phát tăng, cơ chế điều hành quan liêu bao cấp gây cản trở cho việc phát triển kinh

tế.

Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã rút ra những bài học và quyết định

xây dựng một nên kinh té thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội

chủ nghĩa. Từ đó đến nay, chúng ta đã trải qua ba giai đoạn với những đặc trưng

khác nhau của từng giai đoạn.

Giai đoạn 1986-1990: Cơ chế thị trường bắt đầu được thực hiện, một số loại

thị trường được hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản xuất nông

nghiệp và một số xí nghiệp quốc doanh. Do đó thị trường hàng tiêu dùng đã dồi

dào hơn, đa dạng hơn, thị trường tư liệu sản xuất cũng nhuc nhích lên chút ít, lưu

thông bắt đầu tương đối thuận lợi, thị trường xuất nhập khẩu bắt đầu được mổ rộng

và phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, tinh hình kinh tế nước ta còn trong khủng

hoảng, phát triển chậm, phân phối và lưu thông còn rối ren, ngân sách nhà nước

còn htiếu hụt lớn, nguồn vốn thiếu nghiêm trọng, tiền mặt thiếu thường xuyên, lạm

phát tăng cao. Tốc độ tăng giá năm1986 là 87,2%, giá cả biến động, giá lương

thực, thực phẩm có lúc tăng đột biến, nợ nước ngoài tăng thêm. Nhìn một cách

tổng thể, thì ở giai đoạn này, nền kinh tế có sự mất cân đối lớn, tổng cầu quá lớn so

với tổng cung. Nguyên nhân là do cơ chế thị trường và các nhân tó của nó là giá cả

thị trường, canh tranh thị trường và cung-cầu hình thành từ sự vận hành của thị

trường chưa được phát huy thuận lợi.

Giai đoạn 1991-1995: Các chính sachs về cơ chế thị trường được thực hiện

một cách mạnh mẽ, đã lay động các lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội. Hệ thống chủ

thể thị trường của các thành phần kinh tế đã thay thế các cơ sở kinh tế hoạt động

dưới thời bao cấp. Các nhân tố thị trường hình thành và phát huy tác dụng thực sự

thay thế cho các quyết đinh hành chính. Do đó, các loại hình thị trường phát triển

một cách nhanh chóng, từ thị trường hàng hoá tiêu dùng thông thường, cho đến thị

trường vất tư, nguyên liệu, thị trường các dịch vụ và thị trường xuất nhập khẩu.

Thị truờng lao động, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản cũng bắt đầu hoạt

động. Hệ thống cơ cấu thị trường đã được xác lập. Trên thực tế thj trường đã có sự

biến đổi về chất. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trong giai đoạn chiến tranh và bao

cấp đã chấm dứt. Kết quả là thị trường nước ta lần đầu tiên có được sự câ đối giữa

tổng cung và tổng cầu xã hội. Trong suốt 5 năm, lượng hàng hoá lưu thông tăng

liên tục với tốc độ cao, mặt hàng ngày càng phong phú, chất lượng tăng cao, thị

trường xuất nhập khẩu phát triển mạnh. Tuy nhiên, nhìn chung thị trường còn thô

sơ, nhỏ hẹp, phân tán, manh mún, chất lượng chưa cao, chủng loại hàng hoá còn

nghèo nàn, dịch vụ thương mại yếu kém, tính tự phát còn nghiêm trọng. Thị trường

nông thôn, thị trường yếu tố sản xuát còn chưa phát triển, thị trường chứng khoán

chưa có, tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại còn nhiều. Kết quả của giai đoạn

này là nền kinh té nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, thị trường phát triển ổn định,

đảm bảo được cân bằng cung-cầu

Giai đoạn 1996-nay: Tình hình thị trường nước ta có những đặc trưng mới.

Đặc trung tổng quát của thị trường lúc này là tổng cung vượt xa tổng cầu trong tình

hình tổng cung và tổng cầu đều giảm mạnh. Trên thị trương xuất hiện những cơn

“sốt” lạnh trên diện rộng, kéo dài, nhiều mặt hàng công nghiệp có số lượng tồn kho

lớn như giấy 16000 tấn, thép 400000tấn.... Thực trạng này còn nặng nề hơn nhiều

vào năm 1999: lượng than tồn kho vào tháng 6/1999 lên tới gàn 5 triệu, tính tới

tháng 10/1999 lượng giấy tồn kho là 15186 tấn, thép chỉ khai thác được 50-60%

công suất thiết kế, Tổng công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc sản xuấ cả năm chỉ

đạt 20-40% công suất, các dịch vụ về du lịch và khách sạn cũng cung thừa.Mặc dù

cho tới những năm sau chính phủ đã có chủ trương kích cầu nhưng mọi chuyện

vẫn không được giải quyết. Tuy thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng

thị trường xuất nhập khẩu lại hoạt động rất sôi động, trong đó xuất khẩu thì tăng

mạnh, nhập khẩu thì giảm. Trên thị trường đầu tư, sự tiến triển rất chậm chạp,

nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư nước ngoài liên tục giảm sút. Nếu trong những

năm 1994-1997 FDI dạt bình quân 2 tỷ USD/năm, thì năm 1998 chỉ còn 800 triệu

và năm 1999 là vào khoảng 600 triệu. Thị trường các yếu tố sản xuất khác như thị

trường cốn còn sơ khai, thị trường lao động mới đang hình thành, thị trường bất

động sản chưa đuợc khai thông, thị trường chứng khoán mới được thành lập, thị

trường dịch vụ giảm sút. Trên từng địa bàn, thị trường cũng chưa thực sự thông

suốt do vẫn còn các trạm kiểm soát thu phí bất hợp lý, thậm chí ở một số nơi còn

bị chính quyền sở tại dùng biện pháp hành chính để bảo hộ các cơ sở sản xuất địa

phương.

Một đặc trưng thứ hai của thị trường nước ta trong thời gian này là lạm phát

giảm mạnh, hơn nữa còn có hiện tượng giảm phát. Chỉ số lạm phát năm 1996 là

4,5%, năm 1997 là 3,6%, tính cung năm 1999 chỉ số lạm phát là 1%, nhưng trong

suốt 8 tháng từ tháng 3 đé tháng 10/1999 chỉ có chỉ số giá âm. Trên thị trường hối

đoái thì đồng tiền Việt Nam lên giá trong thời gian nổ ra cuộc khủng hoảng kinh

tế.

3. Mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà

nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:

Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa

dựa trên những nguyển tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những

nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng

XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung

cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xã hội

đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò như động

lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm thứ hai đóng vai trò hướng

dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định.

Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những mục tiêu,

dặc trưng bản chất khác biệt cơ bản về nguyên tắc so với nền kinh tế thị trường

TBCN. Điều đó được thể hiện như sau:

3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:

Mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là: Giải

phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi

nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của

CNXH, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế; trên cơ sở đó,

cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng,

bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Phát triển kinh tế thị trường sẽ khắc

phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã

hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động; áp dụng

khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã

hội, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá dịch vụ; thúc đẩy tích tụ, tập

trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ,

với các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các

nguồn lực bên ngoài; thúc đẩy việc phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi

người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đưa nước

ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh theo con đường XHCN.

Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở

tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân

dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đảng ta

đã chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã

hội ngay trong từng bước phát triển.

Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phương tiện khách quan để xã

hội hoá XHCN nền sản xuất, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc

dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.

3.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần cùng tồn tại và phát triển nhưng

kinh tế Nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo:

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế cơ sở cơ cấu đa

dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh

tế gồm nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà nước giữu vai trò chủ đạo.

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu

toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình

thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Các

thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ,

kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu,

mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân

để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế

độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa

trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành

phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình

đẳng.

Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ

đạo. Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất

bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với kinh tế thị trường

của các nước khác.Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở

nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế

nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương

ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao

gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới -

xã hội chủ nghĩa.

Việc vin vào tình trạng kém hiệu quả của kinh tế nhà nước trong thời gian qua để

phủ định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sai lầm về lý luận. Vấn đề chủ yếu

không phải là phủ định vai trò của kinh tế nhà nước, mà là cơ cấu lại khu vực kinh

tế nhà nước và đổi mới cơ bản cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước để chúng

hoạt động có hiệu quả.

3.3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức

phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.

Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do

quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có

liên quan đến chế độ xã hội, đến chính trị. Dưới chủ nghĩa tư bản, phân phối theo

nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn đối với nhà

tư bản theo giá trị tư bản. Như vậy, thu nhập người lao động chỉ giới hạn ở sức lao

động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân

phối cũng có đặc trưng riêng; phân phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa

xã hội. Thu nhập của người lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà

nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu

quả kinh tế.

Tuy nhiên việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề phức tạp và khó khăn,

nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thông qua thị trường để đánh giá kết quả

lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối.

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế.

Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả

lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào

sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó

phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết

thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳng xã hội như là một trật

tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trưởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng

trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng

xã hội. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế,

đồng thời vẫn đảm bảo giữ vững con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

3.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước

XHCN:

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những

quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, cạnh

tranh,…; giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với

việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.

Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng

về mặt xã hội. Ngay từ năm 1848, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác

và F.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng: xã hội tư bản “không để lại giữa người với người

một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng và lối “trả tiền ngay” không

tình nghĩa”. Ngày nay, chính một nhà nghiên cứu phương Tây Ê-gát Mo-ring đã

đưa ra nhận xét chua chát: “Trong nền văn minh được gọi là phát triển của chúng

ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và

tình người”. Vì vậy, nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị

trường tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội - xã hội chủ

nghĩa. Sự phát triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực

hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới

đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại

của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ

chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận

hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là

nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì

dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo

cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt là đảm bảo công

bằng xã hội. Không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt được dự chênh lệch giữa

giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng của đất nước trong điều

kiện kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận

cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật

vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là

sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai

phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều

chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự

tự điều tiết của bản thân nền kinh tế.

Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thực hiện cả ở tầm vi mô lẫn vĩ mô. ở tầm

vi mô, thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thông qua sự

biến động của quan hệ cung-cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn

được phương án sản xuất. Cũng nhờ đó mà doanh nghiệp lựa chọn được cơ cấu sản

xuất, cơ cấu đầu tư cho mình. Thoát ly yêu cầu của thị trường, các mục tiêu của kế

hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không thực hiện được.

ở tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính chất quyết

định, song kế hoạch Nhà nước cũng không thể thoát ly khỏi tình hình biến động

của thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch vĩ mô trở thành duy ý chí. Kế hoạch

hoá vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn, tổng thể của nền kinh tế như tổng cung -

tổng cầu, sản xuất tiêu dùng, hàng hoá - tiền tệ. Kế hoạch hoá vĩ mô có thể tác

động đến cung, cầu, giá cả để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác

động tự phát của thị trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị

trường theo hướng của kế hoạch.

3.5. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập:

Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và

khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực hiện những thông

lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ

được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực ra, đây không

phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà là xu

hướng chung của các nền kinh tế trên thế giới hiện nay. (ở đây muốn nhấn mạnh

sự khác biệt so với nền kinh tế đóng, khép kín trước đây).

Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đang diễn ra quá trình

quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn

nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu

đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện

đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và

thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng

và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.

Trong thời gian tới, cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh

tế đối ngoại; có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới; phải

đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế

đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, chú trọng thị trường

các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc,

tranh thủ mọi cơ hội để mở ra thị trường mới; cải thiện môi trường đầu tư và bằng

nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài.

4. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta:

4.1 Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn rất thấp, mới chỉ ở giai

đoạn sơ khai:

Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, ở trình độ thấp và kém

phát triển. Biểu hiện ở số lượng mặt hàng và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối

lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất nhập khẩu còn nhỏ,

chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng hàng hoá thấp, quy mô, dung

lượng thị trường hạn hẹp; mức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng hoá trên

thị trường trong nước cũng như thị trường ngoài nước còn rất yếu; đội ngũ các nhà

quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít; thu nhập của người lao động còn thấp do đó sức

mua hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này là:

Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ

sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh

tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ

công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, máy móc thiết bị lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh

vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động

xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so

với khu vực và thế giới (năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung

bình của thế giới).

Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên

lạc…còn lạc hậu, kém phát triển. Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các

địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng

của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên

môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.

Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém

phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát

khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70%

lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công

nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.

Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước là

rất kém. Do cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp dẫn đến khối

lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại nghèo nàn, chất lượng thấp mà giá thành lại quá

cao.

4.2. Các loại thị trường trong nước đang trong quá trình hình thành nhưng

chưa đồng bộ:

Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều tiêu

cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối loạn thị trường).

Thị trường sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu việc làm và

xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực. Nét

nổi bật của tinh trạng này là thừa lao động giản đơn, trình độ thấp; nhưng lại thiếu

lao động lành nghề, lao động có hàm lượng chất xám cao. Do vậy dẫn đến tình

trạng thừa lao động giản đơn, nhiều người có sức lao động không tìm được việc

làm; nhưng nhiều ngành nghề lại không có lao động đủ trình độ đáp ứng. Ngoài ra,

cơ cấu đào tạo bất hợp lý cũng đã dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, khiến

cho một lượng lớn sinh viên được đào tạo ra trường không thể tìm được việc làm.

Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn rất nhiều bất

cập, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn để sản

xuất kinh doanh nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều

ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng

vốn. Trong hoạt động của các ngân hàng vẫn còn nhiều tiêu cực và gian lận. Thị

trường chứng khoán đã ra đời nhưng gần như luôn ở trong tình trạng “đóng băng”,

các giao dịch diễn ra rất ít và các doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với thị trường này

trong khi đây chính là một nơi huy động vốn rất có hiệu quả.

4.3 Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, nhưng trong đó, sản xuất hàng

hoá nhỏ, phân tán còn phổ biến:

Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, có nhiều thành phần kinh tế tham

gia thị trường, do vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá

cùng tồn tại, đan xen, vừa đấu tranh vừa hợp tác.

Nhưng trong nền kinh tế, sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán vẫn con phổ biến. Điều

này xuất phát từ trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, tiềm lực kinh tế của

quốc gia chưa cao, xã hội hoá sản xuất chưa phát triển, quá trình tích tụ, tập trung

sản xuất chưa được đẩy mạnh, tư duy kiểu cũ vẫn con tồn tại nặng nề.

4.4 Kinh tế nước ta hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế trong hoàn cảnh

trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật còn thấp xa so với các nước khác và khả năng

cạnh tranh rất yếu:

Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho chúng ta rất nhiều cơ hội để

phát triển nhưng đồng thời cũng có không ít những khó khăn và thách thức hết sức

gay gắt. Nhưng hội nhập là xu thế tất yếu và khách quan, nên không thể đặt vấn đề

tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể là tham gia như thế nào để có thể tận

dụng được thời cơ, đẩy lùi được nguy cơ. Trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật

cũng như quản lý của nước ta hiện còn kém xa các nước trong khu vực và trên thế

giới, điều đó gây cho chúng ta những bất lợi to lớn trong quá trình hội nhập, trong

việc cạnh tranh với nước ngoài. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chúng ta

không có những lợi thế riêng, không có những điểm mạnh so với các nước khác.

Vấn đề là chúng ta phải chủ động hội nhập, chuẩn bị thật tốt, bám sát lộ trình hội

nhập, hạn chế, khắc phục điểm yếu, tìm ra và tận dụng tốt nhất “cái mạnh tương

đối” của nước ta trong cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế

4.5 Quản lý nhà nước về xã hội còn yếu kém:

Trước tiên hãy nhìn vào hệ thống pháp luật, chúng ta không có được một bộ

luật đồng bộ, còn chồng chéo nhau. Sự phối hợp giữa nhưng xó quan chính quyền

còn khôn gthật nhuần nhuyễn. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và thi hành

pháp luật còn nhiều bất cập. Tình trạng khôn gchấp hành luật lệ còn khá phổ biến.

Một vấn đề nữa, do nghiệp vụ hành chính của các công chức nhà nước không cao

nên có nhiều công đoạn, rườm rà, không hiệu quả.

6. Các giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:

a) Vấn đề sở hữu:

Trước đây, khi chúng ta xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, xoá bỏ

nền kinh tế thị trường, chúng ta thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình

thức là sở hữu toàn dân, và sở hữu tập thể. Vì vậy khi đổi mới sang nền kinh tế thị

trường chúng ta phải đổi mới cơ cấu sở hữu. Điều này được thực hiện bằng cách đa

dạng hoá sở hữu, nó sẽ dẫn đến hình thành những chủ thể kinh tế đọc lập, có lợi

ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hoá. Trên cơ sỏ

đa dạng hoá các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát

triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sưc sản xuất, nâng

cao hiệu quả kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tieu quan trọng

để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản

xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh doanh đều bình đẳng

trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, chúng ta cần phải

phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực

để phát triển kinh tế nhà nước trong những nghành trọng điểm, xắp xếp lại khu vự

doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp

nhà nước. Xây dựn các tập đoàn kinh tế nhà nước nắm giữ vị trí mạnh trong nhưng

nền kinh tế trọng điểm. Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng,

trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Khuyến khích các thành phần kinh tế cá thể, tiểu

chủ phát triển ở cả thành thị lẫn nông thôn. Phát triển hình thức kinh tế tư bản bằng

các hình thức liên doanh.

b)Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học kỹ

thuật, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.

Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuât sản xuất và troan đổi. Vì

vậy,để phát triển kinh tế hàng hoá cần phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội.

