NGUYÊN XUÂN KÍNH



TÊN NGƯỜI TRONG CA DAO NGƯỜI VIỆT
NGUYÊN XUÂN KÍNH?)

A. NHẬN THỨC CHUNG VỀ HỌ VÀ TÊN NGƯỜI VIỆT
1. Các chức năng của tên riêng
Chức năng thứ nhất của tên người là chức năng phân biệt. Tên gọi là một thứ phù hiệu để phân biệt sự vật. Nói chung tên họ xuất hiện do nhu cầu phân biệt đối tượng này với đối tượng khác. Nhưng chỉ riêng về loài người mới có mỗi người một tên, còn đối với các loài động vật, thực vật, đồ vật thì không phải như thế. Đối với động, thực vật người ta thường chỉ cần phân biệt đến "loài" là đủ (chỉ có rất ít những động vật nuôi ở nhà gần gũi với chúng ta đôi khi mới có tên riêng: con Vàng, con Mực....). Đối với tên đất cũng vậy, không phải mỗi mét vuông đất đều có tên riêng, ta chỉ đặt tên cho những khu vực nào mà ta cần phân biệt. Như vậy, đối với con người, chức năng chủ đạo của tên gọi là chức năng phân biệt.
Chức năng thứ hai là chức năng biệt giới. lrước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ở người Việt tên gọi phụ nữ thường có chữ ứh¡. Sau này dù tên gọi không có chữ (h¿ thì những danh từ riêng như: Huyền Trang, Thu Huệ, Tuyết Lan,... thường được dùng để đặt tên cho con gái; những tên như: Hùng, Dũng, Chiến, Cường.... thường để đặt cho con trai. Chức năng biệt giới mạnh hay yếu tuỳ theo những đặc điểm ngôn ngữ, tập quán của mỗi dân tộc.
”'GS. TS, Viện Nghiên cứu Văn hoá.
Chức năng thứ ba là chức năng thâm mĩ. Chức năng này phổ biến trong hệ thống tên người của các dân tộc. Thông thương khi chọn và đặt tên, người ta có ý kỉ niệm một sự kiện nhất định. Ở thế kỉ XIX. sau khi đỗ giải nguyên năm 39 tuổi, năm sau hỏng khoa thi hội, khi vào học Quốc Tử Giám, cử nhân Nguyễn Thắng đổi tên là Nguyễn Khuyến. Ở thế kỉ XX, tại một làng quê Nam Bộ, khi sinh con trong tiếng súng, cha mẹ cậu bé đã đặt tên con mình là Nguyên Thái Bình với ước mong sau này con mình sẽ được lón lên trong canh thanh bình”. Thông qua việc đặt tên, người ta còn thể hiện những thị hiếu riêng. Việc đặt tên còn được chi phối bởi truyền thống.
phong tục tập quán, mốt....
Chức năng thứ tư là chức năng bảo vệ. Sở đĩ có chức năng này là vì xưa kia do mê tín, người ta tin rằng tên là một cái gì thiêng liêng và có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người. Những nhà hiếm hoi hoặc những nhà đẻ được thương chọn những cái tên thật xấu xí đặt
không nuôi
cho con để khỏi bị "ma bắt". Người ta còn kiêng không đặt trùng với tên ông cha hoặc tên các vị thần thánh. Người xưa tin rằng, nếu khéo chọn tên không những có thể tránh dược tai hoạ cho đứa trẻ mà người mang tên đó còn được thánh thần, tổ tiên phù trợ.
Chức năng thứ năm là chức năng xã hội. Trong xã hội cũ, giữa các tầng lớp vua quan, trí thức và dân thường có sự phân biệt rõ ràng không chỉ vì tiền tài, địa vị, học thức mà sự phân biệt còn lan sang cả tên người. So sánh các tên gọi: Nguyễn Phước Miên Thẩm, Nguyên Phước Vĩnh Thụy, Tôn Thất Vĩ, Tôn Thất Tùng với các tên gọi: Đô Thị Rách, Hoàng Thị Seo, Chí NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
17
——ỄễEEEEEễỄỄễ—ỄEEE—
Phèo chúng ta sẽ thấy ngay ai thuộc dòng dõi quý tộc, ai là dân nghèo. Chức năng xã hội của tên gọi còn thể hiện ở việc đổi tên theo lứa tuổi trong xã hội cũ. Khi còn nhỏ. một số người thường được gọi bằng những tiếng: Cụ, Cún, Tủn,... Đến khi lớn những người này sẽ được gọi bằng những tên khác. Khi phụ nữ lấy chồng thì gọi theo tên chồng, khi có con thì gọi theo tên con chứ ít khi gọi theo tên thật của mình'””.
2. Nguyên tắc đặt tên
Theo Trần Ngọc nguyên tắc:
Thêm, có
+ Ngắn gọn + Tránh trùng + Biệt giới + Thâm mi. 3. Các mô hình họ tên Theo Nguyễn Kim Thân có mô hình sau: (1) Họ + đệm + tên riêng (2) Họ + tên riêng (3) Họ + thị + đệm + tên riêng.”
