Tài liệu kinh tế thị trường
lượt xem 111
download
Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến đến sự tồn tại và phát triển của nhiều quốc gia dân tộc. Vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong thập kỷ qua.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tài liệu kinh tế thị trường
- Nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng lớn đến sự tốn tại và phát triển của từng quốc gia từng dân t ộc. Vấn đ ề nhà nước và th ị tr ường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu kinh tế trong nhiều thập kỉ qua, do đó vi ệc tìm tòi mô hình quản lý kinh t ế thích h ợp và có hiệu quả hơn là vấn đề mà nhà nước ta và nhiều nước trên thế giới quan tâm. Xây dựng nền kinh t ế thị tr ường đ ịnh hướng xã h ội ch ủ nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta. Trong những năm qua, nh ờ có đ ường l ối đ ổi m ới đúng đắn của Đảng và nhà nước. I – Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ? 1- Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát tri ển nh ất đ ịnh của văn minh nhân lo ại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân t ố quyết đ ịnh s ự t ồn t ại và phát tri ển c ủa ch ủ nghĩa t ư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát tri ển ti ềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát tri ển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh t ế th ị tr ường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước t ư bản phát tri ển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuy ết t ật t ừ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển của l ực l ượng s ản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính b ất công và b ất ổn c ủa xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong đi ều ki ện toàn cầu hóa hi ện nay, nó còn ràng bu ộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói, n ền kinh t ế th ị tr ường t ư bản chủ nghĩa toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một s ố t ập đoàn xuyên quốc gia đ ối với đa s ố các n ước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo. Chính vì thế mà, như C. Mác đã phân tích và dự báo, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường ch ỗ cho một phương thức s ản xu ất và ch ế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, t ự thích nghi bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “chủ nghĩa t ư bản xã hội”, “ch ủ nghĩa t ư b ản nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”…, tức là phải có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước và cũng ph ải chăm lo v ấn đ ề xã h ội nhi ều h ơn, nh ưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ t ạm thời xoa d ịu đ ược ch ừng nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang ngày càng thể hi ện xu hướng t ự ph ủ đ ịnh và t ự ti ến hóa để chuẩn bị chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hóa. Đây là t ất yếu khách quan, là quy lu ật phát tri ển c ủa xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng l ại ở kinh t ế thị tr ường t ư bản ch ủ nghĩa. 2 – Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hi ện đ ại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hi ện thực ở Liên Xô đã đ ạt đ ược nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có l ẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng đ ộng, k ịp thời đi ều chỉnh khi cần thi ết cho nên rút cuộc đã không thành công. Thực ra, khi mới vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau Cách mạng Tháng M ười, V.I.Lê-nin cũng đã từng chủ trương không áp dụng mô hình kinh tế thị trường mà thực hiện “chính sách cộng s ản thời chi ến”. Nhưng chỉ sau m ột th ời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiện “chính sách kinh t ế mới” (NEP) mà n ội dung c ơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận ở mức độ nhất định cơ chế thị trường. Theo V.I.Lê-nin, đ ể xây d ựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hóa – ti ền t ệ và phát tri ển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để phát tri ển l ực l ượng s ản xuất. Tuy ch ỉ mới th ực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát tri ển n ền kinh t ế b ị chi ến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng, tư t ưởng của V.I.Lê-nin về xây d ựng ch ủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiện sau khi Người qua đời. Sự thành công và s ự phát tri ển m ạnh mẽ su ốt m ột th ời gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hóa đất nước bằng mô hình kinh t ế dựa trên ch ế đ ộ công h ữu v ề t ư li ệu s ản xu ất, kế hoạch hóa tập trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh t ế hàng hóa, kinh t ế thị tr ường bị loại b ỏ đã có s ức h ấp d ẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước đang phát tri ển tuy ệt đ ối hóa, bi ến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giới lý luận ở một s ố nước cũng cảm thấy có cái gì “ch ưa ổn”, cũng đã đưa ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội thị tr ường”,… nhưng không đ ược ch ấp nhận. Vào cuối những năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế, khuyết tật của mô hình kinh tế Xô-viết bộc l ộ ra r ất rõ cộng với s ự yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã h ội ở Liên Xô và các n ước Đông Âu r ơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó mu ốn thay đ ổi tình hình b ằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “tư duy chính trị mới”, họ đã phạm sai l ầm nghiêm tr ọng cực đoan, phi ến di ện ( ở đây ch ưa nói tới sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại thâm hiểm của các thế l ực thù đ ịch), dẫn t ới s ự tan rã c ủa Liên Xô và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cu ối nh ững năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hình kinh t ế cứng nh ắc phi thị tr ường, mặc dù những khuyết tật đó không phải là nguyên nhân tất yếu dẫn đến sự sụp đổ. 3 – Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đ ời thiêng liêng c ủa c ả dân t ộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi l ớn và cực kỳ hệ tr ọng, mu ốn tr ả l ời th ật không đ ơn gi ản. Su ốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ki ểu Xô-vi ết, mô hình kinh t ế k ế ho ạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng đ ược yêu c ầu c ủa th ời kỳ đ ất n ước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đ ạo cũng phạm ph ải một s ố sai l ầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành đ ộng đ ơn gi ản, nóng vội, không tôn tr ọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Vi ệt Nam, Đ ại h ội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn di ện đ ất nước nhằm thực hi ện có hi ệu quả h ơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới về con đ ường, ph ương pháp xây dựng ch ủ nghĩa xã h ội, đ ặc bi ệt là quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nh ận s ự t ồn t ại khách quan c ủa s ản xu ất hàng hóa và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng đ ịnh chuy ển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đ ại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi tr ọng vi ệc k ết hợp l ợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức mới về chính sách xã h ội. Đ ại h ội VI là m ột c ột m ốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đ ường đi lên ch ủ nghĩa xã
- hội ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghi ệm, suy tư, đấu tranh tư tưởng r ất gian khổ, k ết tinh trí tu ệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân trong nhiều năm. Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), khóa VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan đi ểm phát tri ển nền kinh t ế hàng hóa có k ế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành ph ần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đến Đại hội VII (tháng 6-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ tr ương này và khẳng đ ịnh đây là ch ủ tr ương chi ến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo c ơ ch ế th ị tr ường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận mới r ất quan tr ọng: “S ản xu ất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, t ồn t ại khách quan c ần thi ết cho công cu ộc xây d ựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh t ế hàng hóa, c ơ ch ế th ị tr ường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) mới chính thức đ ưa ra khái ni ệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” . Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chi ến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Vi ệt Nam. Đây là k ết qu ả sau nhi ều năm nghiên cứu, tìm tòi, tổng kết thực tiễn; và là bước phát triển mới về t ư duy lý luận của Đ ảng C ộng s ản Vi ệt Nam. II – Bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan gi ữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đ ại ngày nay. Đ ảng C ộng s ản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút t ừ kinh nghi ệm phát tri ển kinh t ế th ị tr ường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, đ ể đ ưa ra ch ủ tr ương phát tri ển n ền kinh t ế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu t ừng bước quá đ ộ lên chủ nghĩa xã h ội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội . Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến”, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh t ế thị tr ường t ự do theo ki ểu t ư bản ch ủ nghĩa, cũng không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; và cũng chưa hoàn toàn là kinh t ế th ị tr ường xã h ội ch ủ nghĩa, b ởi vì như trên đã nói, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có vừa chưa có đ ầy đ ủ các y ếu t ố c ủa ch ủ nghĩa xã h ội. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao đ ộng, cải ti ến k ỹ thu ật – công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải, góp phần làm giàu cho xã hội và c ải thi ện đ ời s ống nhân dân; đ ồng th ời ph ải có những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, như chạy theo l ợi nhuận đ ơn thuần, cạnh tranh kh ốc liệt, bóc lột và phân hóa giàu nghèo quá đáng, ít quan tâm giải quyết các vấn đ ề xã hội. Đây cũng là sự lựa chọn tự giác con đường và mô hình phát triển trên cơ sở quán triệt lý luận Mác – Lê-nin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và v ận dụng sáng t ạo vào đi ều ki ện c ụ th ể của Việt Nam. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Vi ệt Nam là một ki ểu t ổ ch ức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và đ ược dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên t ắc và b ản ch ất c ủa chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh t ế th ị tr ường đ ịnh h ướng xã h ội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có s ự quản lý của Nhà nước nhằm m ục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực l ượng s ản xu ất, phát tri ển kinh t ế đ ể xây d ựng c ơ s ở v ật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng s ản xuất hi ện đ ại g ắn li ền với xây dựng quan h ệ sản xuất mới, tiên tiến. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh t ế, trong đó kinh t ế nhà n ước gi ữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững ch ắc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh t ế b ằng chi ến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, và bằng cả sức mạnh vật chất của l ực l ượng kinh t ế nhà nước; đ ồng th ời s ử d ụng c ơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh t ế thị tr ường đ ể kích thích s ản xu ất, gi ải phóng s ức s ản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ l ợi ích của nhân dân lao đ ộng, c ủa toàn thể nhân dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao đ ộng và hi ệu quả kinh t ế, đ ồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc l ợi xã hội. Tăng tr ưởng kinh t ế g ắn li ền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát tri ển. Tăng tr ưởng kinh t ế đi đôi v ới phát tri ển văn hóa và giáo d ục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao dân trí, giáo dục và đào t ạo con ng ười, xây d ựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Cũng có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuy ển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng t ới chế đ ộ xã hội mới – xã hội xã h ội ch ủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức, có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đ ược đ ịnh h ướng cao về mặt xã hội, hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường, nhằm phục vụ t ốt nhất l ợi ích của đ ại đa s ố nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện t ư duy, quan ni ệm của Đ ảng Cộng s ản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá đ ộ đi lên ch ủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; rằng chủ nghĩa xã hội và kinh t ế th ị tr ường không th ể dung hợp với nhau, nếu đem “ghép” định hướng xã hội chủ nghĩa vào kinh tế thị trường thì chẳng khác nào trộn dầu vào nước, tạo ra một cơ thể “đầu Ngô mình Sở”. Theo chúng tôi, ý kiến này không đúng. Không đúng là vì, hoặc ý ki ến này mu ốn trì kéo Vi ệt Nam trong quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa, không muốn Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là điều trái với quy luật khách quan, không thể chấp nhận. Hoặc ý kiến này không thoát ra đ ược khỏi t ư duy cũ, đ ồng nh ất kinh t ế th ị trường với chủ nghĩa tư bản, cho kinh tế thị trường là cái riêng có của chủ nghĩa t ư bản, t ừ đó “dị ứng” với kinh t ế th ị tr ường, không thấy hết những yếu tố mới, xu hướng mới của kinh tế thị trường trong điều kiện mới của thời đại, l ặp l ại sai l ầm của một thời tr ước đây. Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ biến của kinh tế thị tr ường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân, nghi ngờ về những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó ch ưa tin là kinh t ế
- thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là nền tảng, kinh tế quốc doanh là ch ủ đ ạo; r ằng trong kinh t ế th ị tr ường không thể có kế hoạch, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không thể khắc phục được những tiêu cực, mặt trái c ủa c ơ ch ế th ị tr ường, v.v.. Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng, việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là tr ở v ề v ới ch ủ nghĩa t ư bản, có thêm định ngữ “định hướng xã hội chủ nghĩa” thì cũng chỉ là để cho yên lòng, cho có vẻ “giữ vững lập trường” mà thôi, tr ước sau gì thì cũng trượt sang con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng tôi cho rằng, những băn khoăn này là dễ hiểu, bởi vì đây là những điều còn r ất mới mẻ, chưa có ti ền l ệ, n ếu không xác đ ịnh rõ n ội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đ ối với nền kinh t ế thị tr ường thì nh ững điều đó rất dễ xảy ra. Chúng tôi còn phải vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghi ệm. Nhưng có đi ều cần khẳng đ ịnh là: trong đi ều ki ện m ới của thời đại ngày nay, nhất định không thể duy trì mãi mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, không thể đ ồng nhất kinh t ế th ị trường với chủ nghĩa tư bản. Chính C.Mác đã phê phán sự lầm lẫn giữa kinh tế hàng hóa với kinh