Tập san Nghiên cứu Văn -

Sử - Địa và vấn đề viết văn

học sử Việt Nam

3.2. Vấn đề văn học do người Việt Nam viết bằng chữ Hán

Sự thực vấn đề văn học do người Việt Nam viết bằng chữ Hán có được kể vào văn

học sử Việt Nam hay không vốn đã được khơi gợi ngay từ trước Cách mạng tháng Tám(5) và cơ bản đã được giải quyết ngay từ cuối năm 1956 sau khoảng ba năm trao đổi,

tranh luận khá sôi nổi và cũng khá… tốn công sức trên tập san Nghiên cứu Văn - Sử - Địa!

Với những mức độ đậm nhạt khác nhau, có thể nói tất cả các nhà nghiên cứu khi bàn tới

việc viết/ biên soạn văn học sử Việt Nam như Trần Đức Thảo, Nguyễn Đức Nam, Văn

Tân, Minh Tranh, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Nguyễn Minh Văn,

Lê Tùng Sơn, Nguyễn Lộc, Nguyễn Thế Phương, Lê Trọng Khánh… đều phải bộc lộ

chính kiến trước vấn đề tiên quyết này.

Vấn đề văn học do người Việt Nam viết bằng chữ Hán có được liệt vào văn học

sử Việt Nam đã chia đôi các nhà nghiên cứu thành hai phái rõ nét. Phái phủ định viện

dẫn tính dân tộc của ngôn ngữ, có ưu tiên cộng điểm những tác phẩm nêu cao tinh thần

yêu nước và chú ý phân chia giới hạn: “Gạt những bài văn viết bằng chữ Trung Quốc

ra ngoai cuốn Lịch sử văn học Việt Nam không có nghĩa là bỏ rơi những bài ấy đi,

không bao giờ nhắc đến cả. Một cuốn lịch sử văn học không phải là một cuốn lịch sử

văn hóa cũng không phải là một cuốn lịch sử tư tưởng. Có thể có những tác phẩm

người ta không nhắc đến trong một cuốn lịch sử văn học, nhưng trái lại trong một cuốn

lịch sử văn hóa chẳng hạn thì lại được ghi bằng những chữ lớn. Lọt sàng thì xuống nia,

có đi đâu mà lo” (tr.360); đồng thời xác định đây chỉ là “những tài liệu văn hóa rất quý

của chúng ta về các phương diện lịch sử xã hội, tư tưởng chính trị” (tr.458)… Ban đầu,

có nhà nghiên cứu kỳ vọng vào trọng tài trong nước: “Chúng tôi vẫn có ý chờ đợi việc

xuất bản nốt những tập kế tiếp của cuốn Đại cương về văn học sử Việt Nam của ông

Nguyễn Khánh Toàn” (tr.433) nhưng sách đã không có và sẽ không bao giờ có tiếp

nữa. Rút cuộc những người thuộc phái khẳng định (Minh Tranh, Lê Tùng Sơn, Nguyễn

Lộc, Nguyễn Thế Phương, Lê Trọng Khánh…) thắng thế. Điều này được đảm bảo

bằng bài tổng thuật của ông Văn Tân với sự viện dẫn ý kiến của trọng tài ngoại - một

đồng chí Triều Tiên am hiểu văn học: “Chúng tôi hỏi đồng chí này về thái độ của các

nhà văn học Triều Tiên đối với những bài văn chữ Hán do người Triều Tiên xưa đã

viết, thì đồng chí cho biết: “Ở Triều Tiên, các nhà văn học Triều Tiên nhận rằng trong

hoàn cảnh xưa kia khi nhân dân Triều Tiên chưa có văn tự, thì người Triều Tiên có thể

mượn chữ Hán để trước thư lập ngôn, do đó những tác phẩm văn học viết bằng chữ

Hán trong những điều kiện như thế có thể coi là văn học dân tộc của Triều Tiên

được”… Thêm nữa là ý kiến khẳng định của ông Vi Xác, Thứ trưởng Bộ Giáo dục

nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Trưởng đoàn đại biểu văn hóa và giáo dục của

nước bạn sang thăm Việt Nam hồi tháng 10-1956 khi kể lại:

“Hồi ông sang Triều Tiên cũng có rất nhiều tác phẩm do người Triều Tiên thời xưa

viết bằng chữ Hán, những tác phẩm ấy ngày nay được nhân dân Triều Tiên coi là văn học

dân tộc […].