Theo Trần Ngọc Thêm có hai mô hình sau:
(1) Tên họ + tên riêng (tên riêng nam). (2) Tên họ + tên đệm + tên riêng (tên nam).
Tên họ + tên đệm + tên riêng (tên sex VẢ nữ).
Theo Lê Trung Hoa có mô hình sau:
(1) - Tên chính Ho (A) -----=--====~=~=~~~~~~~~~~~~~~~~ Đơn (©) / Phức (C'`) Ví dụ: AC Lê Cứu Hà Dung
AC' Nguyễn An Ninh Đào Cẩm Tú
(2) Tên đệm Tên chính
Họ À --~-------=~~~~~~~~~~~~~~~=~=~======~=~ Đơn (B)/ Phức (B) Đơn (C)/ Phức (C) Ví dụ: Nam Nữ
ABC Lê Văn Hưu ABC' Nguyễn Lê Hi Đăng
Nguyên Thị Dung Nguyễn Thị Cẩm Thạch
ABC Trần Văn Hiển Minh Phan Ngọc Lan Hồng ABC' Trần Thành Đăng Nguyễn Cửu Thị Chân Tín Kim ChÉ”
B. CÁCH THỨC SỬ DỤNG VÀ CÁC LOẠI TÊN RIÊNG CHỈ NGƯỜI TRONG CA DAO
1. Cách thức sử dụng
Trong số 12487 lời ca dao, có 420 lời sử dụng tên riêng chỉ người, chiếm 3,44%.
Trong 1.100 bài thơ tình của tám tác giả thuộc dòng văn học viết (Nguyên Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà) có 209 bài sử dụng tên riêng chỉ người, chiếm 19%.
Như vậy. so với văn học viết, số lời ca dao sử dụng tên riêng chỉ người có tỉ lệ thấp hơn.
Tên riêng chỉ người trong ca dao có các loại dưới đây:
+ Tên gồm cả họ, tên đệm và tên chính: Hạ Nghinh Xuân, Kim Hồ Điệp, Tôn Thất Thuyết...
+ Tên gồm họ và tên chính: Hàn Tín, Lý Bụch, Lê LưI....
+ Tên chỉ có tên chính: Tín, Kiều....
+ Tên chỉ có họ: Đinh, Đôỗ....
+ Tên gọi theo niên hiệu, tên thuy: Vĩnh Tộ, Thúi Tổ, Thái Tông...
+ Tên gọi theo hiệu xưng: Bình Định Vương. 18
NGUYÊN XUÂN KÍNH
——=ễễễEEễEễỄễẼEỄ— QC.
Ca dao là thơ dân gian. Diễn tả đầy đủ một tên người bao gồm cả họ, tên đệm, tên chính là một việc không dễ dàng. Có khi tác giả dân gian sử dụng hình thức lục bát biến thê (kéo dài số tiếng ở dòng tám (bát), chăng hạn):
Trời ơi, sinh giặc làm chỉ Để ông Tôn Thất Thuyết phai cõng 0uua
Hàm Nghỉ uào rừng ?°
Có khi người bình dân phai tách các bộ
phận hữu cơ đó ra: Có chàng Công Trúng họ tinh Dựng luỹ Ba Đình chống đánh giặc Tây... “
Vì khó khăn đó, trong ca đao cũng như trong thơ trữ tình của dòng văn học viết, rất hiếm loại tên người bao gồm cả họ, tên đệm và tên chính.
2. Các loại tên riêng chỉ người (xét theo tiêu chí thuộc dân tộc nào?)
Trong kho tàng ca dao người Việt, có bốn loại tên gọi:
+ Tên người Việt:
Nước chay xuôi con cá buôi lội ngược
Nước chay ngược con cá 0uược lội ngang
Hấm hìu thiếp chẳng gặp chùòng
Thôi thì coi nhau như Lưu Bình,
Dương Lê trọn uen cả hai đàng đó anh.
Lưu Bình, Dương Lễ là tên người Việt. Theo truyện Nôm cùng tên, một người ở Sơn Tây, một người ở Bắc Giang.
+ Tên người Hán :
Anh thương em, em nói chuyện đưa đò
Tỉ như con Đát KỶ nó phò Trụ uương. ”'
Trụ vương tức vua Trụ, ông vua cuối cùng của nhà Ấn (Trung Quốc). Theo Niên biêu Việt Nam, nhà Thương rồi sau đó là nhà Ấn tồn tại từ năm 1766 tr. CN đến
năm 11229 tr. CN”. Ông vua này say mê Đát Kỉ, làm nhiều điều bạo ngược. Sau khi ông ta chết, người ta đặt tên là Trụ (dây buộc ngựa).
+ Tên người Chăm:
Bô Bô nót uới Phường Chào
Xem tôi uới chị, bên nào hiện hơn.
Phường Chào là tên một vị thần, được thờ ở một làng thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam, còn Bô Bô là tên một viên tướng người Chăm ở thế kỉ XV.
