Tin Ch Nghĩa Tư Bản và Kinh Tế
Tiền Tư Bản
Đối với vấn đề thúc ép người dân đi làm, cũng giống như Mun,
Petty ít tàn bạo hơn trong việc yêu cầu phải trả tiền lương ở mức
thấp và dĩ nhiên chính cái nghèo buộc con người ta phải đi làm.
Ông ta cho rằng nếu mức lương quá cao thì tht sự người ta sẽ
không đi làm "khi mà ngô bắp vô cùng thừa thải, tầng lớp lao
động nghèo thì cũng ít đi: và tất yếu là không xãy ra tình trạng
khan hiếm (đến nổi mà con người ta chỉ biết ăn và uống). Ông ta
còn nói một điều phải cẩn trọng cần tránh là tình trạng "làm cho
người ta bội thực, cả về số lượng lẫn chất lượng; và do đó làm
cho con người trở nên không thích lao động".
Mối bận tâm của những người theo thuyết trọng thương đối với
vấn đề tiền tệ không chỉ đơn thuần là gắn với việc tôn thờ vẽ đẹp
quyến rũ của vàng. Nhìn chung h cho rằng chính sự gia tăng
lượng tiền (lệ thuộc vào xuất khẩu vượt mức nhập khẩu) là kích
thích đến nền kinh tế không bằng cách này cũng bằng cách khác.
Những quan nim của phần lớn những người theo Chủ Nghĩa
Trọng Thương về mức tác động của mức cung tiền đến nền kinh
tế là sự gia tăng đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng
thương mại. Càng có nhiều tiền thì dễ dàng xây nhiều công trình
hơn, mua nhiều tàu hơn, có thể chi trả tiền bảo hiểm, cũng như
có thể mua và tr nhiều hàng hoá hơn và tái xuất khẩu, vân
vân…. Không như những người tôn thờ vàng - những người mà
không chịu được tình trạng vàng bđem ra khỏi nước họ - Mun c
gắn đưa ra bài học cơ bản, bạn phải dùng tiền của bạn để làm ra
tiền: " hàng hoá tăng lên được mang đến bằng chính những
phương tiện là nhng đồng tiền mà chúng ta đã bỏ ra trước đó,
và cuối cung mang đến cho ta một giá trị lớn hơn số tiền của ta
đã bỏ ra."
Một hạn chế đối với mức ảnh hưởng tích cực của việc mang tiền
đến cho nền kinh tế trong nước là khi giá ccủa các mt hàng
xuất khẩu tăng lên nó sẽ làm ảnh hưởng xấu đến thương mại.
Mun nhn ra điều này, do đó ông đã không áp dụng nguyên lý
này. Mặc khác, John Locke (1632-1704) - triết gia đảng Whig,
mt thành viên người Anh trong Hội Đồng Thương Mại và Thuc
Địa - đã quan sát và đưa ra lý thuyết rõ ràng hơn về mối quan hệ
này. Ông ta cho rng mức giá của các loại hàng hoá s tỷ lệ với
lượng tiền luân chuyển chúng. Lượng tiền càng nhiều thì mc giá
của các loại hàng hoá đang lưu thông càng cao. Ngược lại, lượng
tiền càng ít thì mc giá càng thấp.
"Giả sử rằng hiện nay ở Anh chúng ta chỉ có phân nửa số tiền
như 7 năm trước, vẫn có lượng sản phẩm hàng hoá hàng năm,
có số lượng công nhân, những người môi giới phân phối hàng
hoá như chúng ta từng có trước đây; và giả sử rằng phần còn lại
của thế giới mà chúng ta đang có mối quan hệ mậu dịch thì
lượng tiền như trước đây, (có thể họ có nhiều hơn vì một nửa số
tiền của chúng ta đã chuyn qua tay của họ rồi), chắc chắn rằng
hoặc một nửa số tiền thuê chúng ta sẽ không được trả, một nửa
lượng hàng hoá không thể bán ra, và một nửa nhân công sẽ thất
nghiệp, và vì vậy một nửa ngành mậu dịch bị thất thoát; hoặc là
mi người trong trường hơp này chỉ nhận đựơc phân nửa số tiền
so với lúc trước cho việc bán hàng hay lao động, và đồng thời
bên những nước láng giềng cũng nhận được một nữa tương tự
với cùng lượng hàng hoá và lao động bỏ ra." (John Locke, Xem
Xét Một Số Hậu Quả Của Việc Hạ Mức Tiền Lãi Và Gia Tăng Giá
Trị Đồng Tiền của John Locke, 1691.)
Khi đưa ra lập luận này, ông đã trở thành một trong những nhà
kiến lập "thuyết định lượng tiền tệ" (Quantity theory of money).
Tuy vậy Locke cũng không đồng tình với quan điểm của Mun khi
ông cho rằng lượng tiền quá nhiều s có thể làm gim khả năng
xuất khẩu và làm giàu của nưc đó.
John Law (1671-1729) cũng là một người theo thuyết trọng
thương, ông cũng đã nhn ra mối quan hệ nhân quả giữa mức
cung tiền và mức gia tăng giá cả nhưng ông chỉ quan tâm đến
những mặt thuận lợi của nó. Trong thời đó ông được biết đến qua
những ý định đầu cơ ch tr của ông như "Kế Hoạch Mississippi"
( tham khảo mục mô t trong tác phẩm cổ điển Những ảo Tưởng
Khác Lạ Thưng Gặp Và SMù Quáng Của Quần Chúng của
Charles Mackay). Ttuy nhiên, chính Law cũng đã cống hiến cho
sự phát triển thuyết tiền tệ. Trong quyển Cân Nhắc Giữa Tiền Và
Thương Mại(1705) (Money and Trade Considered), Law nhấn
mạnh đến việc làm thế nào mà với lượng tiền gia tăng dành cho
đầu tư có thể thúc ép người tam việc, sản xuất nhiều hàng
hơn, cũng như tạo ra nhiều thặng dư hơn từ những mặt hàng
xuất khẩu. Do đó ảnh hưởng chính của mức cung tiền sẽ lệ thuộc
vào những yếu tố sản xuất. Nếu lượng tiền gia tăng đủ để kích
thích sản xuất và sản lượng đạt được nhiều hơn thì nó sẽ bù vào
phần do mức giá tăng lên. Điều này đúng khi Law không quan
tâm đến khuynh hướng tiền tín dụng đang dần thay thế tiền vàng
trong thời của ông. Lưu ý: cách nhìn nhận của ông về hiện trạng
này là tiền tín dụng đang dần trở thành một loại tiền chiếm ưu thế