t ế t ư bản chủ nghĩa của phái kinh t ế học tầm thường. C.Mác khẳng định rằng : “… sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa là những hiện tượng thuộc về nhi ều phương thức sản xuất hết sức khác nhau, tuy rằng quy mô và tầm quan trọng của chúng không giống nhau… Chúng ta hoàn toàn chưa bi ết m ột tí gì về những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất ấy và chúng ta chưa thể nói gì về những phương thức ấy, nếu như chúng ta chỉ biết có những phạm trù trừu tượng của lưu thông hàng hóa, những phạm trù chung cho t ất cả các phương thức ấy” (1). Phải chăng việc nhận thức cho đúng và nói cho được những đặc điểm riêng của những phương thức sản xuất đặc thù ấy là trách nhi ệm mà C.Mác giao cho và gửi gắm các thế hệ ngày nay? Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự tr ở về với phương thức chuy ển nền kinh t ế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là ph ải chuyển sang nền kinh t ế hi ện đ ại, văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát tri ển và các đi ều ki ện l ịch s ử c ụ th ể của thời đại và của những nước đi sau, cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ng ắn đ ược con đ ường đi c ủa mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ ch ế: kế hoạch và thị trường. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kiểu tổ chức kinh t ế đ ặc bi ệt, vừa tuân theo nh ững nguyên t ắc và quy luật của hệ thống kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính tính chất, đ ặc tr ưng c ơ b ản này chi phối và quyết định phương tiện, công cụ, động lực của nền kinh tế và con đường đạt tới mục tiêu, là s ử dụng kinh t ế thị tr ường, nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát tri ển khoa học và công ngh ệ, phát tri ển ngu ồn nhân l ực, m ở c ửa và hội nhập nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn đ ể trong khoảng thời gian không dài có th ể khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghi ệp theo hướng hi ện đ ại. III – Làm thế nào để phát triển được kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ? Đây là một câu hỏi lớn mà muốn trả lời được đầy đủ và chính xác phải qua từng bước thử nghi ệm, t ổ chức thực hi ện trong th ực t ế r ồi đúc rút, bổ sung, hoàn chỉnh dần. Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh t ế Vi ệt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đ ất nước. Kinh t ế ra khỏi tình tr ạng kh ủng ho ảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhi ều, hàng hóa ngày càng phong phú. Đ ời s ống nhân dân t ừng b ước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế gi ới mà còn có bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 7% /năm. Nông nghi ệp phát tri ển liên t ục, đ ặc bi ệt là v ề s ản xu ất l ương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. H ệ thống k ết cấu hạ t ầng đ ược tăng c ường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh t ế quốc t ế không ng ừng đ ược mở r ộng,… Tuy nhiên, cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu c ầu phát tri ển trong th ời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Vi ệt Nam như sau: 1 – Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh t ế nhi ều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị tr ường đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát tri ển lâu dài, h ợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành ph ần kinh t ế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho s ự phát tri ển kinh t ế, là l ực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh t ế. Doanh nghi ệp nhà nước gi ữ nh ững v ị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu g ương về năng suất, chất l ượng, hi ệu qu ả kinh t ế – xã h ội và ch ấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đ ể tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghi ệp nhà nước theo hướng xóa bao c ấp; doanh nghi ệp th ực s ự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhi ệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hi ện t ốt quy ch ế dân ch ủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên s ở h ữu c ủa các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghi ệp nhỏ và vừa, không gi ới h ạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh t ế hộ nông thôn. Nhà nước giúp h ợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các qu ỹ hỗ tr ợ phát tri ển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đ ỡ phát tri ển, bao g ồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghi ệp hoặc phát tri ển l ớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát tri ển trên những đ ịnh h ướng ưu tiên c ủa Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho ng ười lao đ ộng; liên doanh, liên k ết v ới nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và ng ười lao đ ộng. Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi tr ường kinh t ế và pháp lý đ ể thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh t ế t ư bản t ư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đ ầu t ư kinh t ế. Chú tr ọng các hình th ức t ổ ch ức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát tri ển mạnh hình th ức t ổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. 2 – Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh t ế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất l ượng, hi ệu quả, khả năng cạnh tranh ch ưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đ ẩy mạnh vi ệc hình thành các loại th ị
- trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn s ơ khai như: thị tr ường lao đ ộng, th ị tr ường ch ứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao s ức mua c ủa th ị tr ường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị tr ường quốc t ế. H ạn chế và ki ểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị tr ường, tri ệt đ ể xóa bỏ bao c ấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đ ấu tranh có hi ệu quả ch ống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghi ệp cạnh tranh và hợp tác đ ể phát tri ển; b ằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước đ ể đ ịnh hướng phát tri ển kinh t ế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đ ối vĩ mô nền kinh t ế, đi ều ti ết thu nh ập; ki ểm tra, thanh tra m ọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian l ận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đ ặc bi ệt coi tr ọng vi ệc xây d ựng và hoàn thi ện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất l ượng công tác xây d ựng các chi ến l ược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh t ế – xã hội trong nước và qu ốc t ế, công tác k ế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, ki ểm tra tình hình th ực hi ện ở c ả c ấp vĩ mô và doanh nghiệp. 3 – Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Đi ều đó chẳng những t ạo đ ộng l ực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuy ến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều vi ệc làm mới. Chăm lo cải thi ện đi ều ki ện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghi ệp cho ng ười lao đ ộng. Từng bước mở r ộng h ệ th ống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho ng ười lao đ ộng thất nghi ệp. C ải cách c ơ b ản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm vi ệc gi ỏi, khắc ph ục tình tr ạng l ương và tr ợ c ấp b ất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Tiếp tục thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha m ẹ, v ợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước ph ải chịu nhi ều hậu quả sau 30 năm chi ến tranh. Đ ồng th ời đ ẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài tr ừ các t ệ nạn xã h ội, nh ất là t ệ n ạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đ ấu tranh với t ệ tham nhũng, h ối l ộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái c ủa c ơ ch ế th ị tr ường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng l ực quản lý của Nhà nước pháp quy ền xã h ội ch ủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 4 – Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong nh ững bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng ph ải tăng cường và đ ổi mới s ự lãnh đ ạo c ủa Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là l ập t ức t ạo đi ều ki ện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, cướp chính quyền, đ ưa đ ất nước đi con đ ường khác. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận đ ộng theo quy luật giá tr ị, quy lu ật cung c ầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đ ạo của Đ ảng nhi ều khi cản tr ở, làm “v ướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này không đúng và thậm chí rất sai l ầm. Bởi vì như trên đã nói, Vi ệt Nam ch ủ tr ương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đ ạo, hướng dẫn, đi ều ti ết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Ng ười có kh ả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý t ưởng xã hội ch ủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao đ ộng. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh t ế nói riêng, b ảo đ ảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh t ế chẳng những có t ốc đ ộ tăng tr ưởng và năng su ất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, t ức là hạn ch ế đ ược b ất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ s ở đ ường l ối, chi ến l ược đó, Đ ảng lãnh đ ạo toàn b ộ h ệ th ống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhi ệm vụ đã đ ề ra. Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính tr ị, t ư t ưởng và t ổ ch ức, g ắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hi ện nay, đ ội ngũ cán bộ, đ ảng viên c ủa Đ ảng ph ải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có ki ến thức, gi ữ gìn đ ạo đ ức cách m ạng và l ối s ống lành m ạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đ ảng và trong bộ máy c ủa Nhà n ước. Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát ki ến về mặt lý luận của chủ nghĩa xã hội, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát tri ển trong th ực ti ễn mang tính cách m ạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình t ất yếu phù hợp với quy lu ật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, ch ưa có ti ền l ệ, phải vừa làm v ừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, t ổng k ết, làm sáng t ỏ. Ch ẳng h ạn nh ư: các v ấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghi ệp nhà nước ra sao đ ể nó đóng đ ược vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh t ế còn thấp kém; vấn đ ề b ản ch ất giai c ấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường s ức mạnh và hi ệu l ực của Nhà nước xã h ội ch ủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v.. Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đ ường đi lên ch ủ nghĩa xã h ội phù h ợp v ới điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay. (1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen : Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, t 23, tr 175 Bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Trần Xuân Trường Vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã được làm rõ dần qua các kỳ đ ại hội Đ ảng, đặc biệt là qua Đại hội IX. Trong bài viết này, tôi xin bổ sung và lý giải thêm vài đi ểm.
- 1 - Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ s ản xuất. Phải đ ạt đ ến một trình đ ộ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp, mới có s ản phẩm dư thừa đ ể trao đ ổi. Cũng ph ải trong những quan hệ xã hội như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh t ế: ng ười s ản xuất hàng hóa phải mang s ản ph ẩm dư thừa ra thị trường; kẻ mua và người bán trao đổi sản phẩm với nhau trên thị trường. Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao giờ tự sản sinh ra một hệ thống quan hệ s ản xu ất đ ầy đ ủ, đ ộc lập với các phương thức sản xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ thống các quan hệ s ản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối của t ừng ph ương thức s ản xuất trong l ịch s ử. S ự gắn bó đó chặt chẽ đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hóa của xã hội nô l ệ; nền kinh t ế hàng hóa gi ản đ ơn trong lòng xã hội phong kiến. Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, tr ở thành kinh t ế thị trường tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh t ế thị tr ường và của chủ nghĩa t ư bản thâm nh ập vào nhau thành một thể thống nhất. Điều đó gây nên rất nhiều sự nhầm lẫn của kinh t ế học t ầm thường. Chỉ có s ự tr ừu t ượng hóa khoa học của những người mác-xít mới phân tích được bản chất và đặc điểm của kinh t ế thị tr ường của t ừng phương thức s ản xu ất trong l ịch sử. 2 - Cho đến nay, nhân loại mới chỉ biết đến nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa như là nền kinh tế phát triển ở trình độ cao. Nhân loại chưa biết đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bởi vì ở nơi mà chủ nghĩa xã hội hi ện th ực đã ra đ ời thì l ại không phát triển thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; còn ở nơi phát triển nền kinh t ế thị tr ường đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa thì ch ủ nghĩa xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá đ ộ lên chủ nghĩa xã hội ở n ước ta. Đây là một đi ểm đột phá lý luận, một mô hình thực tiễn đang trong quá trình thử nghiệm, là s ự phủ đ ịnh con đ ường xây dựng chủ nghĩa xã h ội t ập trung, quan liêu, bao cấp. Đương nhiên, đó không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, tuy r ằng nó có thể học hỏi nhi ều đi ều t ừ n ền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất kinh t ế khác v ới n ền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá đ ộ lên chủ nghĩa xã h ội ở Vi ệt Nam. Bàn về bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là bàn về bản chất c ủa những thành ph ần kinh tế của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Những thành phần kinh t ế đó t ạo thành cơ s ở kinh t ế c ủa đ ịnh h ướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Ở đây, có một câu hỏi đặt ra: Phải chăng đ ịnh hướng chính tr ị quy đ ịnh b ản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và chính tr ị của cách mạng Vi ệt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề không đơn giản chút nào. Chắc ch ắn r ằng, trong thời kỳ quá đ ộ ở Vi ệt Nam, chính tr ị phải đóng vai trò hàng đầu và chi phối toàn bộ sự phát triển của đất nước, kể cả sự phát tri ển kinh t ế. Con đ ường chính tr ị xã h ội ch ủ nghĩa là một tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam trong thời đại cả loài ng ười vẫn ti ếp t ục vượt qua ch ủ nghĩa t ư b ản, đi lên chủ nghĩa xã hội theo cách này hay cách khác, cho dù tr ước mắt còn g ặp vô vàn khó khăn. Tuy nhiên, đ ịnh h ướng xã h ội ch ủ nghĩa c ủa nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở nước ta không phải chỉ do định hướng chính trị chi phối, mà còn đ ược chi phối b ởi c ơ s ở kinh tế bên trong, được bảo đảm bởi một kết cấu kinh tế mà trong quá trình vận động, t ự nó có xu hướng xã hội ch ủ nghĩa, và do đó, nó làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh lên. Vậy cái gì là nhân t ố xã hội ch ủ nghĩa trong n ền kinh t ế nhi ều thành ph ần ở nước ta? Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Khi lý giải mối quan hệ gi ữa các hình thức s ở hữu đó, vi ệc lý gi ải m ối quan hệ giữa hình thức công hữu và hình thức tư hữu, đặc biệt là hình thức t ư hữu t ư bản ch ủ nghĩa, là ph ức t ạp nh ất v ề m ặt lý lu ận và thực tiễn. Cách giải thích rằng, chỉ có hình thức công hữu mới mang bản chất xã hội chủ nghĩa, cho nên vi ệc nhanh chóng m ở r ộng hình th ức công hữu, thu hẹp hình thức tư hữu là thực hiện yêu cầu định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh t ế thị tr ường là không đúng v ới lý lu ận Mác - Lê-nin và đường lối chính trị, kinh tế của Đảng ta trong thời kỳ quá đ ộ. Đ ại hội IX của Đ ảng xác đ ịnh: Ch ế đ ộ công h ữu s ẽ t ừng bước được xác lập và "sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản" (1). Nhưng, từ nay đến đấy còn xa, hình thức sở hữu tư nhân còn tồn tại lâu dài và còn đóng vai trò tích cực trong nền kinh t ế th ị tr ường n ước ta. Đ ể hình th ức công h ữu tiến lên chiếm ưu thế tuyệt đối, chắc chắn phải làm cho nó tiến triển một cách kinh t ế, như một quá trình l ịch s ử t ự nhiên, ch ứ không bằng biện pháp hành chính. Lại có cách giải thích xóa nhòa ranh giới giữa hình thức công hữu và hình thức t ư hữu, hầu như coi các thành ph ần kinh t ế đ ều có cùng một bản chất xã hội chủ nghĩa. Ở đây, người ta đã lạm dụng luận đề trong Văn kiện Đại hội IX của Đ ảng: Các thành ph ần kinh t ế "đ ều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" (2). Kinh tế tư bản tư nhân là một bộ phận tích cực, năng động trong nền kinh tế quốc dân nước ta, tồn tại lâu dài và phục vụ định hướng xã hội chủ nghĩa, song đi ều đó không có nghĩa là nó không còn là kinh tế tư bản chủ nghĩa nữa. Phân tích một cách lịch sử cụ thể, chúng ta thấy kinh tế tư bản của thời kỳ đổi mới ở nước ta là s ản ph ẩm c ủa đ ường l ối đ ổi mới c ủa Đảng ta. Nó không hoàn toàn giống với kinh tế tư bản của chủ nghĩa tư bản. Theo một nghĩa nào đ ấy, trong xã hội ta hi ện nay v ẫn có mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa lao động và bóc lột, nhưng đó là những mâu thuẫn có thể gi ải quy ết đ ược một cách êm th ấm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, chúng ta có thể yên tâm thực hiện nhất quán một chính sách tích c ực, cách m ạng đ ối v ới kinh t ế t ư bản chủ nghĩa. Cần lãnh đạo và quản lý chặt chẽ, khắc phục mặt tiêu cực của thành phần kinh t ế này, nhưng không hạn ch ế, phân bi ệt đối xử, mà phải khuyến khích, tạo điều kiện cho nó phát triển. Đương nhiên, không nên phi ến diện, một chi ều trong vi ệc đánh giá vai trò của các tầng lớp đại diện cho thành phần kinh tế này, nhất là đánh giá vai trò của họ cao hơn vai trò c ủa nh ững giai c ấp và t ầng l ớp đang là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm thế nào để kinh t ế nhà nước thực s ự đóng vai trò ch ủ đ ạo trong n ền kinh t ế qu ốc dân là một vấn đề lớn cần được bàn luận nhiều, để qua đó, có biện pháp hữu hiệu trong vi ệc củng cố và hoàn thi ện nó. Hi ện nay, c ần chống định kiến xấu với kinh tế tư nhân, nhưng cũng cần chống định kiến xấu với kinh tế nhà nước. Có thể khẳng đ ịnh r ằng, chỉ cần bảo đảm cho kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể là nền t ảng của nền kinh t ế quốc dân, và Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, thì việc phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh t ế theo hình th ức s ở h ữu t ư nhân sẽ phục vụ cho chủ nghĩa xã hội, đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá đ ộ ở nước ta hi ện nay. Như vậy, khi trả lời câu hỏi, cái gì là nhân tố xã hội chủ nghĩa trong nền kinh t ế hàng hóa nhi ều thành ph ần?, thì ph ải th ật s ự phân bi ệt được đâu là chế độ công hữu, đâu là chế độ tư hữu, không thể xóa nhòa ranh giới giữa chúng, và ph ải xem xét m ối quan h ệ gi ữa chúng một cách biện chứng. Chế độ công hữu dưới hình thức kinh tế nhà nước hiện nay là tiêu bi ểu cho nhân t ố xã h ội ch ủ nghĩa c ủa n ền kinh tế thị trường nước ta. Tuy nhiên, nhân tố đó không tồn tại biệt lập, mà đan xen, xâm nhập vào các thành phần kinh t ế khác, t ạo nên những mầm mống xã hội chủ nghĩa trong lòng các thành phần kinh tế tư nhân; thông qua những hình thức kinh t ế quá đ ộ c ủa ch ủ nghĩa tư bản nhà nước. 3 - Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ khác kiểu với nền kinh t ế thị tr ường t ư bản chủ nghĩa th ế giới mà còn khác về trình độ phát triển; nền kinh tế thị trường nước ta còn sơ khai, gi ản đ ơn, trong khi nền kinh t ế th ị tr ường th ế gi ới đã
- ở trình độ phát triển cao, hiện đại. Chúng ta cần nhanh chóng hội nhập nền kinh t ế thị tr ường nước ta vào nền kinh t ế th ị tr ường th ế giới, bởi vì càng hội nhập nhanh chóng bao nhiêu thì chúng ta càng s ớm có chủ nghĩa xã h ội b ấy nhiêu. C ần l ưu ý r ằng, trong lĩnh v ực kinh tế thị trường, cũng có quy luật phát triển rút ngắn, đi tắt, đón đầu. Từ nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, xét từ góc đ ộ kinh t ế hàng hóa là t ừ kinh t ế hàng hóa giản đơn của những người sản xuất nhỏ tiến tới hội nhập với nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa hiện đại, phát tri ển. Ở đây, chúng ta gặp lại vấn đề từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, nhưng theo tư duy mới, theo con đ ường kinh t ế thị tr ường. Chúng ta s ẽ đi từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế hàng hóa lớn mang bản chất xã hội chủ nghĩa, nhưng ti ếp thu, học t ập và s ử dụng t ối đa các thành tựu của nền kinh tế hàng hóa lớn tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế giới còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh... Vì sao vậy? Có nhi ều lý do, nh ưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta chưa thật sự trở thành nền kinh t ế hàng hóa l ớn. L ấy vi ệc xuất khẩu nông, thủy s ản làm ví dụ. Cơ sở sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung còn lạc hậu, trong khi thị trường quốc t ế l ại khó tính, đòi hỏi r ất cao về chất lượng, quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ sản xuất lớn, hiện đ ại thì nền kinh t ế thị tr ường nước ta s ẽ không thể khắc phục được sự lạc hậu. Chúng ta sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên s ản xuất l ớn xã hội chủ nghĩa ki ểu t ập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây dựng những tổ hợp sản xuất, ch ế bi ến quy mô l ớn nào đ ấy chuyên đ ể xu ất kh ẩu là cần thiết, nhưng sản xuất lớn không có nghĩa là quy mô mọi thứ phải lớn. Con đường đi lên s ản xuất l ớn của chúng ta hi ện nay là con đường thị trường, một con đường mà chúng ta phải tìm tòi, khai phá ra. Vẫn là kinh t ế gia đình, nhưng nếu bi ết bi ến các c ơ s ở nh ỏ l ẻ của nó thành những mắt khâu của nền kinh tế thị trường lớn, một nền kinh tế có sự liên k ết các cơ s ở s ản xuất, khoa học và qu ản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và nhỏ thành một hệ thống thống nhất để tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất l ượng và s ức cạnh tranh cao, thì đó chính là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường hiện đại. Nền kinh tế hàng hóa nhỏ Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường lớn, hiện đại là một vấn đ ề của l ực l ượng s ản xuất, đ ồng th ời cũng là một vấn đề của quan hệ sản xuất. Hiện nay, chế độ công hữu được thực hiện ở kinh t ế nhà nước, kinh t ế t ập thể và một ph ần ở các thành phần kinh tế khác khi liên doanh với kinh tế nhà nước. Vậy trong nền kinh t ế thị tr ường hi ện đ ại Vi ệt Nam đ ịnh h ướng xã h ội chủ nghĩa, khi có sự liên kết tất cả các cơ sở kinh tế, kể cả kinh tế gia đình, thành một hệ thống kinh t ế l ớn; khi công nghệ thông tin làm cho việc lao động tại gia đình trở thành một hình thức lao động hiện đại; khi s ở hữu cá nhân c ủa ng ười lao đ ộng mà C. Mác nói đ ến không còn chỉ là những tư liệu tiêu dùng... thì liệu chúng ta có thể nghĩ đ ến những hình thức mới c ủa ch ế đ ộ công h ữu? Nh ững ng ười mác-xít cần đặt cho mình nhiệm vụ đa dạng hóa chế độ công hữu. Tư duy biện chứng không cho phép chúng ta d ựng m ột hàng rào siêu hình giữa chế độ công hữu và chế độ tư hữu, mà phải tìm tòi những hình thức kinh tế quá đ ộ gi ữa chế đ ộ t ư hữu và chế đ ộ công h ữu, làm cho chế độ công hữu trở thành một hệ thống các hình thức quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa sinh đ ộng, sáng t ạo trên con đ ường hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. (1) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 87 (2) Văn kiện đã dẫn, tr 96
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
14 p | 689 | 186
-
Bài giảng - Chương V -Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
44 p | 605 | 151
-
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN
5 p | 395 | 86
-
Chương XI: Kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
28 p | 263 | 55
-
Mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường
0 p | 167 | 52
-
GIÁO TRÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG - Chính phủ trong nền kinh tế thị trường
20 p | 238 | 40
-
tài liệu về kinh tế thị trường
8 p | 177 | 35
-
Kinh tế thị trường xã hội - Từ điển tường giải: Phần 1
239 p | 107 | 22
-
Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
42 p | 133 | 19
-
GIÁO TRÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG - Hệ thống các thị trường
6 p | 134 | 18
-
Kinh tế thị trường xã hội - Từ điển tường giải: Phần 2
230 p | 115 | 18
-
GIÁO TRÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG - Người lao động trong nền kinh tế thị trường
11 p | 161 | 18
-
Quá trình phát triển tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta
3 p | 126 | 17
-
Phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế - Nguyễn Đình Tấn
0 p | 281 | 15
-
Tài liệu về Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
26 p | 98 | 13
-
Về vấn đề Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
9 p | 122 | 10
-
Nhà ở đô thị trong nền kinh tế thị trường của thế giới thứ ba: Giới thiệu tài liệu
5 p | 90 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn