Tập bài giảng Thống kê doanh nghiệp
lượt xem 18
download
Tập bài giảng Thống kê doanh nghiệp gồm có 6 chương với những nội dung chính như sau: Chương 1: những vấn đề cơ bản của thống kê doanh nghiệp; chương 2: thống kê kết quả sản xuất trong doanh nghiệp; chương 3: thống kê tài sản của doanh nghiệp; chương 4: thống kê lao động trong doanh nghiệp; chương 5: thống kê giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp; chương 6: thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tập bài giảng Thống kê doanh nghiệp
- CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THỐNG KÊ DOANH NGHIỆP 1.1. Khái quát về thống kê doanh nghiệp “Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của thống kê cho thấy: Thống kê học là một môn khoa học xã hội. Tuy nhiên, khác với các môn học xã hội khác, thống kê học không trực tiếp nghiên cứu mặt chất của hiện tượng mà nó chỉ phản ánh bản chất, tính quy luật của hiện tượng thông qua các con số, các biểu hiện về lượng của hiện tượng. Điều đó có nghĩa là thống kê học phải sử dụng các con số về quy mô, kết cấu quan hệ tỉ lệ, quan hệ so sánh, trình độ phát triển, trình độ phổ biến,… của hiện tượng để phản ánh, biểu thị bản chất, tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Như vậy, các con số thống kê không phải chung chung, trừu tượng mà bao giờ cũng chứa đựng một nội dung kinh tế, chính trị, xã hội nhất định, giúp chúng ta nhận thức được bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu. Theo quan điểm triết học, chất và lượng là hai mặt không thể tách rời của mọi sự vật, hiện tượng, giữa chúng luôn tồn tại mối liên hệ biện chứng với nhau. Trong mối quan hệ đó, sự thay đổi về lượng quyết định sự biến đổi về chất. Quy luật lượng - chất của triết học đã chỉ rõ: mỗi lượng cụ thể đều gắn với một chất nhất định, khi lượng thay đổi và tích lũy đến một chừng mực nhất định thì chất thay đổi theo. Vì vậy, nghiên cứu mặt lượng của hiện tượng sẽ giúp cho việc nhận thức bản chất của hiện tượng. Có thể đánh giá thành tích sản xuất của một doanh nghiệp qua các con số thống kê về tổng số sản phẩm làm ra, giá trị sản xuất đạt được, tỉ lệ hoàn thành kế hoạch sản xuất, giá thành đơn vị sản phẩm, năng suất lao động và thu nhập của công nhân.”[7] Từ những năm 90 của thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, nền kinh tế nước ta chuyển từ nền kinh tế quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Do đó, cơ chế quản lý kinh tế cũng chuyển từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Vì vậy, các doanh nghiệp sản xuất của nhà nước chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường. Sự đổi mới căn bản của cơ chế quản lý này bắt buộc các doanh nghiệp phải hạch toán chặt chẽ. Nghĩa là thực hiện nguyên tắc lấy thu bù chi và phải có lãi. Doanh nghiệp phải đảm bảo tự thu, tự chi, tự phát triển, tự chịu trách nhiệm và tự quyết định các vấn đề về mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế phát triển nhanh cả về quy mô lẫn tốc độ, cả chiều rộng lẫn chiều sâu thì vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý doanh nghiệp cần phải năng động và thị trường để đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển vững mạnh. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến diễn biến của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh 1
- và hiệu quả đạt được. Các doanh nghiệp phải nắm bắt đầy đủ, chính xác và kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong kỳ hạch toán. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp mới phân tích, đánh giá được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Vì vậy, nắm bắt đầy đủ, chính xác kịp thời mọi diễn biến của hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói riêng, là vấn đề không thể thiếu được trong mỗi doanh nghiệp. Nó được thể hiện qua số liệu thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, thống kê chất lượng sản phẩm, thống kê các yếu tố sản xuất, thống kê giá thành và thống kê hiệu quả hoạt động kinh doanh. Qua đó giúp cho các nhà quản lý có thể đánh giá chính xác về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đề ra các biện pháp tích cực, khoa học và đưa ra các quyết định kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. 1.2. Các khái niệm chung về thống kê 1.2.1. Định nghĩa “Thống kê là một hệ thống các phương pháp bao gồm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và đề ra các quyết định.” [4] 1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của thống kê 1.2.2.1. Chức năng của thống kê Thống kê thường nghiên cứu hai lĩnh vực là thống kê mô tả và thống kê suy diễn a. Thống kê mô tả “Thống kê mô tả bao gồm các phương pháp liên quan đến việc thu thập số liệu, tóm tắt, trình bày, tính toán các đặc trưng khác nhau để phản ánh một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu.” [4] b. Thống kê suy diễn “Thống kê suy diễn bao gồm các phương pháp ước lượng các đặc trưng của tổng thể nghiên cứu, phân tích mối liên hệ giữa các hiện tượng nghiên cứu, dự đoán hoặc đề ra các quyết định trên cơ sở các số liệu thu thập được.” [4] 1.2.2.2. Nhiệm vụ của môn học thống kê doanh nghiệp Thống kê doanh nghiệp là một môn khoa học thống kê để phục vụ cho công tác quản lý của doanh nghiệp, do đó môn học này thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu đề xuất các phương pháp thu thập thông tin thống kê kịp thời, chính xác, đầy đủ phản ánh tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng các yếu tố của quá trình 2