+ Tên người Pháp:
Vào ngày hăm hai thang ba hà năm băm sáu chúng ta một lòng Béc-na nó bao tăng công lút cục một xu chăng có, một đồng cũng hông Bado nhau ta quyết đình công Để xem chúng nó xoay cùng ra sao.
Trong số 420 lời ca dao có sử dụng tên riêng chỉ người, có 244 tên người (được sử dụng 627 lần); trong đó tên người Hán là 135 (chiếm 55,32%) được sử dụng 389 lần (chiếm 62,04% tổng số lần sử dụng); tên người Việt là 104 (chiếm 42,62%), được sử dụng 211 lần (chiếm 42,62% tổng số lần s dụng); tên người Pháp là 3 (sử dụng 95 lần); tên người Chăm là 9 (sử dụng 9 lần).
Trong số 1100 bài thơ của tám tác giả của dòng văn học viết (từ Nguyễn Trãi đến Tan Đà) có 209 bài sử dụng tên riêng chỉ người, chiếm 19%, trong đó có 334 tên ngươi (được sử dụng 399 lần): tên người Hán là 247 (chiếm 73,95%) được sử dụng 278 lần (chiếm 69,62% tổng số lần sử dụng); tên người Việt là 84 (chiếm 25,20%) được sử dụng 118 lần (chiếm 29,55%) tổng số lần được sử dụng): tên người Pháp là 9 (sử dụng 2 lần); tên người Chăm là 1 (sử dụng 1 lần). NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI


Xin xem bang:
Sử dụng tên người
Bài, tên người

Nguyễn Trãi
Lê Thánh Tông
108 20
Nguyễn Bỉnh Khiêm
42 Hồ Xuân Hương
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn 27
Khuyên 135 37
9
Tú Xương 28
Tản Đà
173 42 5 66 31 2ï 62 37 1 { { Ị PL SESESESESESEIETIERERERRER
C. BA CHỦ ĐỀ PHÔ BIẾN TRONG CA DAO CÓ TÊN RIÊNG CHÍ NGƯỜI
1. Phản ánh tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng là chủ đề phổ biến nhất Kim Trọng và Thuý Kiểu là hai nhân vật chính trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tác giả ca dao đã nhắc đến họ trong tiết thanh minh để diễn tả tình cảm của chàng trai và cô thôn nữ: Bây giờ tôi mới gặp tình Khúc gì Kim Trọng thanh mình gặp Kiêu Tiện đây tôi hỏi một điều Đài gương soi đến dấu bèo cho nhau Từ khi ăn một miếng trầu Miêng ăn một miếng dạ sầu tương tư Vì người tôi phỏi uiêt thư Mươn con chữm nhạn đưa thư cho người Thư rằng em chứa có di
TYên nghiên dưới mực, guữa cài chữ sen. !*?
Ö Trung Quốc xưa, Bá Nha là người giỏi đàn, Chung Tử Kì là người sành thưởng thức. Khi đàn, Bá Nha nghĩ đến núi cao, Chung Tử Kì nói: "Cao vòi vọi như núi Thái Sơn'". Bá Nha nghĩ đến sông nước,
Tên người Việt | Tên người Pháp lân tên lân tên lân tên lần lên

Tên người Chăm
ê Z 0 0

Chung Tử Kì liền khen: "Mênh mông như Trường Giang, Hoàng Hà!". Bá Nha muốn bày tỏ tình ý gì qua tiếng đàn, họ Chung đều thấu hiểu. Về sau Chung Tử Kì chết, Bá Nha treo đàn, không đánh nữa, cho răng trên đời không còn ai hiểu được nghệ thuật của mình.” Khi bày tổ tình cảm, người bình dân Việt Nam đã sử dụng điền tích này: Đứng bên ni lòng trông UỜI UỢI Qua bhỏi sông rồi gặp hội đờn ca Từ Kì gặp lại Bá Nha Đờn ơi lên dây cho đúng bậc, để sáo hoà đôi câu.
Chức Nữ (Á Chức) là cháu Trời, làm nghề dệt vải rất siêng năng. Trời ga Chức Nữ cho Khiên Ngưu (chàng Ngưu). Hai vợ chồng quá âu yếm nhau, không giữ đúng phép Trời. Trời phạt, đem đày mỗi người ở một bên sông Ngân Hà. Mỗi năm, Trời chì cho phép hai người qua sông gặp nhau một lần. vào đêm ngày mồng bảy tháng bay, do cái cầu của chim ô (chim quạ) và chim thước (chim khách) bắc. Vợ chồng gặp nhau 20
NGUYÊN XUÂN KÍNH
——_EEEEEE———ỄễEEEEEEEE-ễ-ễễ“.
khóc than về cảnh l¡ biệt. Nước mắt chan chứa, rơi xuống trần gian thành mưa dầm tầm tã, tục goi là “mưa Ngâu tháng bảy"."” Để diễn tả cảnh chia li, không ít lần người bình dân nhắc đến Ngưu Lang, Chức Nữ: + Cái duyên Chức Nữ Ngưu Lang Cầu Ô đã bắc lại toan dứt cầu.
+ V¡ ơì một dai sông Ngân Làm cho Chức Nữ chẳng gần Ngưu Lang.
2. Châm biếm thói hư tật xấu, hài hước trào lộng là chủ đề phổ biến thứ hai
Dân gian châm biếm thói trăng hoa:
Nam mô ba chữ từ bị Phát còn ue gái, huông chỉ thày chùa.
Dân gian còn tố cáo những nhân vật chóp bu của chế độ quân chủ:
Tư ngày Tự Đúc lên ngôi Cơm chẳng đầy nồi trẻ bhóc như rị.
Ngày 5 tháng 7 năm 1885 là ngày kinh đô Huế thất thủ. Vì phong trào Cần Vương, mặc dù Pháp đã đặt Đồng Khánh lên ngôi, cuộc kháng chiến chống Pháp vẫn không chấm dứt. Ở các vùng Quang Nam, Quảng Ngãi và Nghệ An, Hà Tĩnh, những người yêu nước vẫn tiếp tục chiến đấu dưới lá cờ Hàm Nghị. Một mặt, dân chúng ca ngợi vua Hàm Nghi, mặt khác, họ đã kích Đồng Khánh:
Trời ơi! Trông xuống mò coi
Nước Nam cơ bhô, “con trời” hai ông
Hàm Nghi đích thực uua trung
Còn như Đồng Khánh là ông uua xăng.
Những viên quan theo Pháp như Hoàng Cao Khải, Lê Hoan đã bị lên án:
Khuyến Ưng hai gă Khải, Hoan
Theo Tây hại nước, giàu sang riêng
mình...
3. Ca ngợi những người có công đức với dân với nước là chủ đề có số lời nhiều thứ ba
Bá Di và Thúc Tế là hai con của vua nước Cô Trúc. Cô Trúc là nước chư hầu của nhà Thương (Trung Quốc cổ đại). Khi Vũ Vương, một chư hầu khác của nhà Thương tiến đánh vua Trụ nhà Thương thì Bá Di, Thúc Tểế ra sức can ngăn. Vũ Vương diệt Trụ, lập ra nhà Chu. Bá DI, Thúc Tế cho việc làm của Vũ Vương là bất nghĩa nên không thèm ăn thóc nhà Chu. ân trên núi Thú Dương, hái rau vì ăn, sau chết đói trên núi. Mạnh Tử khen hai ông là bậc "thánh chì thanh” (trong sạch bậc thánh). Ca dao người Việt đã ghì nhận hai nhân vật lịch sử này của Trung Quốc:
Thú Dương còn lá rau 0i
Ngàn năm sẽ nhớ Bá Di, Thúc Tề.
Thế kỉ XV, sau khi giặc Minh đặt ách đô hộ nước ta, Lê Lợi đã dấy binh khởi nghĩa. Từ chô lấy rừng núi Thanh Hoá làm căn cứ, từ chỗ đánh những trận nhỏ, nghĩa quân đã tiến về đồng bằng, đóng đại quân ở C(ia Lâm, bao vây, uy hiếp quân giặc lúc đó đang co cụm lại trong kinh thành Thăng Long. Dân chúng mong chờ ngày đại thắng cua nghĩa quân:
Lạy trời cho cq gió lên Cho cờ uua Bình Định bay trên binh thành.
Vua Bình Định, tức Bình Định Vương là hiệu xưng của Lê Lợi lúc đó.
Vua Hùng, vị vua Tổ của nước Việt, ngươi Việt cùng đức Thánh Gióng nhiều lần được khắc ghi trong ca dao:
+ Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ấn sai hai tám tưởng cường nữ nhung
Xâm cương cậy thế bhoe hùng Kéo sang đóng chặt một 0uùng Vũ Ninh NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI


Trời cho thanh tướng giáng sinh
Giáng uê Phù Đống ấn hình ai hay Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy uua cầu tướng ngày rày ra quân Gọi sứ phán bdo ân cần
Gươm uùòng ngựa sốt đề bình tức thì Thánh uương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét tứ bề giặc tan Áo thiêng cởi lại Linh San
Thoắt đà thoát nơ trần hoàn lên Tiên Miếu đền còn đấu cố uiên
Sử xanh bia đó tiếng truyền tự xưa Ức niên hương hod phụng thờ
Đời đời bhang thái ơn nhờ Hùng Long.
+ Nhớ xưa đương thuở triều Hùng
Vũ Ninh nối đám bụi hồng nẻo xa Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thdo mãng nay ra bì tài Lên ba đang tuổi anh hòi
Roi ngù ngựa sắt ra oai trận tiền Một phen bhói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời.
Theo truyền thuyết, giặc Ấn có 28 nữ tướng. Vũ Ninh xưa gồm các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang hiện nay. Phù Đổng nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Linh San tức núi Vệ Linh, còn gọi là Sóc Đơn (núi Sóc), ở phía trên Phù Lô, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Hùng Long tức Hùng Vương và Lạc Long Quân.
Ngoài ba chủ đề phổ biến đã phân tích, trong bộ phận ca dao sử dụng tên riêng chì người còn có các chủ đề khác: phản ánh cuộc sống sinh hoạt, lao động của dân chúng, nỗi khổ cực của người dân.... ÖỎ các chủ đề này, số lượng ca dao có tên riêng chỉ người chiếm tỉ lệ rất thấp.
Trên đây là ba chủ đề phổ biến nhất trong mảng ca dao sử dụng tên riêng chì người. Điều này cũng khác với việc sử dụng tên người trong văn học viết.
ÃÌ
Ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, tên ngươi Hán chiếm 71,7%, tên người Việt chiếm 38,3%. Ba chủ đề phổ biến nhất là bộc lộ chí hướng, là thể hiện tâm trạng, cam xúc, suy tư của các thi nhân: là ca ngợi những người cö công đức; là châm biếm, trào phúng quan tham lại nhũng, những thói hư tật xấu.
Chủ để nói chí là chủ đề thường gặp.
Trong bài Bdo bính canh giới số 26 (Gương báu để răn đe), Nguyễn Trãi viết:
Trong tạo hoú có cơ mầu
Hay đô, hay dừng, mới bẻo âu
Nước biế† non xanh, thuyền gối bãi
Đêm thanh, nguyệt bạc, bhúách lên lầu
Chén châm rượu đục ngày ngày cạn
Túi quấy thơ nhàn chốn chốn thâu
Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến
Đồng Giang được nấn một đài câu.
Câu thứ hai có nghĩa là: Biết khi nào nên đỗ lại, nên dừng lại thì mới khỏi lo.
Câu thứ bảy có nghĩa là: Hèn gì Nghiêm Quang từ chăng đến.
Nghiêm Quang tức Nghiêm Tử Lăng, bạn của Lưu Tú (Hán Quang Vũ). Khi Lưu Tú lên làm vua. Nghiêm Quang đổi tên họ, trốn đi ở ấn tại núi Phú Xuân, tỉnh Chiết Giang, câu cá ở sông Đồng Giang, chô ông
~* ^ˆ ~ ` ` .. n - (1 1) ngồi câu về sau được gọi là đài Tư Lăng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm hai lần nhắc đến Nghiêm Quang: + Kham hạ Nghiêm QQuang từ tước Hán Tam công khứng đổi một cần câu (Hèn gì Nghiêm Quang chối từ chức tước nhà Hán Bằng lòng đem chức Tam công vua
ban đổi lấy thú câu cá trong đời ẩn dật).'`” ˆo
NGUYÊN XUÂN KÍNH
——£ễ=—Eễ BE ơƠẦẨẪơămêăêmc
+ Kủa bìa Lữ Vọng câu Bàn Thạch No nọ Nghiêm Quang núáu Phú Xuân
(Khương Tử Nha, hiệu là Lã Vọng, tuổi đã già (80 tuổi) vẫn ngồi câu cá ở Vị Thuỷ, trên phiến đá trắng (Bàn Thạch), sau được Chu Văn Vương đón về làm quân sư. Sau khi Văn Vương mất, Khương Tử Nha giúp Vũ Vương diệt vua Trụ nhà Thương, lập
nên cơ nghiệp nhà Chu).''°
Như vậy, qua các trích dân, chúng ta thấy có lúc cä Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều mượn điển Nghiêm Quang để ca ngợi thú thanh nhàn, vẻ thanh cao của cuộc đời ấn dật. Cũng qua các trích dẫn trên, chúng ta thấy, có khi Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn tấm gương Lữ Vọng để nói lên
cái chí muốn ra giúp nước khi có vua hiền.
Trong bài Wgôn chí số 18, Nguyễn Trãi nhớ đến Phạm Trọng Yêm. Ông này là người Trung Quốc, thế kỉ XI, đời Tống, tên thuy là Văn Chính, có câu: “Tiên thiên hạ chì ưu nhị ưu, hậu thiên hạ chỉ lạc nhì lạc” (Lo trước cái lo thiên hạ, vui sau cái vui thiên hạ). Cái chí muốn vui sau thiên hạ thì không quản ngại chịu âu lo đã được Ức Trai thổ lộ khi nhắc tới tiền nhân:
Tu ắt lòng bằng Văn Chính nữa
Vui xưa chống quản đeo âu. ??
Trong bài Cẩm bì thi tửu, sáng tác khi còn ở thời bạch diện thư sinh, Nguyễn Công Trứ tự cho mình là người giỏi chơi đàn, thạo đánh cờ, biết làm thơ và thưởng rươu giữa canh đẹp thiên nhiên. Làm thơ phải giỏi như Đồ Phủ, Lý Bạch (hai nhà thơ nổi tiếng đời Đường), thưởng rượu phải sành như Lưu Linh (một trong bảy người hiền ở rừng trúc đời Tấn), chơi đàn phải giỏi như Bá Nha, đánh cờ phải như Đế Thích. Nhà thơ lúc chưa gặp thời như Lã Vọng câu cá ở bến sông VỊ, Y Doãn cày ruộng ở cánh đồng
Sàn, sau này sẽ có xe của chân chúa đến
đón, lập nên nghiệp lớn.
Nợ tang bồng hẹn bhúch thiếu niên Cuộc hành lạc uây uùng cho phủ chí Thơ một túi gieo uần Đô Lý
Rươu một bầu rót chén Lưu Linh Đàn Bá Nha gay hhúc tính tang tình Cờ Đế Thích đi uề xe phúo mã
Lúc uị ngộ, Vị tân Săn dã
Lấy bút nghiên mò hẹn uới non sông Xe Thang Văn nhất đán tao phùng
Bao nhiêu nợ tang bồng đem giả hết. *Ÿ
Như vậy, trong một bài thơ nói chí, Nguyễn Công Trứ sử dụng bảy tên riêng chỉ người: Đô (Phủ), Lý (Bạch), Lưu Linh, Bá Nha, Đế Thích, (vua) Thang, Văn (Vương).
Gặp lúc thời thế đảo điên, không có vua hiển, chúa giỏi, Nguyễn Khuyến cáo quan về làng VỊ Hạ, tỉnh Hà Nam. Ông mượn rượu để giải khuây. Để thổ lộ tâm sự, Nguyễn Khuyến nhắc đến Tuý Ông, đến Chu Bá Nhân. Tuý Ông là tên hiệu của Âu Dương Tu đời Tống, tác giả của bài Tuy Ông đình bí (bài kí đình Ông say). Chu Bá Nhân tức Chu Nghị, tự là Bá Nhân, người đời Tấn, gặp loạn ông cáo quan về ẩn dật ở (Giang Đông, uống rượu say liên miên, có khi chỉ tỉnh được ba ngày là lâu nhất. Nguyễn Khuyến viết:
Tuy Ông ý chẳng say uề rượu
Say uì đâu nước thắm uới non eao Non lạnh ngắt, nước tuôn ào
Tôi uới bác xưa nay cùng thích thế! Đời trước thúnh hiền đều Uuắng uẻ Có người say rượu tiếng còn nay Cho nên say, say bhướt cd ngày
Say mù chẳng biết răng say ngã đùng Chu Bá Nhân thuở trước Sang sông Chỉ tính rượu ba ngày bhông phỏi ít Kêu gào thế cười chỉ cho mệt NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI


“—————————————————— ẽễẼẼẽẼẼẼẽẽẽẽ kẽ kh
Chó buôn chỉ nghe tiếng hát làm say Xin người găng cạn chén này. *?
Ca ngợi những ngươi có công với nước với dân cũng là một chủ đề phổ biến trong những sáng tác có tên riêng chỉ người thuộc dòng văn học viết.
Theo lời kế dân gian, vào thời Hùng Vương, ở vùng Khoái Châu (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), Chử Đồng Tứ tuy nghèo đến nỗi không có nổi chiếc khố che thân nhưng vô cùng hiếu thảo. Tình cờ chàng gặp công chúa Tiên Dung trên bãi sông. Hai người lấy nhau rồi thành tiên bay lên trời. Vào thế kỉ thứ VI, Triệu Quang Phục có lần bị giặc Lương (Trung Quốc) bao vây ở đầm Nhất Dạ, được Chử Đồng Tử cưỡi rồng đến trao cho chiếc móng rồng làm vũ khí giết giặc. Nhơ đó mà Triệu Quang Phục đánh tan ngoại xâm, tự xưng là Triệu Việt Vương. Vào thế kỉ XV, tương truyền khi chưa tìm được minh chủ, Nguyễn Trãi đến lễ ở đền thờ Chử Đồng Tử và được thần linh báo cho biết chân chúa Lê Lợi đang ở Lam Sơn, Thanh Hoá. Sau đó Ức Trai vào giúp Lê Lợi, lập nên nghiệp lớn. Trong bài Chử Đồng Tử, Lê Thánh Tông ca ngợi vị thánh này một cách cô đọng mà đầy đủ:
Hiếu thủo dòng nhà thấu bích thiên Đành hay phúc thiện máy từ nhiên Mấy thu bhó nhọc rèn gan sốt
Một phút giàu sang hết bạn tiên Triệu Việt nạn xong nên nghiệp ca Ức Trai mộng tỏ phỉ lòng nguyên Anh linh miếu dõi lừng hương hhói Còn nước còn non tiếng hãy còn.
Vào thế kỉ I đầu CƠN, nước ta bị nhà Hán đô hộ, chúng thi hành nhiều chính sách tàn bao. Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhi khởi binh đánh đuổi thái thú Tô Định, đền nợ nước trả thù nhà. Trong bài 7rưng Vương, Lê Thánh Tông viết về chiến công
oanh liệt này, chiến công mở đầu cho truyền thống “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” của dân tộc ta:
Tô Định bay hồn uang một trận Lĩnh Nam mở cõi uững trăm thành. “?'
Trong thời quân chủ, nước ta thuộc khu vực văn hoá Đòng Á mà Trung Quốc là trung tâm. Một mặt cha ông ta bao lần đứng lên cầm vũ khí đánh đuối giặc xâm lược phương Bắc; mặt khác, người Việt xưa lại không mang tư tưởng dân tộc hẹp hòi. Nếu người xưa có công đức, thì dù họ là người Việt hay người Hán, cũng đều được các thì nhân nước Việt ngợi ca. Thiệu Công Thích đời Chu Vũ vương (Trung Quốc) khi đi kinh lí nước Nam, thường ngồi dưới gốc cây cam đường để nghỉ ngơi. Khi Thiệu Công đi rồi, nhân dân nhớ công đức làm thơ ca ngợi. Về sau sáng tác này được sưu tập vào Kinh Thị. Đó là bài Cam đường ở thiên Thiệu Nam. Nguyễn Trãi viết:
Thấy bóng cam đường nhó Thiệu Công
Đất dư dời được bạn cùng thông
Bút thơ đã chép hương còn bến
Ngâm ngợi nào di chăng động lòng. “”
Trong bài Thuỷ thiên nhất sốc, Ức Trai rung động trước vẻ đẹp trời nước một màu của thiên nhiên nước Việt. Vẻ đẹp ấy lung linh huyền ảo đến mức Vương Duy (tự Ma Cât), một thi gia kiêm họa gia nổi tiếng ở đời Đường (Trung Quốc) cũng khó vẽ nối, đến mức Tạ Điêu (tự Huyền Huy), một nhà thơ lừng danh đời Nam Tề cũng khó diễn tả:
Trời nøghL ngút nước mênh mông
Hai ấy cùng xem một thức cùng
Gương tho chìm tăm Hai Nhược
Nhà giao dãi bóng Thiểềm cung
Bút thiêng Ma Cát tay hhôn mạc
Câu bhéo Huyền Huy ý chứa đông
Rẽ có chim bay cùng cá nhay
Mói hay bia nước nọ hư không. “” 24
NGUYÊN XUÂN KÍNH


Giữa lúc “non xanh nước biếc sang người trắng da”, Tân Đà viết nhiều bài ca ngợi các anh hùng dân tộc như Đình Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh DỊ, Lê Lợi, Đinh Công Tráng.
Quang Trung,
Phê phán bọn quan tham lại nhũng, trào lộng những thói hư tật xấu, những cái rởm đời cũng là một chủ đề khá phổ biến trong những sáng tác có tên riêng chỉ người của đòng văn học viết.
Trong bài Kiều bán mình, Nguyễn Khuyến chế giêu cả quan xưa và quan nay:
Thăng bán tơ bia giở mối ra
Làm cho uương đến cụ Viên già
Muôn êm phai biện ba trăm lạng
Khéo xếp nên liều một chiếc thoa
Đón bhách mượn màu son phấn mụ
Đem thân chuộc lấy tội tình cha
Có tiền uiệc ấy mà xong nhỉ?
Đời trước làm quan cũng thế a1”?
"Tú Xương có la liệt một cái hành lang treo tranh bày tượng, tranh tượng những kẻ rỡơm đời, những người gian xấu, những danh giá hão, những giá tri vờ...” Đó là tú Tây Hồ, đồ Xuân Dục nổi tiếng keo kiệt, ăn chạc; là ông đồ Bốn bán hàng sắt “không học mà sao cũng gọi đổ”, "ăn nói nhề nhàng khác giọng Ngô”; là anh chàng Thọ nhu nhược “để vợ chơi nhăng”; là mẹ cậu ấm Kỷ dan díu với tiểu chùa Phù Long; là chủ kì thì sơ khảo khoa Canh Tí (1900) tên là Phó Huy Nhu, xuất thân trong một gia đình bán thuốc:
Sơ bhdo bhoa này bác cử Nhu Thực là uừa dôt lại uừa nøu Văn trường nào phảai là đơn thuốc
Chớ có khuyên xăng, chết bỏ bu?
Trong những sáng tác có sử dụng tên người của các tác gia thuộc dòng văn học viết, bài Điếu Vũ Nương của Lê Thánh Tông nói về bi kịch của cặp vợ chồng Vũ Thị Thiết - chàng Trương; bài Khóc tổng cóc là bài thơ khóc chồng độc đáo của Hồ Xuân Hương; bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến là bài thơ viết về tình bạn thật hay và thật cảm động. Tuy nhiên trong thơ bác học có sử dụng tên ngươi, những bài viết về tình cảm vợ chồng, tình bạn có thể đếm trên đầu ngón tay; hầu như không có bài nào viết về tình yêu lứa đôi. Điều này rất khác với ca dao có tên riêng chỉ người.
N.X.K
(1) Vào đầu những năm 70 của thế kỉ XX. Nguyễn Thái Bình là một sinh viên yêu nước, có những hành động ngay tại nước M1, phản đối cuộc chiến tranh xâm lược, bị chúng trục xuất và hèn nhát sát hại anh trong chuyến bay từ Mi về Sài Gòn.
(2) Trần Ngọc Thêm, "Về lịch sử, hiện tại và tương lai của tên riêng trong người Việt", Tạp chí Dân tộc học, Hà Nội, số 3, năm 1976.
(3) Nguyễn Kim Thản, "Vài nét về tên người Việt", Tạp chí Dân tộc học, Hà Nội, số 4, năm 1975.
(4) Trần Ngọc Thêm, Bdd.
(5) Lê Trung Hoa, Họ uà tên người Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 9009, tr.25 - 26.
(6) Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (đồng Chủ biên), Kho tàng ca dao người Việt, tập TL; Nxb Văn hoá thông tin tái bản, Hà Nội, 2001, tr.2468.
(7) Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (đồng Chủ biên), Sđd, tập I, tr.600.
(8) Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (đồng Chủ biên), Sđd, tập II, tr.1811.
(9) Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật (đồng Chủ biên), Sđd, tập L, tr.159.
(10) Vụ Bảo tồn bảo tàng, Niên biếu Việt Nam, 1n lần thứ 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984. NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25
—=——=—=ï———ễễ—
_ 1) Có thể hiểu: Sen là thanh sạch, trong trăng, dù ở gần mực nhưng cô gái không dây bân, vân trinh trắng.
(12) Đình Gia Khánh (Chủ biên), Điển cố
Uuăn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr.40G. |
(13) Đình Gia Khánh (Chủ biên), Điển cố
uăn học, Sdd tr.105.
(14) Mai Quốc Liên (Chủ biên), Nguyễn Trai toàn tập tân biên, tập LH, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr.991 - 992. Trong di cảo của Nguyễn Trãi có 61 bài Bdo bính cảnh giới.
(15) Định Gia Khánh (Chủ biên), 7hơ uăn Nguyên Bỉnh Khiêm, Nxb Văn học, Hà Nội, 195, t.ÌB1 - 152.
(16) Đình Gia Khánh (Chủ biên), Thơ uăn Nguyên Bỉnh Khiêm, Sdd, tr. 164.
(17) Mai Quốc Liên (Chủ biên), Nguyên Trãi toàn tập tân biên, tập TT, Sdd, tr.677 - 678. Sách này chú thích: vuI xưa = vul sau.
Trong di cảo của Nguyễn Trãi có 21 bài Ngôn chí.
(18) Trương Chính biên soạn, Thơ uăn Nguyên Công Trứ, Nxb Văn học, Hà. Nội, 1985, tr.67 - 68.
(19) Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, Nguyễn Khuyến tác phẩm, tái bản lần thứ nhất, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.111 - 119, bài Uống rượu ở uườn Bùi.
(20) Mai Xuân Hai (Chủ biên), Thơ uăn Lê Thúnh Tông, Sdd, tr.104.
Sách này chú thích: ¿hấu bích thiên: thấu trời xanh; máy từ nhiên có nghĩa là: mây tự nhiên. _
(21) Mai Xuân Hai (Chủ biên), Sdd, tr. LOG. |
(22) Mai Quốc Liên (Chủ biên), Sdd, tr.1176 - 11//.
Sách này giai thích:
Cây cam đường: còn gọi là đường lê, qua ăn được.
Đất dư dời được: ý nói đã dời cây cam đường đến trồng ở bên cạnh cây thông.
Bút thơ: ý nói mỗi khi ngâm nga bài Cam đường trong Kinh thi thì ai cũng cảm động về sự công minh chính trực của Thiệu Công.
(23) Mai Quốc Liên (Chủ biên), Sdd, tr.1113 - 1114. Sách này chú thích:
Gương tho: Chỉ mặt trăng. Gương thỏ đã chìm mất tăm xuống bể, nơi thần Hải Nhược ở.
Nhà giao: Con giao long cũng thường được hiểu là con rồng. Cả câu ý nói nơi long cung cũng thấy dãi bóng mặt trăng.
Mạc: vẽ, tô vẽ; đông: đúc nên, cấu tạo nên.
Hai câu cuối có nghĩa là:
Riêng có chim bay cùng cá nhdy
Thì mới hay biết bia là nước, nọ là bầu trời.
(24) Nguyễn Khắc Xương sưu tầm, Sđd, tr.952, _
(25) Nguyễn Văn Huyền sưu tầm, biên dịch, Sdd, tr.134.
(26) Xuân Diệu, 7?hơ Tú Xương, trong: Trần Thanh Mại - Trần Tuấn Lộ sưu tầm, chú thích, Thơ uăn Trần Tế Xương, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.50.
THÊ GIỚI QUAN... (Tiếp theo trang 15)
9. Ngô Đức Thịnh, Văn hoá dân gian Fđê, Sdd.
10. Dam Bo, Sđd.
11. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Đạo Mâu ở Việt Nam, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 1996, 2001 (2 tập).
12.G. Condominas, )ous auons rmmange Ía ƒoret, Flammarion, Paris, 1982.
13. Tô Đông Hải, Nghỉ lê uà âm nhạc trong nghỉ lễ của người Jarai, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
14. Trần Tấn Vịnh, Con 0uoi trong đời sống của người Mnông, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
L5. Dam Bo, Sdd.
16. Ngô Đức Thịnh, Luật tục Êđê, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994
17. Vũ Đình Lợi, Bùi Minh Đạo, Nguyễn Thị Hồng, Sở hữu uà sử dụng đất đai ở Tây nguyên, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
—— 18,Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Luật tục hđe, Sdd.