
TÀI SẢN ĐƯỢC TRÌNH BÀY TRÊN
BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN
Tài sản (TS) là một trong ba yếu tố cơ bản được trình bày trên Bảng cân đối
kế toán (BCĐKT). Trên BCĐKT, có những khoản mục phần TS nhưng thực
tế lại không phải là TS nếu căn cứ vào khái niệm. Ngược lại, có những khoản
đủ tiêu chuẩn là TS nhưng lại không được báo cáo trên BCĐKT. Trong bài
báo này, chúng tôi muốn làm rõ khái niệm về TS trong kế toán và đưa ra
những tiêu chuẩn để ghi nhận TS được trình bày trên BCĐKT ngày nay.
Trong chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 (VAS 01), TS được hiểu là những
nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát, có thể thu được lợi ích kinh tế trong
tương lai. Khái niệm TS này có một số điểm cần phải làm rõ:
Thứ nhất : một khoản mục được coi là TS khi nó có thể đem lại lợi ích kinh
tế trong tương lai cho đơn vị kế toán vì lợi ích kinh tế thu được trong tương
lai không thể hoàn toàn chắc chắn mà chỉ là sjư ước đoán hợp lý trên cơ sở
các bằng chứng có sẵn. Lợi ích kinh tế ở đây được hiểu là nguồn lực kinh tế,
tức là nó vừa phải đảm bảo tính khan hiếm vừa đảm bảo đặc tính sử dụng.
Nếu thiếu một trong các điều kiện này, vật đó không được xếp vào là nguồn

lực kinh tế. Đặc tính sử dụng của một khoản nào đó được thể hiện thông qua
khả năng cung cấp dịch vụ của nó trong tương lai hoặc quyền lợi kinh tế
trong tương lai.
Thứ hai : một khoản nào đó được coi là TS khi nó phải được doanh nghiệp
kiểm soát. Kế toán không đề cập đến nguồn lợi ích kinh tế nói chung mà chỉ
liên quan đến nguồn lợi ích do một doanh nghiệp cụ thể kiểm soát. Tính kiểm
soát ở đây được hiểu là quyền sử dụng hoặc kiểm soát một vật nào đó, không
phải là tính sở hữu nó. Điều này lý giải vì sao TS thuê tài chính lại được báo
cáo trên bcdkt của bên thuê cho dù quyền sở hữu nó thuộc về bên cho thuê.
Thứ ba : một khoản nào đó được coi là TS thì bắt buộc phải là kết quả của
nghiệp vụ quá khứ. Điều kiện này là bắt buộc để đảm bảo những TS ngẫu
nhiên không được coi là TS của đơn vị. Nếu một thiết bị đã được đơn vị kế
toán mua thì thiết bị đó là TS của đơn vị đó, nhưng nếu như thiết bị đó sẽ
được đơn vị đó mua thì nó không được báo cáo như là TS của đơn vị.
Như vậy : trong khái niệm kế toán, ba điều kiện cần thiết để một khoản mục
được ghi nhận như là một khoản TS, bao gồm: khả năng cung cấp lợi ích
kinh tế trong tương lai, đựơc đơn vị kế toán cụ thể kiểm soát và kết quả của
nghiệp vụ quá khứ. Tuy nhiên, trong thực tế, có những ngoại lệ, đó là những
khoản không đủ cả ba điều kiện trên vẫn được báo cáo trên BCĐKT và
ngược lại có những khoản đủ điều kiện nhưng lại không được báo cáo trên
BCĐKT.

Những ví dụ về trường hợp ngoại lệ đầu tiên như chi phí phát hành trái phiếu
và chi phí tạo ra sản phẩm hỏng trong định mức cho phép. Những khoản chi
phí này phát sinh không làm nảy sinh lợi ích kinh tế tương lai cho đơn vị kế
toán nhưng vẫn được gộp vào các khoản trả trước thực sự đem lại kinh tế
tương lai cho doanh nghiệp hoặc được vốn hoá và trình bày như những khoản
TS khác.
Một số ví dụ về trường hợp ngoại lệ thứ hai như nguồn nhân lực hoặc một số
khoản Chính phủ nghiên cứu, phát triển. Đây là những khoản thực sự đảm
bảo đủ các điều kiện ghi nhận TS theo khái niệm nhưng toàn bộ hoặc một
phần không được ghi nhận như là TS của đơn vị kế toán.
Một đặc điểm nữa mà các học giả cho rằng muốn một khoản được báo cáo
như là một TS thì bắt buộc nó có khả năng trao đổi được. Theo những học giả
này, nếu như không đảm bảo được điều kiện này thì khoản đó sẽ thiếu tính
giá trị kinh tế do không có khả năng mua và bán, hay nói cách khác là không
tồn tại thị trường cho những khoản này. TS bị ảnh hưởng quan điểm này lớn
nhất là lợi thế thương mại vì nó không thể được bán một cách riêng biệt tách
hẳn ra khỏi TS khác của doanh nghiệp. Tuy nhiên, gần đây nhiều nhà học giả
và trong thực tế thiên hướng về quan điểm cho rằng lợi thế thương mại do
đơn vị kế toán mua cần được báo cáo như là một khoản TS trên BCĐKT.
Như vậy, khái niệm về TS trong CMKT chỉ là bước đầu tiên trong quá trình
xác định TS trong thế giới thực tại và sau đó là ghi chép chúng vào sổ và

trình bày trên BCĐKT. Giữa khái niệm TS và việc xác định TS trong thực tế
có những phần chung và những phần riêng.
Trong thực tế, các đặc tính căn bản để ghi nhận một khoản mục có phải là TS
hay không cần dựa vào những đặc tính căn bản sau đây:
Dựa vào luật.
Doanh nghiệp có quyền pháp lý đối với lợi ích kinh tế tương lai không? Việc
ghi nhận rất nhiều TS phụ thuộc vào khái niệm có tính luật pháp của TS. Việc
ghi nhận khoản phải thu của khách hàng như là TS vì nghiệp vụ bán hàng hoá
hoặc dịch vụ cũng như nghiệp vụ mua TS cố định chịu đem đến quyền pháp
lý của việc sử dụng là những ví dụ. Đặc tính này liên quan đến cả tính thích
hợp và tính tin cậy của thông tin kế toán.
Sử dụng nguyên tắc thận trọng
Khoản lỗ có thể ước tính nhưng ghi nhận lợi nhuận phải có chứng cớ chắcn
chắn. Ví dụ, khoản phải trả do công ty bị kiên, trong trường hợp đơn vị là
nguyên đơn, không được ghi nhận khoản đền bù có thể nhận được như là TS
của doanh nghiệp.
Xác định thực chất kinh tế của các sự kiện hoặc nghiệp vụ.

Để xác định thực chất kinh tế của một sự kiện liên quan như thế nào đến mục
đích của việc báo cáo thông tin kế toán thích hợp, tính trọng yếu cũng là một
yếu tố quan trọng. Nếu như các sự kiện mang thực chất kinh tế, khi đó nó đủ
lớn để được ghi nhận và báo cáo. Có nhiều khoá cạnh khác nhau đối với đặc
tính này và do đó khó có thể khái quát được nhưng rất nhiều quy định được
dựa trên ý niệm thực chất kinh tế. Ví dụ, cả thuê tài chính và thuê hoạt động
đều đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp nhưng thuê tài chính được ghi
nhận khi có sự chuyển dịch phần lớn lợi ích kinh tế cho bên đi thuê.
Khả năng xác định giá trị của TS. Nếu như kế toán viên không thể xác định
gái trị của một TS một cách khách quan, khi đó TS không được ghi nhận. Đó
là lý do vì sao nguồn nhân lực không được ghi nhận là TS, lợi thế thương mại
tự tạo cũng không được ghi nhận là TS. Tính có khả năng xác định liên quan
đến tính tin cậy của thông tin.