- sản xuất, đồng thời nghiên cứu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Thu thập thông tin phản ánh tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, thống kê phân tích giá thành, giá bán và xác định mức cầu thị trường, để điều chỉnh kế hoạch sản xuất cho thích hợp. - Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê, phân tích các mặt hoạt động, hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp. - Thống kê tổng hợp và xử lý thông tin đã thu thập, làm cơ sở ứng dụng thống kê trong công tác quản lý doanh nghiệp. 1.3. Ðối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp 1.3.1. Đối tượng Xét một cách tổng quát đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp là mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế - tài chính số lớn phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Là một bộ phận quan trọng của thống kê học, đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp trước hết cũng có những đặc điểm chung giống đối tượng nghiên cứu của thống kê học. Song thống kê doanh nghiệp cũng là một môn khoa học xã hội độc lập nên đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp cũng có những đặc thù riêng. “Đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau: - Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu mặt lượng trong mối quan hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế - tài chính. Mỗi hiện tượng đều có hai mặt: mặt chất và mặt lượng, hai mặt này luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, nghiên cứu một cách khoa học mặt lượng của các hiện tượng kinh tế - tài chính người làm công tác thống kê trước hết cần phải hiểu rõ bản chất và quy luật phát triển của chúng. Nói một cách khác, để nghiên cứu mặt lượng của các hiện tượng trước hết cần phải hiểu rõ mặt chất của chúng. Ngược lại, qua mặt lượng cụ thể của các hiện tượng có thể kiểm chứng được quy luật phát triển của các hiện tượng đó. - Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính số lớn. Hiện tượng kinh tế là việc tìm hiểu xem xã hội nói chung các doanh nghiệp nói riêng sử dụng như thế nào với nguồn lực (lao động, đất đai, tài nguyên, khả năng quản lý và công nghệ) là có hạn để sản xuất ra hàng hóa (sản phẩm, vật chất, dịch vụ) cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu vô hạn của các thành viên trong xã hội. Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các 3
- nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Hay nói vắn tắt, tài chính là quá trình tạo lập, phân bổ và sử dụng các quỹ tiền tệ một cách chặt chẽ. Như vậy, thống kê doanh nghiệp không chỉ nghiên cứu tình hình sử dụng tất cả các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất trong doanh nghiệp như: Lao động, tài sản cố định và nguyên, nhiên vật liệu tham gia vào quá trình sản xuất, kết quả sản xuất mà còn nghiên cứu nguồn hình thành và tình hình sử dụng các loại vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp là mặt lượng của số lớn các hiện tượng kinh tế - tài chính (hay mặt lượng của tổng thể các hiện tượng cá biệt). Thông qua mặt lượng của số lớn hiện tượng, tác động của nhân tố ngẫu nhiên đến mặt lượng của các hiện tượng cá biệt được bù trừ, triệt tiêu, bản chất và tính quy luật của hiện tượng nghiên cứu mới có khả năng thể hiện rõ rệt. Mặt lượng của hiện tượng sau khi tổng hợp có thể biểu hiện được bản chất và quy luật của hiện tượng nghiên cứu. Tuy nhiên giữa hiện tượng số lớn và hiện tượng cá biệt có quan hệ biện chứng. Hơn nữa trong quá trình phát triển của hiện tượng kinh tế xã hội thường nảy sinh nhiều hiện tượng cá biệt mới tiên tiến vì vậy cũng cần phải kết hợp nghiên cứu hiện tượng số lớn và hiện tượng cá biệt để kết quả nghiên cứu được sâu sắc và toàn diện hơn. - Hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh ở mọi lĩnh vực, ngành từ tầm vi mô đến tầm vĩ mô trong nền kinh tế, nhưng chỉ thuộc đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp khi hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất. Cùng với thời gian có nhiều trường phái, quan điểm khác nhau về sản xuất, nhưng theo quan niệm của các nhà kinh tế thị trường cho rằng: sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách pháp nhân hay một tổ chức bằng năng lực quản lý của mình cùng với các yếu tố tài nguyên, đất đai và vốn, sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích và có hiệu quả, nhằm htoar mãn nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình dân cư, nhà nước, tích lũy tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội, xuất khẩu ra nước ngoài... Như vậy, theo quan niệm của các nhà kinh tế thị trường cho rằng các hiện tượng kinh tế, tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm vật chất, dịch vụ hữu ích đều thuộc đối tượng nghiên cứu của thống kê doanh nghiệp. - Thống kê doanh nghiệp nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp sản xuất, trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể. Như phần trên đã phân tích, các hiện tượng phát sinh trong quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp bao gồm: 4
- + Các hiện tượng phản ánh đầu vào của quá trình sản xuất như: lao động, đất đai, nguyên vật liệu... + Các hiện tượng phản ánh đầu ra như: sản lượng, doanh thu... + Các hiện tượng phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp như các chỉ tiêu thống kê khối lượng vốn và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp. ” [3] Các hiện tượng này luôn tồn tại trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Vì vậy, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế - tài chính phát sinh trong các doanh nghiệp sản xuất, thống kê doanh nghiệp luôn cần phải chú ý đến điều kiện, thời gian và không gian cụ thể của hiện tượng nghiên cứu. Như vậy, thống kê doanh nghiệp cần phải xác định: các doanh nghiệp vừa là đối tượng phục vụ vừa là phạm vi nghiên cứu của mình. Trong từng doanh nghiệp hạch toán thống kê bao gồm nhiều bộ phận: thống kê lao động – tiền lương, thống kê vật tư, thống kê giá thành... Các bộ phận này tuy độc lập thi hành tác nghiệp chuyên môn của thống kê, nhưng vẫn phải đảm bảo thống nhất ba bộ phận hạch toán (hạch toán thống kê, hạch toán kế toán, hạch toán nghiệp vụ - kỹ thuật) trong một doanh nghiệp về nguồn số liệu do chế độ ghi chép ban đầu cung cấp. 1.3.2. Phương pháp nghiên cứu môn học 1.3.2.1. Cơ sở phương pháp luận của môn học Cơ sở phương pháp luận của thống kê học và thống kê doanh nghiệp nói riêng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thống kê luôn biểu hiện mặt lượng của hiện tượng kinh tế xã hội, thông qua mặt lượng nói lên mặt chất. Thống kê doanh nghiệp lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm cơ sở lư luận, điều đó được thể hiện trên các phương diện sau: - Phải phân tích và đánh giá quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong trạng thái động. - Xem xét các mặt, các hoạt động, các quá trń h kinh doanh c ủa doanh nghiệp trong mối quan hệ biện chứng, quan hệ nhân quả. - Xây dựng các phương pháp đo lường, các chỉ tiêu và các công thức tính toán mang tính hệ thống, logic, . . . 1.3.2.2. Cơ sở lý luận của môn học Cơ sở lý luận của môn học là các học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác Lênin và kinh tế thị trường. Các môn khoa học này trang bị cho các nhà thống kê hiểu nội dung kinh tế của các chỉ tiêu thống kê một cách sâu sắc. Ngoài ra, thống kê còn là công cụ phục vụ công tác quản lý, vì vậy phải lấy đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước làm cơ sở lý luận. 5
- Trong quá trình nghiên cứ, thống kê doanh nghiệp sử dụng nhiều phương pháp chuyên môn của thống kê như: phương pháp quan sát số lớn, phương pháp phân tổ, phương pháp chỉ số... Tổng hợp lý luận của các phương pháp này được gọi là phương pháp luận của thống kê doanh nghiệp. Cơ sở khoa học để xây dựng hệ thống lý luận các phương pháp thống kê doanh nghiệp được gọi là cơ sở phương pháp luận thống kê doanh nghiệp. Cơ sở phương pháp luận của thống kê doanh nghiệp là chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là khoa học về các quy luật chung nhất của thế giới vật chất và tư duy về các dạng vận động của vật chất. Trong đó, hiện tượng kinh tế - tài chính là một dạng vận động cao nhất của thế giới vật chất. Trong đó, hiện tượng kinh tế tài chính là một dạng vận động cao nhất. 1.4. Doanh nghiệp và cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp 1.4.1. Khái niệm về doanh nghiệp Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế được tổ chức ra để sản xuất kinh doanh, nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng vật chất hoặc tinh thần của các cá nhân và cộng đồng với mục tiêu thu lợi nhuận, tích luỹ vốn tiếp tục phát triển kinh doanh. 1.4.2. Cơ cấu tổ chức sản xuất trong một doanh nghiệp Nếu dựa vào quá trình kỹ thuật thì doanh nghiệp bao gồm nhiều đoạn sản xuất. Nếu dựa vào mặt tổ chức quản lý hành chính thì doanh nghiệp bao gồm nhiều phân xưởng sản xuất. 1.4.2.1. Đoạn sản xuất Đoạn sản xuất là một giai đoạn kỹ thuật hoàn chỉnh nhất định trong toàn bộ quá trình sản xuất một sản phẩm trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp sản xuất có thể có một hoặc nhiều đoạn sản xuất khác nhau, tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ sản xuất. - Doanh nghiệp chỉ có 1 đoạn sản xuất được gọi là doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất giản đơn như các doanh nghiệp sản xuất điện, nước,v.v . - Doanh nghiệp có từ 2 đoạn sản xuất trở lên được gọi là doanh nghiệp có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp như các doanh nghiệp cơ khí, dêt, may,v.v. 1.4.2.2. Phân xưởng sản xuất Trong doanh nghiệp sản xuất, nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức sản xuất thì doanh nghiệp bao gồm các phân xưởng sản xuất. Phân xưởng sản xuất là một đơn vị sản xuất độc lập về mặt hành chính trong doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh thường được tiến hành qua các phân xưởng. 6
- Trong một doanh nghiệp, giữa các phân xưởng và đoạn sản xuất có thể thống nhất hoặc không thống nhất về quy trình tổ chức quản lý sản xuất, trình độ tay nghề, trình độ trang bị kỹ thuật trong từng doanh nghiệp. Các phân xưởng trong doanh nghiệp chia thành 4 loại: - Phân xưởng sản xuất cơ bản (phân xưởng sản xuất chính): là phân xưởng sản xuất ra sản phẩm chủ yếu trong doanh nghiệp hoặc sản xuất ra những bán thành phẩm, chi tiết chủ yếu của sản phẩm. - Phân xưởng sản xuất phụ: là những phân xưởng tận dụng phế liệu, vật liệu thừa, cặn bã thu hồi được trong quá trình sản xuất sản phẩm chính, để sản xuất ra các sản phẩm khác với sản phẩm chính được gọi là sản phẩm phụ. - Phân xưởng sản xuất phụ trợ: là những bộ phận, phân xưởng làm cho quá trình sản xuất được liên tục, không gián đoạn. Ví dụ phân xưởng cơ điện, sửa chữa . . . - Phân xưởng sản xuất phụ thuộc: là những phân xưởng chuyên sản xuất ra những sản phẩm dùng làm bao bì đóng gói cho những sản phẩm chủ yếu hoặc sản xuất ra những vật liệu cung cấp cho phân xưởng cơ bản. 1.5. Hệ thống thông tin thống kê phục vụ quản lý doanh nghiệp 1.5.1. Vai trò của thông tin thống kê đối với quản lý doanh nghiệp Thông tin thống kê luôn gắn liền với quá trình quản lý và ra quyết định đối với cấp quản lý. Bởi vì, trong quản lý và ra quyết định đòi hỏi phải nắm được hiện tượng kinh tế xã hội có liên quan một cách chuẩn xác. Những thông tin quan trọng nhất mà bất kỳ một nhà quản lý doanh nghiệp nào cũng phải nắm được bao gồm: - Thông tin xác định phương hướng sản xuất kinh doanh Trước khi xây dựng mới doanh nghiệp hoặc thay đổi phương hướng sản xuất kinh doanh, người có quyền ra quyết định phải nắm được thông tin về: + Quan hệ cung cầu mặt hàng này ở trong và ngoài nước + Tình hình phát triển của các mặt hàng có khả năng thay thế các mặt hàng hiện tại. + Giá cả các yếu tố đầu vào và giá tiêu thụ mặt hàng này ở thị trường trong và ngoài nước. + Trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật đối với quá trình phát triển của mặt hàng này tron hiện tại và tương lai. Hệ thống thông tin trên lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố kinh tế - xã hội khác có liên quan. Xét về quan hệ cung cầu lại phụ thuộc vào hàng loạt các thông tin khác nhau. Nếu sản phẩm đó phục vụ cho nhu cầu sản xuất thì phải xuất phát từ thông tin về suất đầu tư của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nếu nó là sản phẩm tiêu dùng của dân cư thì phải có được các thông tin liên quan đến thu nhập của dân cư, tỷ lệ quỹ tiêu dùng của 7
- dân cư dành cho tiêu dùng sản phẩm này, khả năng sản xuất ra và sự biến động có thể về giá cả các sản phẩm thay thế. Ngoài ra, còn phải xem xét khả năng xuất khẩu trên cơ sở các thông tin về ngoại thương. Đây là những vấn đề hết sức phức tạp liên quan đến việc thiết lập hệ thống thông tin để lập bảng cân đối liên ngành. - Thông tin đảm bảo lợi thế cạnh tranh Sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải có sự cạnh tranh gay gắt trên thương trường. Mọi doanh nghiệp đều phải xuất hiện trên thương trường đây là điểm khác biệt với cơ chế quản lý kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung. Để chiến thắng trong cạnh tranh, một mặt đòi hỏi các cơ sở sản xuất phải bí mật thông tin về tình hnhf sản xuất và chi phí sản xuất của đơn vị mình, mặt khác lại phải nắm bắt được các thông tin trên ở các đối thủ cạnh tranh. Để giải quyết mâu thuẫn này, đòi hỏi các doanh nghiệp vừa phải tổ chức thu thập thông tin nội bộ doanh nghiệp vừa phải tổ chức các cuộc điều tra chuyên môn trên thị trường để có các thông tin về đối thủ cạnh tranh như điều tra thị hiếu, điều tra nhu cầu, giá cả thích hợp, khả năng thanh toán của dân cư. - Thông tin phục vụ tối ưu hóa sản xuất Đây là thông tin có liên quan đến việc cung cấp và sử dụng các yếu tố đầu vào như lao động, nguyên vật liệu, thiết bị máy móc... Trong nền kinh tế thị trường thì đầu ra do thương trường quyết địnhmột cách khắt khe nhưng đầu vào còn tùy thuộc một phần vào việc tìm kiếm nó trên thị trường của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, việc tìm kiếm của các yếu tố này đã vượt ra ngoài phạm vi của một vùng, thậm chí của một quốc gia. Người ta có thể tìm thấy nó trên phạm vi toàn cầu do xu hướng toàn cầu hóa. - Thông tin về kinh tế vĩ mô Những thông tin về kinh tế vĩ mô có vai trò quan trọng để các doanh nghiệp dự đoán xu thế phát triển trong tương lai gần và tương lai xa, nhằm tìm ra phương hướng, bước đi phù hợp vớ tình hình chung, tranh thủ thời cơ và khắc phục rủi ro trong hoạt động của mình. Xét trên giác độ tổ chức, việc cung cấp thông tin từ bên ngoài vào gồm có: + Thông tin quản lý: Gồm những thông tin mới nhất về các quan điểm và các loại ý kiến mới nhất rút ra từ các hội thảo khoa học phục vụ cho việc ra quyết định: kinh nghiệm quản lý tiên tiến, những văn bản mới về pháp luật, các chính sách kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. + Thông tin kinh tế: bao gồm những thông tin về giá cả, thị trường tài chính, thương mại... + Thông tin khoa học – kỹ thuật trong và ngoài nước, chọn và đánh giá công nghệ mà doanh nghiệp có thể nhập, giới thiệu và chuyển giao. 8
- Thông tin nội bộ là thông tin về quá trình sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp phải tự tổ chức thu thập lấy. 1.5.2. Nguồn thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp Để có thông tin phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp người ta có thể thu thập từ 2 nguồn thông tin: - Nguồn thông tin mà doanh nghiệp phải tự tổ chức thu thập: + Xuất phát từ nhu cầu thực tế trong quá trình quản lý mà doanh nghiệp tự tổ chức thu thập thông tin. + Nếu là thông tin trong phạm vi doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể tổ chức ghi chép ban đầu để có thông tin hoặc tổ chức điều tra thống kê (điều tra toàn bộ hoặc điều tra không toàn bộ). + Thông tin ngoài phạm vi doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải tổ chức điều tra thống kê hoặc mua lại thông tin của các cơ quan có liên quan. - Nguồn thông tin sẵn có: Đó là thông tin được loan truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng: radio, truyền hình, sách báo, niêm giám thống kê, thị trường chứng khoán, thông tin quảng cáo, hội chợ... Những thông tin này rất có ích khi hoạch định chiến lược phát triển dài hạn của doanh nghiệp. 1.6. Tổ chức hệ thống thông tin trong doanh nghiệp Hiện nay các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đa dạng, trên nhiều lĩnh vực. Vì thế việc thực hiện công tác thống kê của doanh nghiệp đòi hỏi cũng có nhiều đổi mới. Một mặt thống kê doanh nghiệp thu thập các thông tin phục vụ quản lý doanh nghiệp. Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp không còn chuyên môn hóa sâu như trước đây nữa mà ngành nghề kinh doanh đa dạng hơn. Doanh nghiệp có thể vừa sản xuất, vừa mua và bán sản phẩm. Mặt khác, doanh nghiệp phải thực hiện chế độ báo cáo thống kê theo luật thống kê liên quan đến nhiều ngành kinh tế quốc dân. Vì thế, tổng cục Thống kê ban hành chế độ báo cáo chung cho các doanh nghiệp, cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh. - Thu thập các thông tin liên quan đến các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp: biến động lượng cung, giá cả, diễn biến của các thị trường đầu vào ở trong và ngoài nước. - Thu thập các thông tin thống kê phản ánh tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Trên cơ sở này doanh nghiệp chủ động điều chỉnh kế hoạch sản xuất, dự trữ... để đảm bảo sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. - Thu thập thông tin phản ánh tình hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, phát triển nhu cầu thị trường để có chủ trương sản xuất đối với từng mặt hàng. 9
- Thu thập thông tin liên quan đến chi phí sản xuất, giá thành, giá cả, mẫu mã, chất lượng hàng hóa của doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin cần thiết làm cơ sở để xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thời gian tới. - Phân tích các thông tin đã thu thập được làm cơ sở cho việ lựa chọn giải pháp nhằm củng cố và phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả kinh tế cao. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Căn cứ vào các thông tin đã xử lý, thống kê tiến hành dự báo nhu cầu và khả năng phát triển của doanh nghiệp để lập kế hoạch ngắn hạn và dài hạn. - Thường xuyên lập báo cáo thống kê định kỳ theo yêu cầu của địa phương, ngành chủ quản, ngân hàng, thống kê... 10
- CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1. Hoạt động thống kê là gì? Vai trò của thống kê trong quản lý kinh tế. 2. Doanh nghiệp là gì? Cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp là gì? 3. Thông tin thống kê trong doanh nghiệp là gì? Nhiệm vụ công tác thông tin trong thống kê. 4. Trình bày cơ sở lý luận và cơ sở phương pháp luận của thống kê doanh nghiệp. 5. Trình bày hệ thống tổ chức thông tin trong doanh nghiệp. 11
- CHƢƠNG 2: THỐNG KÊ KẾT QUẢ SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP 2.1. Một số khái niệm, ý nghĩa và nhiệm vụ của thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 2.1.1. Khái niệm 2.1.1.1. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. a. Khái niệm Từ năm 1992 trở về trước, Việt Nam đã vận dụng hệ thống Bảng cân đối kinh tế quốc dân (MPS) hình thành phương pháp luận tính chỉ tiêu sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân… trên cơ sở đó lập bảng cân đối tổng hợp. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu thuộc hệ thống MPS: Trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế phân chia thành 2 khu vực: Khu vực sản xuất vật chất và khu vực sản xuất không vật chất. Chỉ có lao động trong khu vực sản xuất mới trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, hay nói cách khác, sản xuất là các hoạt động tạo ra của cải vật chất cho xã hội, còn khu vực không sản xuất không tham gia trực tiếp sản xuất ra của cải xã hội mà chỉ tiêu dùng của cải xã hội đó. Thu nhập của các thành viên trong khu vực không sản xuất là do quá trình phân phối lại thu nhập đã tạo ra từ khu vực sản xuất. Từ năm 1992 trở lại đây, Việt Nam đã vận dụng hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) theo quan niệm của các nhà nghiên cứu thuộc hệ thống này, sản xuất là mọi hoạt động của con người với tư cách là một cá nhân hay tổ chức bằng năng lực quản lý của mình, cùng với các yếu tố tài nguyên, đất đai và vốn, sản xuất ra những sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích và có hiệu quả, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho sản xuất, sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình dân cư, xã hội, tích lũy tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội, xuất khẩu ra nước ngoài. Trong các doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dùng không tự làm được hoặc không đủ điều kiện để tự làm được những sản phẩm vật chất, dịch vụ mà mình có nhu cầu. Những hoạt động này sang tạo ra sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ để bán cho người tiêu dùng nhằm thu được tiền công và lợi nhuận kinh doanh. Phân biệt hoạt động tự cấp, tự túc với hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn vị là điều kiện cần thiết đảm bảo độ chính xác của các thông tin thống kê. Giống nhau: Đều sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra các sản phẩm vật chất và phi vật chất nhằm đáp ứng cho mục đích đã định trước của người sản xuất. 12
- Khác nhau: Bảng 2.1: So sánh các hoại hình hoạt động sản xuất Sản xuất tự cấp, tự túc Sản xuất kinh doanh - Mục đích sản xuất thỏa mãn nhu cầu - Mục đích là thu lợi nhuận tối đa của người sản xuất - Quy mô sản xuất nhỏ. - Quy mô sản xuất tùy thuộc vào nhu cầu thị trường và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. - Không cần so sánh về chất lượng, mẫu - Luôn quan tâm đến so sánh chất mã, hình thức lượng, mẫu mã với các doanh nghiệp khác - Không cần được xã hội thừa nhận - Phải được xã hội thừa nhận - Không cần hạch toán kinh tế - Luôn tiến hành hạch toán kinh tế - Không cần quan tâm đến thông tin giá - Luôn quan tâm đến thông tin giá cả thị cả thị trường trường Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thỏa mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dùng không tự làm được hoặc không đủ điều kiện để tự làm được những sản phẩm vật chất và dịch vụ mà mình có nhu cầu. Những hoạt động này sáng tạo ra sản phẩm vật chất hoặc dịch vụ để bán cho người tiêu dùng nhằm thu được tiền và tạo ra hiệu quả kinh doanh Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ công tác tổ chức và quản lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các hoạt động này chịu sự chi phối bởi các quy luật kinh tế khách quan, trong quá trình phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế đòi hỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh phải tuân thủ theo các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá như quy luật cung cầu, giá trị, cạnh tranh. Đồng thời các hoạt động này còn chịu tác động của các nhân tố bên trong, đó là tình hình sử dụng các yếu tố sản xuất, tình hình sản xuất, tiêu thụ, giá cả các chính sách tiếp thị, khuyến mãi.v.v,. . và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp như sự thay đổi về cơ chế, chính sách thuế, tỷ giá ngoại tệ, chính sách ưu đãi đầu tư, v.v. Do vậy khi thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cần hiểu rõ ý nghĩa, nhiệm vụ, đặc điểm, hệ thống chỉ tiêu thống kê, và phải thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thoả mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dùng, không tự sản xuất được hoặc không đủ điều kiện để tự sản xuất những sản phẩm vật chất và dịch vụ mà mình có nhu cầu tiêu dùng, hoạt động này 13
- sáng tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ để cung cấp cho người tiêu dùng nhằm thu được tiền công và lợi nhuận kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động sáng tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ cung cấp cho nhu cầu xã hội nhằm mục tiêu kiếm lời. b. Đặc điểm - Khác với hoạt động tự túc tự cấp phi kinh doanh, động cơ và mục đích của hoạt động kinh doanh là sản xuất sản phẩm vật chất hay dịch vụ không phải để tự tiêu dùng mà để phục vụ cho nhu cầu của người khác nhằm thu lợi nhuận. - Hoạt động kinh doanh phải hạch toán được chi phí sản xuất, kết quả sản xuất và hạch toán được lãi (lỗ) trong kinh doanh. - Sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể cân, đong, đo đếm được, đó là sản phẩm hàng hoá để trao đổi trên thị trường. Người chủ sản xuất phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm của mình sản xuất ra. - Hoạt động kinh doanh phải luôn luôn nắm được các thông tin về sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường như các thông tin về số lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm, thông tin về xu hướng tiêu dùng của khách hàng, thông tin về kỹ thuật công nghệ để chế biến sản phẩm, về chính sách kinh tế tài chính, pháp luật Nhà nước có liên quan đến sản phẩm của doanh nghiệp. - Hoạt động kinh doanh luôn thúc đẩy mở rộng sản xuất và tiêu dùng xã hội, tạo điều kiện cho tích luỹ vốn phát triển sản xuất, phát triển kinh tế xã hội, phát triển khoa học kỹ thuật, mở rộng quan hệ giao lưu hàng hoá, tạo ra sự phân công lao động xã hội và cân bằng cơ cấu sản xuất trong nền kinh tế. 2.1.1.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những sản phẩm mang lại lợi ích tiêu dùng xã hội được thể hiện là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm phi vật chất. Những sản phẩm này phải phù hợp với lợi ích kinh tế và trình độ văn minh của tiêu dùng xã hội. Nó phải được người tiêu dùng chấp nhận. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần thỏa mãn các yêu cầu sau: - Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do lao động sản xuất của doanh nghiệp làm ra, đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định cho loại sản phẩm đó. - Đáp ứng được một yêu cầu cụ thể của cá nhân hoặc cộng đồng. - Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo lợi ích người tiêu dùng và doanh nghiệp. - Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh phải mang lại lợi ích kinh tế chung cho tiêu dùng xã hội. 14
- 2.1.2. Các dạng biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Các dạng biểu hiện kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: - Thành phẩm: thành phẩm là sản phẩm vật chất trải qua toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất của doanh nghiệp; đạt tiêu chuẩn kỹ thuật mà doanh nghiệp đó đề ra; đã tiến hành kiểm tra chất lượng và đã và đang làm thủ tục nhập kho (trừ một số loại sản phẩm có quy định riêng không phải kiểm tra chất lượng sản phẩm và không phải làm thủ tục nhập kho: sản xuất điện năng, sản xuất nước sạch...). Với sản phẩm dịch vụ thì không có những đặc điểm trên. Sản phẩm dịch vụ có đặc điểm là: sản xuất với tiêu dùng xảy ra đồng thời nên không có sản phẩm lưu kho; nơi sản xuất là nơi tiêu dùng; quá trình sản xuất cũng là quá trình hưởng thụ sản phẩm. Theo quy định không tính vào thành phẩm những sản phẩm sau: + Sản phẩm mua vào với mục đích bán ra mà không phải qua bất kỳ một chế biến gì thêm của doanh nghiệp. + Sản phẩm thuê doanh nghiệp khác gia công, chế biến, khi chuyển về doanh nghiệp không phải chế biến gì thêm. + Những sản phẩm chưa xong thủ tục nhập kho (đối với sản phẩm ngành công nghiệp). + Sản phẩm có khuyết tật không đạt tiêu chuẩn chất lượng nhưng chưa được sửa chữa lại. - Bán thành phẩm: là sản phẩm đã được hoàn thành ở một hoặc một số khâu trong các công đoạn sản xuất của doanh nghiệp nhưng chưa đến khâu sản xuất cuối cùng. Bán thành phẩm có đủ tiêu chuẩn chất lượng của các giai đoạn công nghệ đã qua chế biến có thể đem tiêu thụ được, trường hợp này được coi như sản phẩm hoàn thành. Bán thành phẩm có thể tiếp tục chế biến ở các giai đoạn công nghệ tiếp theo để trở thành sản phẩm hoàn chỉnh của doanh nghiệp. Bộ phận bán thành phẩm tiếp tục chế biến coi là sản phẩm chưa hoàn thành của doanh nghiệp. - Tại chế phẩm: là sản phẩm đã được hoàn thành ở một hoặc một số khâu của quy trình sản xuất nhưng chưa đến khâu sản xuất cuối cùng và hiện tại đang được chế biến ở một khâu nào đó. Nó không đem đi tiêu thụ được. - Sản phẩm sản xuất dở dang: là sản phẩm đã được hoàn thành ở một hoặc một số khâu của quy trình sản xuất nhưng chưa đến khâu sản xuất cuối cùng và hiện tại đang được chế biến ở một khâu nào đó. Nó không đem tiêu thu được. - Sản phẩm chính: là sản phẩm thu được thuộc mục đích chính của quy trình sản xuất. - Sản phẩm phụ: là sản phẩm thu được thuộc mục đích phụ của quy trình sản xuất. - Hoạt động sản xuất chính: là hoạt động tạo ra giá trị gia tăng nhiều nhất của một đơn vị sản xuất. 15
- - Hoạt động sản xuất phụ: là các hoạt động của một đơn vị sản xuất được thực hiện nhằm tận dụng các yếu tố dôi thừa của hoạt động chính để sản xuất ra các sản phẩm phụ nhưng giá trị gia tăng của nó phải nhỏ hơn giá trị gia tăng của hoạt động sản xuất chính. - Hoạt động sản xuất hỗ trợ: là các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp để tự thỏa mãn nhu cầu cho sản xuất chính hoặc sản xuất phụ của doanh nghiệp. Nó không phục vụ cho bên ngoài doanh nghiệp. 2.1.3. Ðơn vị đo lường kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.1.3.1. Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản phẩm vật chất - Đơn vị hiện vật, hiện vật kép là đơn vị đo lường thích hợp với đặc điểm vật lý, tự nhiên của các sản phẩm. Ví dụ: Đơn vị hiện vật thông thường như mét, kg, lít, chiếc, cái,… Đơn vị hiện vật kép Kw/h, tấn/giờ,... - Đơn vị giá trị: Để tính kết quả sản xuất theo đơn vị giá trị, phải dựa trên cơ sở giá cả của sản phẩm tính theo một đồng tiền của một quốc gia cụ thể. Ví dụ: đồng ngân hàng việt nam, đồng đôla Mỹ, .v.v.. Giá của sản phẩm trong tính toán có nhiều loại: giá so sánh (giá cố định) dùng trong nghiên cứu kinh tế, thống kê, giá hiện thành (thực tế) dùng trong thanh toán, giá cơ bản (xuất xưởng) là giá sản xuất chưa cộng thuế, chi phí bán hàng; giá bán buôn; giá bán lẻ (sử dụng cuối cùng). Mỗi mức giá được sử dụng để tính cho một chỉ tiêu kết quả sản xuất kinh doanh cụ thể. 2.1.3.2. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ - Đơn vị hiện vật: căn cứ theo thang đo định danh đơn giản, kết quả kinh doanh dịch vụ được tính theo số lần, số vụ, số ca, số người được phục vụ. - Đơn vị giá trị: Vì không có giá nhất định nên khi tính bằng tiền phải theo giá mà bên thuê sẽ nhận phục vụ đã thỏa thuận theo mỗi ca, mỗi vụ cụ thể. Đối với kết quả kinh doanh của các ngành vận tải, bưu điện...tính theo bảng giá công bố trong thời kỳ báo cáo. 2.1.4. Ý nghĩa và nhiệm vụ của thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh 2.1.4.1. Ý nghĩa Thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý kinh tế. Bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành trong những điều kiện như thế nào cũng có những tiềm ẩn, những khả năng tiềm tàng chưa phát hiện. Do đó, thông qua thống kê hoạt động sản xuất kinh doanh, 16
- doanh nghiệp mới phát hiện và khai thác triệt để, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp đề ra; đồng thời đánh giá khả năng trình độ tổ chức sản xuất và quản lý việc sử dụng các yếu tố sản xuất. 2.1.4.2. Nhiệm vụ Để thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: - Xác định được khái niệm sản phẩm của từng ngành kinh tế và phân loại các sản phẩm đó theo các tiêu thức phù hợp, để có thể xác định đúng kết quả sản xuất của từng doanh nghiệp, từng ngành, tránh trình trạng xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trùng lắp hoặc bỏ sót kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. - Xác định kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua những mục tiêu, kế hoạch sản xuất như: chất lượng sản phẩm sản xuất, số lượng sản phẩm sản xuất và số lượng sản phẩm tiêu thụ - Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp qua các thời kỳ qua các chỉ tiêu 2.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Để đánh giá tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, người ta cần có một hệ thống chỉ tiêu thống kê, với số lượng các chỉ tiêu tối thiểu cần thiết, từng chỉ tiêu phải có nội dung, phạm vi, phương pháp tính toán và nguồn số liệu đảm bảo có độ tin cậy cao, phục vụ cho công tác điều hành hoạt động kinh doanh ở tầm vi mô và công tác quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô. Về cơ sở lý luận, hệ thống MPS (xuất hiện ở Việt Nam từ 1992 trở về trước) được xây dựng trên cơ sở học thuyết kinh tế của C. Mác với quan điểm cơ bản là: chỉ có các ngành sản xuất vật chất mới sáng tạo ra giá trị và giá trị sử dụng; còn hệ thống SNA (xuất hiện từ cuối năm 1992 đến nay) được xây dựng dựa trên cơ sở các học thuyết kinh tế tư bản, đại biểu là Adam Smith và David Ricardo, với luận điểm cơ bản của họ là: tất cả các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất, sản phẩm phi vật chất và dịch vụ,… đều sáng tạo ra giá trị và giá trị sử dụng; hàng hóa mà con người sáng tạo ra có thể là hàng hóa hữu hình (sản phẩm vật chất), hàng hóa vô hình (sản phẩm phi vật chất mà hiện nay ta thường gọi là dịch vụ). Về phạm vi tính toán, các các chỉ tiêu đo lường kết quản sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hệ thống MPS hẹp hơn so với chỉ tiêu trong hệ thống SNA. Ví dụ, 17
- chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng của doanh nghiệp là tổng của 5 yếu tố hợp thành giá trị của sản phẩm (C1 + C2 + Cdv + V + M) của tất cả các hoạt động sản xuất vật chất của doanh nghiệp, thì GO xét về hình thức cũng là tổng hợp của 5 yếu tố (C1 + C2 + Cdv + V + M) nhưng về phạm vi thì không chỉ gồm kết quả của các hoạt động sản xuất vật chất (tức bằng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng) cộng thêm (C1 + C2 + Cdv + V + M) của các hoạt động phi vật chất (dịch vụ) như: dịch vụ sản xuất, dịch vụ phi vật chất, dịch vụ đời sống văn, quản lý Đảng, đoàn thể của doanh nghiệp,… Trong đó: C1 - khấu hao tài sản cố định; C2 (IC) - chi phí vật chất khác cho quá trình sản xuất như: chi phí nguyên nhiên liệu, vật liệu, công cụ lao động nhỏ, …; Cdv - chi phí dịch vụ cho quá trình sản xuất; Theo cách phân chia của C. Mác thì: C = C1 + C2 + Cdv (2.1) V - Thu nhập lần đầu của người lao động (tiền công, tiền lương và các khoản có tính chất tiền lương như bảo hiểm xã hội trả thay lương; bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế mà người chủ sử dụng lao động nộp thay cho người lao động, …) cụ thể gồm: - Tiền lương hoặc thu nhập theo ngày công của người lao động (gồm cả khoản người lao động nhận được theo lao động dưới hình thức bằng tiền hoặc bằng hiện vật); - Tiền trích vào các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ của chủ doanh nghiệp cho người lao động - Các khoản thu nhập ngoài lương hoặc ngoài thu nhập theo ngày công (như chi ăn trưa, ca ba, chi lương trong ngày nghỉ việc, tiền thưởng cho phát minh sáng kiến, tiền chi cho học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ,…) mà doanh nghiệp trả trực tiếp cho người lao động. M - Lợi nhuận (lãi) kinh doanh, thu nhập của doanh nghiệp, gồm các khoản: + Thuế sản xuất (trừ trợ cấp) + Lãi trả tiền vay ngân hàng (không kể chi phí dịch vụ ngân hàng đã tính vào IC) và phần thu trên vốn (đối với các doanh nghiệp nhà nước) + Mua bảo hiểm nhà nước (không kể bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho cán bộ công nhân viên) + Thuế thu nhập doanh nghiệp + Phần còn lại lãi ròng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để đảm bảo cho sự so sánh các chỉ tiêu kinh tế - xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ngày 18
- 25/12/1992 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 183/ TTg về việc áp dụng Hệ thống tài khoản quốc gia SNA (System of National Accounts) thay cho chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo hệ thống MPS (Material Product System). Do đó, để phù hợp với hệ thống các chỉ tiêu theo hệ thống SNA, khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thống kê tính toán theo 2 nhóm chỉ tiêu: 2.2.1.1. Nhóm chỉ tiêu tính bằng hiện vật a. Chỉ tiêu hiện vật Là chỉ tiêu phản ánh số lượng sản phẩm mà doanh nghiệp đã sản xuất (hay tiêu thụ) theo các đơn vị tính toán phù hợp với tính chất vật lý tự nhiên của sản phẩm. Ví dụ: cái, chiếc, m, lít, kg, tạ, tấn,.v .v . Ưu, nhược điểm của đơn vị hiện vật - Ưu điểm: Đơn vị hiện vật cho ta thấy được khối lượng sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra trong một thời kỳ nào đó. Ngoài ra, nó còn là cơ sở để tính toán các chỉ tiêu bằng tiền khác và là nguồn số liệu để lập kế hoạch tính toán các chỉ tiêu kinh tế khác. - Nhược điểm: Theo đơn vị hiện vật chỉ thống kê kết quả sản xuất kinh doanh cho từng sản phẩm cụ thể mà không tổng hợp được kết quả của toàn doanh nghiệp; không phản ánh đầy đủ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi vì nó chỉ mới tính được sản phẩm hoàn thành mà chưa tính sản phẩm dở dang và bán thành phẩm cũng như chỉ tính sản phẩm vật chất không tính sản phẩm dịch vụ. b. Chỉ tiêu hiện vật quy ước Là chỉ tiêu dùng để phản ánh khối lượng sản phẩm được tính đổi từ các sản phẩm cùng tên, cùng công dụng kinh tế nhưng khác nhau về phẩm chất, quy cách. Công thức tính sản lượng hiện vật quy ước: công thức ..... n QU Qi xH i (2.2) i 1 Trong đó: - Qi: sản lượng hiện vật của từng quy cách. - QU: sản lượng hiện vật quy ước. - Hi: Hệ số tính đổi của từng quy cách: Đặc tính của sản phẩm cần quy đổi Hi = (2.3) Đặc tính của sản phẩm được chọn làm sản phẩm chuẩn Ưu, nhược điểm của đơn vị hiện vật quy ước 19
- - Ưu điểm: Dùng để phản ánh khối lượng sản phẩm được tính đổi từ các sản phẩm cùng tên nhưng khác nhau về quy cách, phẩm chất; có khả năng tổng hợp cao hơn đơn vị hiện vật. - Nhược điểm: Đơn vị tính của đơn vị hiện vật quy ước vẫn sử dụng đơn vị hiện vật để tính toán, nên vẫn chưa thể khắc phục các nhược điểm theo đơn vị hiện vật. 2.2.1.2. Nhóm chỉ tiêu tính bằng giá trị Bao gồm các chỉ tiêu: a. Giá trị sản xuất của doanh nghiệp (GO = Gross Output) Giá trị sản xuất của doanh nghiệp là toàn bộ giá trị của sản phẩm vật chất và dịch vụ hữu ích do lao động của doanh nghiệp làm ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Ý nghĩa của chỉ tiêu GO: - Dùng để tính GO, GDP, … của nền kinh tế quốc dân; - Để tính VA, NVA của doanh nghiệp; - Tính các chỉ tiêu hiệu quả SXKD của doanh nghiệp *) Về phạm vi tính toán: Xét về mặt sản xuất, doanh nghiệp là nền kinh tế quốc dân thu nhỏ. Do đó, GO của doanh nghiệp là tổng hợp GO của các ngành sản xuất mà doanh nghiệp thực hiện. Theo SNA, sản xuất được hiểu là một hoạt động được thực hiện dưới sự kiểm soát, chịu trách nhiệm của một đơn vị thể chế, trong đó đầu vào gồm lao động, vốn, hàng hóa và dịch vụ được sử dụng để tạo ra hàng hóa và dịch vụ ở đầu ra. Theo giác độ thu nhập, SNA cho rằng tất cả các hoạt động có mục đích của con người, không kể các hoạt động tự phục vụ cho bản thân, có tạo ra thu nhập là hoạt động sản xuất. SNA chia sản phẩm thành: - Hàng hóa: là toàn bộ sản phẩm vật chất (hữu hình); - Dịch vụ: là sản phẩm vô hình. *) Về nội dung, giá trị sản xuất của doanh nghiệp gồm: - Giá trị của các sản phẩm vật chất, trong đó gồm + Giá trị của các sản phẩm vật chất được sử dụng làm tư liệu sản xuất: sắt thép, hóa chất, vật liệu xây dựng,... + Giá trị của các sản phẩm vật chất được sử dụng làm vật phẩm tiêu dùng: lương thực, thực phẩm, vải, thuốc chữa bệnh,... - Giá trị của những hoạt động dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất. - Giá trị của những hoạt động dịch vụ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của dân cư và xã hội. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Danh mục hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp
510 p | 4795 | 1682
-
Giáo trình: Kế toán doanh nghiệp thương mại
95 p | 2814 | 1057
-
Bài giảng tài chính doanh nghiệp - Chương 10
18 p | 421 | 113
-
Bài giảng Tổ chức công tác kế toán trong doanh nghiệp
31 p | 816 | 88
-
Bài giảng Lý thuyết tài chính – tiền tệ: Phần 1
45 p | 490 | 46
-
Bài giảng Thống kê doanh nghiệp (Ths.Trần Ngọc Minh) - Chương 3: Các tham số thống kê
75 p | 172 | 25
-
Tập bài giảng Kế toán thuế
166 p | 76 | 20
-
Bài giảng Chương V: Kế toán nghiệp vụ kinh doanh Ngoại tệ và vàng bạc
36 p | 156 | 13
-
Tập bài giảng Kế toán quản trị
200 p | 55 | 13
-
Bài giảng Kế toán quản trị - ĐH Lâm Nghiệp
169 p | 54 | 12
-
Bài giảng Chương 1: Khái quát về tổ chức công tác kế toán tài chính trong các doanh nghiệp
43 p | 160 | 10
-
Bài giảng môn Kế toán quản trị - Chương 3: Tính giá thành trong doanh nghiệp
32 p | 126 | 6
-
Bài giảng Nguyên lý kế toán: Chương 8 - ThS. Vũ Quốc Thông
18 p | 68 | 5
-
Bài giảng Kế toán tài chính 2: Chương 1 - Học viện Tài chính
9 p | 16 | 4
-
Bài giảng Nguyên lý kế toán: Chương 8 - ThS. Trần Tuyết Thanh (2016 - 2slide)
17 p | 58 | 3
-
Bài giảng Nguyên lý kế toán: Chương 8 - Đại học Mở TP.HCM
17 p | 70 | 2
-
Bài giảng Nguyên lý kế toán: Chương 8 - ĐH Mở TP.HCM
17 p | 53 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn