0.2148 0.1237
Brunei
0.0285 0.0408 0.0380 0.0214 0.0113 0.0158 0.0169 0.0362
Cambodia
0.0036 0.0010 0.0030 0.0083 0.0091 0.0279 0.0370 0.0395
China
0.0124 0.0070 0.0159 0.0222 0.0215 0.0260 0.0249 0.0249
Indonesia
0.0280 0.0150 0.0044 0.0481 0.0393 0.0231 0.0461 0.0483
Lao
0.0453 0.0362 0.0376 0.0405 0.0267 0.0259 0.0261 0.0291
Malaysia
0.0547 0.0353
-0.0094 0.0135 0.0094 0.0442 0.0252 0.0349
Myanmar
0.0235 0.0032 0.0030
-0.0020 -0.0086 -0.0061 0.0037 0.0030
Philippines
0.0126 0.0001 0.0090
-0.0051 0.0079
-0.0013 -0.0056 0.0060
Thailand
0.0276 0.0115 0.0686 0.0744 0.0629 0.0622 0.0625 0.0472
Vietnam
-0.0423 -0.0381 -0.0318 -0.0102 -0.0365 -0.0060 -0.0446 -0.0518
Hong Kong
0.0953 0.0944 0.0861 0.0791 0.0564 0.0380 0.0366 0.0423
Japan
-0.0153 -0.0169 -0.0156 -0.0065 -0.0042 -0.0055 -0.0175 -0.0194
Korea
-0.0620 -0.0874 -0.0788 -0.0663 -0.0547 -0.0360 -0.0330 -0.0604
Singapore
0.0508 0.0402 0.0431 0.0324 0.0273 0.0178 0.0220 0.0181
Taiwan
(Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế)
PHỤ LỤC 4
LÃI SUẤT THỰC TẾ CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ
ĐÔNG NAM Á (%)
Quốc gia
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
-9.5882 -12.2154 4.2267 8.5661 7.6595 27.8296 16.1651 0.5190
Brunei
-1.0608
-1.4721 3.5232 3.6926 4.7324
4.2527
3.1758 0.2840
China
4.7166
1.0608
1.4054 3.1308 2.0902
1.3088
3.2875
Hong Kong
-1.7461
4.5944
7.7502 6.3749 6.7921
8.3499
9.1802 6.5508
Indonesia
3.5610
3.2293
2.1857 1.6424 -0.5171
-0.9776 0.7691
Japan
2.2782
4.1078
4.3074 3.7579 3.6410
1.1120
1.3626 1.1847
Korea
9.3017
5.5134
9.5703 8.2603 8.4728
8.5113
9.1202 2.4944
Myanmar
-2.1133
-0.4719 3.7484 4.4303 2.0684
4.9785
2.5435
Malaysia
3.3105
2.5394
3.6395 3.6468 2.2960
6.2012
3.8770 3.2315
Philippines
5.4285
4.0812
4.8085 5.6172 5.6191
1.7024
5.3884 4.3716
Singapore
0.2431
1.2767
3.2167 3.2242 3.4578
3.8395
2.0589 2.0553
Thailand
0.9467
-3.5517 2.2949 4.6481 4.3387
7.1645
5.7851 3.1453
Vietnam
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)
PHỤ LỤC 5
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG Á VÀ
ĐÔNG NAM Á
Quốc gia
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
1.3635
1.2579
1.2496
1.2512
1.2670
1.3749
1.3813
1.3809
Brunei
6.7703
6.4615
6.3123
6.1958
6.1434
6.2275
6.6445
6.7588
China
7.7692
7.7840
7.7564
7.7560
7.7541
7.7518
7.7623
Hong Kong
9090.43
8770.43
9386.63
10461.2
11865.2
13389.4
13308.3
13380.9
Indonesia
87.7799
79.8070
79.7905
97.5957
105.945
121.044
108.793
112.166
Japan
4184.92
4058.50
4033.00
4027.25
4037.50
4067.75
4058.69
4050.58
Cambodia
1156.06
1108.29
1126.47
1094.85
1052.96
1131.16
1160.43
1130.42
Korea
8258.77
8030.06
8007.76
7860.14
8048.96
8147.91
8179.27
8351.53
Lao
5.6349
5.4441
640.653
933.571
984.346
1162.62
1234.87
1360.36
Myanmar
3.2211
3.0600
3.0888
3.1509
3.2729
3.9055
4.1483
4.3004
Malaysia
45.1097
43.3131
42.2288
42.4462
44.3952
45.5028
47.4925
50.4037
Philippines
1.3635
1.2578
1.2497
1.2513
1.2671
1.3748
1.3815
1.3809
Singapore
31.6857
30.4917
31.0831
30.7260
32.4798
34.2477
35.2964
33.9398
Thailand
18612.9
20509.8
20828.0
20933.4
21148.0
21697.6
21935.0
22370.1
Vietnam
(Nguồn: Ngân hàng Thế giới)
PHỤ LỤC 6
KẾT QUẢ HỒI QUY MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Mô hình Pooled OLS của các nước Đông Nam Á và Đông Á.
Mô hình FEM.
Mô hình REM.
Kiểm định Hausman (lựa chọn giữa REM và FEM).
Kiểm định Breusch-Pagan Lagrangian (lựa chọn giữa Pooled OLS và REM).