Rồi ông Vi kết luận bằng một giọng quả quyết:

- Con đường của văn học Triều Tiên là con đường của văn học Việt Nam. Những

bài văn bằng chữ Hán do người ViệtNam thời xưa viết là văn học Việt Nam. Người nào coi những bài văn ấy không phải là văn học Việt Nam sẽ mắc sai lầm”(6)…

Tuy nhiên, trong thực tiễn xây dựng các bộ văn học sử, nhóm tác giả Lược thảo

lịch sử văn học Việt Nam (ba tập, 1957) chủ ý lược bỏ các tác phẩm viết bằng chữ Hán

trong khi các tác giả Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam (năm quyển, 1959-1960) lại chính

thức ghi nhận bộ phận văn học viết bằng chữ Hán vào di sản văn học dân tộc.

3.3. Phạm vi và vấn đề phân kỳ chia đoạn văn học sử Việt Nam

Nằm ở dòng chảy trung tâm của vấn đề viết/ biên soạn lịch sử văn học

Việt Nam trên tập san Nghiên cứu Văn - Sử - Địacó ba nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi,

Vũ Ngọc Phan và Văn Tân. Trong một chừng mực nhất định, các ông đã nêu lên một số

quan niệm, định hướng và bàn đến những phương pháp cụ thể liên quan đến phạm vi và

vấn đề phân kỳ chia đoạn văn học sử Việt Nam.

Vốn là người đã trực tiếp viết văn học sử với bộ Việt Nam cổ văn học sử từ hơn

một con giáp trước đó, Nguyễn Đổng Chi thực sự có kinh nghiệm và thẩm quyền

chuyên môn để bàn về cách thức viết/ biên soạn lịch sử văn học dân tộc. Trong tiểu

luận Vấn đề chữ viết trong văn học sử Việt Nam, sau khi đi sâu khảo sát các vấn đề học

thuật Trước lúc chữ Hán truyền sang, chúng ta đã có chữ viết chưa? - Chữ Nôm được

sáng tạo ra vào lúc nào và trong điều kiện nào? - Nhân dân Việt Nam đấu tranh cho

việc dùng chữ Nôm như thế nào?, ông tập trung thảo luận chủ đề Những sáng tác bằng

chữ Hán do người Việt viết có thể được liệt vào kho tàng văn học Việt Nam không? và đi

đến xác định: “Nói tóm lại, những sáng tác bằng Hán văn xưa do người Việt viết có một

nội dung dân tộc, nói lên được ý nghĩ và nguyện vọng dân tộc cần phải được liệt vào văn

học dân tộc. Nhìn vào thực chất của vấn đề là quan điểm căn bản mà chúng ta cần phải

nắm vững trong lúc phê phán văn học cũ của tiền nhân. Đồng ý với bạn Nguyễn Minh

Văn là giai cấp phong kiến Việt Nam đóng góp cho văn học dân tộc Việt Nam cũng ít ỏi,

nhưng không phải vì thế mà chúng ta nhắm mắt gạt tất cả những sáng tác bằng Hán văn

của họ đã phản ánh được xã hội của thời đại. Ngược lại, cũng không phải tham lam vơ

đũa cả nắm như cái lầm của một số các nhà chép văn học sử gần đây. Cả hai phái “hữu” và “tả” đó đều là do không nêu đúng tiêu chuẩn nội dung của văn học dân tộc”(7)…

Không sa đà vào câu chuyện bản quyền văn chương chữ Hán, ngay sau đó Nguyễn

Đổng Chi tiếp tục có tiểu luận Một vài vấn đề về văn học sử bàn rộng tới các nội

dung: Giới thuyết văn học và văn học sử (bản chất văn học - văn chương gồm hai yếu tố

nội dung và hình thức, văn học phản ánh đời sống hiện thực bằng lời nói “ngôn từ nghệ

thuật”; văn học - học thuật bao gồm văn học sử ghi lại những phong trào văn học phản

ánh quá trình đấu tranh của con người, phản ánh sinh hoạt xã hội, văn học truyền khẩu

chưa được thể hiện trên giấy trắng mực đen thì chưa thể kể vào văn học sử, đối tượng

của văn học sử là các tác phẩm văn học và đội ngũ tác giả…) – Văn học bắt nguồn từ

đâu? (những hoạt động của tư tưởng, cảm tình và tưởng tượng của con người là điều

kiện sinh ra văn học và đều do lao động sản xuất mà có…) – Văn học đối với hạ tầng cơ

sở và thượng tầng kiến trúc(văn học là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, là một

món ăn tinh thần của con người…) – Văn học phát triển trên cơ sở nào? (văn học gắn

với cơ sở xã hội, có ảnh hưởng qua lại giữa các vùng miền, dân tộc, đồng thời gắn với sự

phát triển của ngôn ngữ và tài năng nhà văn…). Tuy chưa hướng vào các vấn đề phân kỳ

văn học sử và hình thức cấu trúc các chương mục song nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng

Chi đã phác vẽ những quan niệm về đối tượng, đường hướng cơ bản của các khía cạnh

nội dung và chú ý đến quá trình phát triển văn học. Chắc chắn nhiều ý kiến của ông đã được thể hiện trong bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam(8) mà ông là một thành viên.

Đồng thời với Nguyễn Đổng Chi, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng có nhiều bài

viết liên quan đến các vấn đề văn học sử (Mấy ý kiến về vấn đề văn học cổ điển Việt Nam,

Mấy ý kiến về quyển “Văn học sử Việt Nam tiền bán thế kỷ thứ XIX”, Đáp lại một bạn về

mấy điểm trong “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam”…), đặc biệt với mục bài Mấy ý kiến

về những đặc điểm và những giai đoạn của lịch sử văn học Việt Nam. Sau khi soát xét lại

lịch sử vấn đề, phân tích mối quan hệ giữa văn học với lịch sử đấu tranh giai cấp, đặc

điểm xã hội với sự phát triển văn học, ảnh hưởng qua lại giữa văn học nhân dân và văn

học phong kiến, ông nhấn mạnh tính chất, đặc điểm sự phát triển văn học Việt Nam và

việc phân định các giai đoạn văn học sử. Về tính chất, ông dung hòa: “Còn theo ý chúng

tôi, trong sử văn học Việt Nam, trong sự phát triển của văn học Việt Nam qua các thời kỳ

lịch sử, chúng ta phải kể những tác phẩm chữ Hán có nội dung dân tộc rõ rệt và do người

Việt Nam viết, nhưng chủ yếu vẫn là nghiên cứu văn thơ ca quốc âm trên bước đường tiến

triển của nó […]. Những tác phẩm chữ Hán có nội dung dân tộc do người Việt Nam viết,

theo ý chúng tôi, ta không coi là những văn phẩm hoàn toàn Việt Nam nhưng chúng ta

phải nhận là nó đã có đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của văn học Việt Nam”

(tr.489). Về đặc điểm, ông chia thành 7 nội dung chính: “yêu hòa bình, yêu độc lập, yêu tự

do” - “văn học dân gian chiếm quá nửa toàn bộ văn học dân tộc” - “đặc tính truyền khẩu

kéo dài” - “mỗi ngày một tăng về chữ Trung Quốc mà ta đã phiên âm từ lâu theo tiếng

Việt” - “phát triển rất nhiều về văn vần” - “thể thơ Việt Nam (lục bát và song thất lục bát)

rất ăn nhịp với nhạc điệu của tiếng Việt Nam” - “đều mượn đề tài trong các truyện cổ của

Trung Quốc”… Hơn nữa, Vũ Ngọc Phan đã là người duy nhất hướng tới phân định lịch

sử văn học Việt Nam thành 6 giai đoạn: 1- Thời kỳ trước thế kỷ XIII; 2- Từ thế kỷ XIII đến

đầu thế kỷ XV; 3- Từ đầu thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX; 4- Từ nửa cuối thế kỷ XIX

đến 1930; 5- Từ 1930 đến Cách mạng tháng Tám; 6- Từ 1945 đến ngày nay… Việc viết/

biên soạn văn học sử tất yếu phải tính đến chuyện phân kỳ chia đoạn. Cách phân kỳ của

Vũ Ngọc Phan sau này không được hưởng ứng, nhất là với thời trung đại, nhưng vẫn có

thể coi đây là bước đi khơi mở ban đầu để các nhà văn học sử sau này tiếp tục góp ý kiến,

rút kinh nghiệm và hoàn chỉnh thêm.

Bên cạnh hai nhà nghiên cứu trên còn có ông Văn Tân cũng đóng góp hai bài viết

quan trọng góp bàn về việc viết/ biên soạn văn học sử. Trong tiểu luận có tính cương

lĩnh Vấn đề viết văn học sử Việt Nam, ông nêu những nội dung cơ bản nhưNhiệm vụ văn

học sử - Văn học sử Việt Nam phải là một võ khí đấu tranh - Vấn đề đánh giá các tác

phẩm văn học - Không nên lẫn lộn văn học sử với văn hóa sử - Ngữ ngôn Việt Nam trong

văn học sử - Vấn đề ca dao tục ngữ trong văn học sử Việt Nam - Truyện cổ tích, truyện

tiếu lâm và các hình thức văn học truyền miệng khác. Đặc biệt ông còn nhấn mạnh tới ba

nội dung liên quan tới phạm vi và phương pháp viết/ biên soạn lịch sử văn học

gồm Phương thức xây dựng văn học sử Việt Nam - Vấn đề phân định thời kỳ văn học sử - Vấn đề văn học sử Việt Nam và văn học sử các dân tộc thiểu số trên đất Việt Nam(9)… Có

điều kiện cập nhật thông tin và tham khảo các bộ lịch sử văn học Nga, Trung Quốc, Mông

Cổ, ông đã trình bày lại bài học kinh nghiệm về cách thức triển khai các nội dung liên

quan đến tác gia, tác phẩm và yêu cầu tất yếu của việc cần thiết phân định các thời kỳ văn

học sử. Như đã nêu trên, với bài viết Đã đến lúc tạm kết thúc cuộc tranh luận về vấn đề

“Có nên liệt những bài văn do người Việt Nam trước kia viết bằng chữ Hán vào văn học

dân tộc của ta không?”, ông Văn Tân đã công phu tổng kết lại các ý kiến trong cuộc trao

đổi, đưa thêm dẫn chứng thuyết phục để đi đến giải quyết dứt điểm và khẳng định tác

phẩm văn học chữ Hán do người Việt Nam viết chính là một bộ phận cơ hữu của nền văn

học dân tộc.

4. Kết luận

Qua hơn nửa thế kỷ nhìn lại những bước đi ban đầu của ngành khoa học xã hội có

thể thấy rõ công sức đặt nền móng của một thế hệ với tất cả những ưu điểm và hạn chế

thời đại không tránh khỏi. Xét cho cùng, hạn chế khách quan của thời đại cũng chính là do

con người và cơ chế tạo lập. Bài học nói riêng cho các cuộc trao đổi, luận bàn về việc viết/

biên soạn lịch sử văn học Việt Nam chính là yêu cầu người làm công tác khoa học phải có

tư cách khoa học, đặt mục đích khoa học lên trên hết và trung thực trước hết với chính

mình. Thực tế cho thấy tất cả những trích dẫn, biện giải, tranh luận nếu chỉ dựa trên những

uy tín ở đường biên và bên ngoài khoa học, cơ hội và hình thức chủ nghĩa thì sớm muộn

cũng bị vượt qua, đào thải. Qua thời gian dài, các bộ văn học sử ngày càng khắc phục

được lối bình tán xã hội học đơn giản, ngày càng gia tăng tính khoa học, phản ánh đúng

hơn bản thân tiến trình lịch sử văn học dân tộc. Rút kinh nghiệm từ bài học quá khứ, hy

vọng việc xây dựng bộ lịch sử văn học Việt Nam trường thiên hiện nay của Viện Văn học

mang tầm quốc gia chính là sự thể hiện khả năng tự ý thức về đối tượng, hướng đến xác

định những giá trị căn cốt và bao quát đầy đủ tính qui luật của nền văn học dân tộc