Nhưng sự phát triển của phân công lao động xã hội lại do trình độ của lực lượng

sản xuất quyết định. Cho nên, muốn phát triển phân công lao động xã hội cần phải

chú trọng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

của nước ta là con đường ngắn nhất để phát triển đuổi kịp thế giới. Cùng với việc

trang bị kỹ thuật cho các nghành, các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công

nghiệp hoá hiện đại hoá, tiến hành phân bố lại lao động và dân cư để hình thành

một cơ cấu kinh tế hợp lý.

c) Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường

Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều phân bổ thông qua

thị trường đến các nghành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải hình

thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Trong những năm tới thì chúgn ta

phải:

+ Phát triể thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản

xuất, thúc đẩy chuyển diach cơ cấu kinh tế, phát triển giao thông và phương tiên

vận tải để mở rộng thị trường. Hình thành thị trương sức lao động có tổ chức để

tạo điều kiện cho sự di chuyển lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử dụng

có hiệu quả nguồn nhân lực.

+ Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường

chứng khoán để huy động các nguồn vốn vào sản xuất.

+ Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản. Xây dựng và phát

triển thị trường thôn tin và khoa học kỹ thuật.

e) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế và hội nhập vào kinh tế khu vực

và thế giới, mới thu hút được vốn khoa học kỹ thuật hiện đại để khai thác tiềm

năng và thế mạnh của đất nước nhăm phát triển kinh tế. Khi mở rộng quan hệ kinh

tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng hại bên cùng có lợi, không can

thiệp vào nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá,

đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại. Hiện nay cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi

xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Bằng mọi khả năng, chúng ta phải

thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần

tập trung vào các nghành, lĩnh vực, sản phẩm có công nghệ cao, tỷ trọng xuấtkhẩu

cao.Chủ động tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế, các diễn đàn, các

tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp.

f)Phát huy nguồn lực con người:

Đây là một nhân tố có một vai trò cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế. Con người

vừa là lực lượng sản xuất ra của cải vật chất, vừa là nơi tiêu thụ những sản phẩm

đó và nó cũng là nhân tố quyết định ba vấn đề cơ bản của kinh tế: sản xuất cái gì,

như thế nào và cho ai. Để phát triển nguồn lực con người, chúng ta phải không

ngừng xây dựng và phát triển giáo dục. Chúgn ta cần có một hệ thống giáo dục

hợp lý hơn để có thể truyền tải những tri thức khoa học một cách tốt nhất cho lớp

ngươi đi sau. Một vấn đế nữa khi phát huy nhân tố con người là làm sao để họ có

thể hoạt động hết mình cho xã hội.Đầu tiên chúng ta phải xây dựng một môi

trường tốt nhất cho sự cống hiến và hưởng thụ của con nguời, Xã hội cần có một

một chính sách đãi ngộ tốt và cần thực hiện chúng một cách tốt nhất.

g) Giữ vững sự ỏn định chính trị, hoàn thiện hệ thống luât pháp:

Sự ổn định chính trị bâo giờ cũng là một nhân tố quan trọng đầu tiên để phát triển.

Nó là điều kiện để các nhà sản xuất, nhà đầu tư trong nước và ngoài nước yên tâm

đầu tư. Muốn giữ vững sự ỏn định chính trị ở nước ta hiện nay cần phải giữ vững

và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng công sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực

quản lý của nhà nước, phat huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống pháp luật

đồng bộ là công cụ quan trọng nhất để quản lý nề kinh tế nhiều thành phần. Nó tạo

hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế, buộc các doanh nghiệp nhận sự điều tiết

của nhà nước.

h) Xoá bỏ trịêt để cơ chế quan liêu bao cấp, hàon thiện cơ chế quản lý của Nhà

nước:

Việc xoá bỏ triệt đẻ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, hình thành đồng bộ và

vận hành có hiệu qủa cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước rất có ý nghĩa

đối vói nước ta. Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, năng lự

của các cơ quan chức năng, luật pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước thực hiện

định hướng phát triển kinh tế; hệ thống chính sách nhất quản để tạo môi trường ổn

định và lâu dai cho các nhà đầu tư; hạn chế, khắc phục nhưng mặt tiêu cực của nền

kinh tế thị trường.

Kết luận

Sau chiến tranh Việt Nam đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,

nhưng sau đó chúng ta lại quay lại xây dựng một nền kinh tế thị trường trái ngược

hẳn với trước đây. Thông qua bài viết trên chúng ta thấy, bước chuyển đổi này là

một bước đi đúng đắn. Vậy nên kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn để xây

dựng là một nền kinh tế hàng hó nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị truờng

có sự điều tiết của nhà nước theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay chúng

ta đang là những sinh viên, nhiệm vụ đó là học tạp và nghiên cứu tích luỹ tri thức

để có thể góp sức xây dựng đất nước.