X lý n xấu không th ngày một,
ngày hai
Giá nhiên liệu trong nước tăng mạnh nguyên nhân t xu hướng
giá thế giới ng nhanh. Nhưng rõ ràng, việc tăng giá nhiều nguyên
liệu đầu vào trong một thời gian ngn s tác động làm tăng giá các
mặt hàng khác. Mt khác, lạm phát thông thường mức thấp
trong 7 tháng đầu năm 2012, nhưng lm phát bản không thấp đi
tương ứng Liệu việc tăng giá cấp tập này có mâu thuẫn với
những n lực ni lỏng chính sách tiền t để h tr DN, thưa
ông?
Nhìn chung, lạm phát thông thường cao n s làm giảm hiu lực
của các bin pháp tiền t để h tr các hoạt động kinh tế. Thêm
vào đó, lạm phát cơ bản khá cao cũng có th hạn chế phần nào các
động thái chính sách tiền tệ.
Có th thấy, trong khi NHNN đã giảm lãi suất chính sách 5% trong
năm 2012 và đang n lực để giảm lãi suất cho vay, thì tăng trưởng
tín dụng vẫn dậm chân tại chỗ. Nhu cầu tín dụng thấp có nguyên
nhân t s tăng trưởngn dụng quá cao trong những năm qua. Kết
qu là một s DN dùng đòn bẩy tài chính quá mứccác ngân
hàng đang đối mặt với n xu tăng cao. Mức lãi suất chính sách
hiện nay của NHNN mức đ để duy trì thanh khoản trong c h
thống. Nhưng có mt vấn đề là nhng ngân hàng quản tr rủi ro tốt
thì khá cẩn trng trong các khon cho vayh lo ngại v giá tr
tài sản đảm bảon xấu, trong khi những người vay tốt thì lại
thận trọng khi vay mượn do nhận thấy đầu ra vn khó khăn. Các
khách hàng yếu thì lại không v thế có th vay, một phần bởi vì
h đã vay quá nhiu trước đó.
Nếu lạm phát cao tr lại, sc mua s giảm đi, DN s càng bí đầu
ra, t đó làm trầm trọng hơn tình trạng n xấu. Ông có bình
luận gì v mối tương quan này?
Lm phát cao hơn s làm giảm thu nhập thực tế và khiến nhu cu
trên th trường yếu đi. Tuy nhiên, mối quan h giữa hàng tồn kho
và n xấu trong h thống ngân hàng có th phức tạp n mt chút.
Hàng tồn kho cao phản ánh ngun cung tín dụng quá mức trong
quá khứ. Ngun cung vượt quá này có th được tạo ra t s
thừa công suất do trong quá khứ, DN đã vay quá nhiều t h thống
ngân hàng. Khi mà s vay mượn, công suấtsản ợng đều quá
mức và gặp lượng cầu (trong quá kh) không đủ mạnh, nó dn đến
s tích t của hàng tn kho và khiến n xấu tăngn.
Nhiều t chc quốc tế nhìn nhận, vừa qua Việt Nam đã da quá
nhiều vào chính sách tiền t trong việc vực dậy nền kinh tế,
trong khi chính sách tài khóa còn nhiều địa. Bình luận của
ông v quan điểm này?
Chính sách tiền t và t giá là mộtng c quan trng để quản
kinh tế vĩ mô và h tr tăng trưởng. Tuy nhiên, cùng với đó, chính
sách tài khóa cũng là một tr cột h tr cho nền kinh tế, đặc bit
thông qua chi tiêu công. Lĩnh vực thuế cũng góp phần quan trng
trong việc vực dậy DN thông qua các chính sách min giảm, giãn
thuế…