Tăng trưởng tín dụng âm: bất thường trong bình
thường
Nhìn chung, trong bất k nền kinh tế nào, phảiđầu thì mớităng trưởng.
Vì thế, tín dụng tăng trưởng âm Việt Nam trong những tháng gần đây b xem là
một dấu hiệu bất thường, nhất là khi so sánh với mức tăng trưởng lên đến 30
50% trong những năm trước. Tuy nhiên, nếu xét trong bối cảnh nn kinh tế
Chính ph đang thực hiện các chính sách để tái cấu trúc thì lại có th xem đó
chuyện bình thường trong một giai đoạn nhất định.
Thực ra, như chúng ta đã biết, Chính ph đang hướng tới chuyển đổi chiến lược t
phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu, t s lượng sang chất
lượng và quá trình chuyn đổi không th xảy ra trong một đêm mà cần một khoảng
thời gian nhất định. Với bất k nền kinh tế nào, quá trình chuyển t định hướng
đúng, xây dựng chính sách đúng và thực thi chính sách thành kết qu đều cần
độ trễ. Đặc biệt, quá trình đó phải có giai đoạn giao thời,giai đoạn để điều
chỉnh. Giai đoạn này có th nhanh hoặc chậm ph thuộc vào chất lượng chính
sách, chất lượng thực thi chính sách của Nhà nước và nhất năng lực của các
thành phần DN trong việc t đổi mới để thích nghi với yêu cầu phát triển thực
chất, theo chiều sâu.
Tuy nhiên, DN đang “kêu” rất nhiều?
Không nên nói DN chung chung như vậy mà cần nói c th là những đối tượng
DN nào? Vì k c trong điều kiện kinh doanh bình thường thì vẫn luôn có các DN
“kêu” vấn đề này khác, huống chi là khi Chính ph đang chuyển hướng chính sách
mạnh mẽ, cộng với tình hình chung của nền kinh tế thế giới và trong nước đang
rơi vào giai đoạn khó khăn như hiện nay.
Trong môi trường chính sách chú trọng phát triển v chiều rộng và tốc độ cao như
trước đây, khi mà các DN kinh doanh ngắn hạn, đánh quả, dịch v trung gian mua
bán d án, khai thác chế biến thô tài nguyên… phát triển mạnh và có nhiều lợi
thế, làm ăn phát đạt, thì những DN có ý tưởng đầu phát triển sản xuất dài hạn,
kinh doanh bài bản lại “kêu” gặp nhiều khó khăn. Cũng vì vậy mà nền kinh tế phát
triển không ổn định, thiếu tính bền vững vớinh trạng lm phát tăng cao liên tục
tái diễn, môi trường thiên nhiên b hu hoại, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt…
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và h thống DN chm cải thiện. Vi xuất phát
điểm như vậy, việc điều chỉnh chiến lược phát triểnbắt buộc để tạo ra s tăng
trưởng bền vững.với mục tiêu như vậy, việc thực thi chính sách kiểm soát,
hướng dòng tín dụng vào sản xuất, hạn chế vào phi sản xuất tất nhiên s làm cho
các DN kinh doanh phi sản xut, ngắn hạn, đánh quả, không có nền tảng… ngày
càng tr nên khó khăn, trong khi các DN đầu kinh doanh dài hạn, bài bản để tạo
ra các giá tr gia tăng thực s s ngày càng có điều kiện thuận lợi hơn để phát
triển. Tuy nhiên, như đã nói trên, đâymột quá trình và nó mới đang giai
đoạn giao thời và vì vậy,ràng việc tăng trưởng tín dụng âmquá trình điều
chỉnh sàng lọc.
Có l nào, chính h thống ngân hàng cũng đang chịu h lụy t những khó
khăn của DN?
Đúng vậy, Th nhất, th trường liên ngân hàng bây gi đã đưa lãi suất xuống còn
hơn 1%/năm. th thấy, tình trạng vốn, thanh khoản của các ngân hàng rất tốt,
nhưng điều này lại khiến li nhuận các ngân hàng b bào mòn khi mà lãi sut huy
động rất cao. Không có ngân hàng nào không muốn cho vay, vấn đề đây ch
cân bằng giữa rủi ro và li nhuận. Th hai, bản thân chính sách của ngân hàng
hiện cũng hướng tới việc tái cấu trúc, tức là ch tập trung tín dụng cho các DN có
năng lực cạnh tranh, có sản xuất và có th trường. Thm chí, NHNN còn đưa ra
trần lãi suất cho vay đối với 4 lĩnh vực ưu tiên. Trong khi đó, lãi suất thực ra cũng
là giá của rủi ro mà gi có giá trần, thì đương nhiên, giá trần như vậy ch chấp
nhận với một s loại rủi ro nhất định.
Một vấn đề nữa, nếu xét theo chuẩn của các ngân hàng bình thường và với khống
chế trần lãi suất như hiện nay, không bao gi ngân hàng cho vay những DN mới
thành lập hoặc những DN đang có nhiều khó khăn. Nhưng, nếu ch chọn những
DN đã khẳng định tên tuổi thì cũng khó, bi tất c các NHTM đều tập trung vào
loại DN này. Như vậy, s khó tạo ra những nhân t mới giúp cho nền kinh tế phát
triển năng động, bền vững. Nhưng những nhân t mới đòi hỏi mức độ chấp nhận
rủi ro cao n rất nhiều, mà rủi ro cao hơn thì li nhuận k vọng phải lớn tương
xứng.
Vậy, hướng đi nào s h tr DN một cách thực s và có hiệu qu đối với nền
kinh tế?
Ngoài s n lực, năng động, sáng tạo của các DN thì chắc chắn, thời điểm này,
rất cần có s định hướng và chia s t Chính phủ. Ví dụ, đối với những DN hoạt
động trong các lĩnh vực ngành ngh đặc biệt, cần khuyến khích đầu tư, phát triển
để tạo ra s dịch chuyển nhanh chóng v cấu trúc nền kinh tế theo mục tiêu đề ra,
Chính ph thành lập các qu bảo lãnh tín dụng hoặc thông qua Ngân hàng Phát
triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội đ tạo điều kiện cho các DN này
vay vốn đầu tư. Ngoài ra, Chính ph cầncác chính sách khuyến khích h v
thuế, v phí, v chính sách tín dụng. Nhưng, phi hiểu rằng, đầu vào đây
rủi ro.
Nếu bây gi ch đặt ra một bài toán chung chung cho ngân hàng t x trên s
quan h thương mại thì li quay v đúng quy luật bình thường của th trường. Vi
những DN mới và DN vừa và nh đầu trong lĩnh vc đặc biệt thì có th khống
chế trần, nhưng theo nghĩa là phần vượt trần s được Chính ph bù.