
phát tăng, cơ chế điều hành quan liêu bao cấp gây cản trở cho việc phát triển kinh
tế.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã rút ra những bài học và quyết định
xây dựng một nên kinh té thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội
chủ nghĩa. Từ đó đến nay, chúng ta đã trải qua ba giai đoạn với những đặc trưng
khác nhau của từng giai đoạn.
Giai đoạn 1986-1990: Cơ chế thị trường bắt đầu được thực hiện, một số loại
thị trường được hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản xuất nông
nghiệp và một số xí nghiệp quốc doanh. Do đó thị trường hàng tiêu dùng đã dồi
dào hơn, đa dạng hơn, thị trường tư liệu sản xuất cũng nhuc nhích lên chút ít, lưu
thông bắt đầu tương đối thuận lợi, thị trường xuất nhập khẩu bắt đầu được mổ rộng
và phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, tinh hình kinh tế nước ta còn trong khủng
hoảng, phát triển chậm, phân phối và lưu thông còn rối ren, ngân sách nhà nước
còn htiếu hụt lớn, nguồn vốn thiếu nghiêm trọng, tiền mặt thiếu thường xuyên, lạm
phát tăng cao. Tốc độ tăng giá năm1986 là 87,2%, giá cả biến động, giá lương
thực, thực phẩm có lúc tăng đột biến, nợ nước ngoài tăng thêm. Nhìn một cách
tổng thể, thì ở giai đoạn này, nền kinh tế có sự mất cân đối lớn, tổng cầu quá lớn so
với tổng cung. Nguyên nhân là do cơ chế thị trường và các nhân tó của nó là giá cả
thị trường, canh tranh thị trường và cung-cầu hình thành từ sự vận hành của thị
trường chưa được phát huy thuận lợi.
Giai đoạn 1991-1995: Các chính sachs về cơ chế thị trường được thực hiện
một cách mạnh mẽ, đã lay động các lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội. Hệ thống chủ
thể thị trường của các thành phần kinh tế đã thay thế các cơ sở kinh tế hoạt động

dưới thời bao cấp. Các nhân tố thị trường hình thành và phát huy tác dụng thực sự
thay thế cho các quyết đinh hành chính. Do đó, các loại hình thị trường phát triển
một cách nhanh chóng, từ thị trường hàng hoá tiêu dùng thông thường, cho đến thị
trường vất tư, nguyên liệu, thị trường các dịch vụ và thị trường xuất nhập khẩu.
Thị truờng lao động, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản cũng bắt đầu hoạt
động. Hệ thống cơ cấu thị trường đã được xác lập. Trên thực tế thj trường đã có sự
biến đổi về chất. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trong giai đoạn chiến tranh và bao
cấp đã chấm dứt. Kết quả là thị trường nước ta lần đầu tiên có được sự câ đối giữa
tổng cung và tổng cầu xã hội. Trong suốt 5 năm, lượng hàng hoá lưu thông tăng
liên tục với tốc độ cao, mặt hàng ngày càng phong phú, chất lượng tăng cao, thị
trường xuất nhập khẩu phát triển mạnh. Tuy nhiên, nhìn chung thị trường còn thô
sơ, nhỏ hẹp, phân tán, manh mún, chất lượng chưa cao, chủng loại hàng hoá còn
nghèo nàn, dịch vụ thương mại yếu kém, tính tự phát còn nghiêm trọng. Thị trường
nông thôn, thị trường yếu tố sản xuát còn chưa phát triển, thị trường chứng khoán
chưa có, tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại còn nhiều. Kết quả của giai đoạn
này là nền kinh té nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, thị trường phát triển ổn định,
đảm bảo được cân bằng cung-cầu
Giai đoạn 1996-nay: Tình hình thị trường nước ta có những đặc trưng mới.
Đặc trung tổng quát của thị trường lúc này là tổng cung vượt xa tổng cầu trong tình
hình tổng cung và tổng cầu đều giảm mạnh. Trên thị trương xuất hiện những cơn
“sốt” lạnh trên diện rộng, kéo dài, nhiều mặt hàng công nghiệp có số lượng tồn kho
lớn như giấy 16000 tấn, thép 400000tấn.... Thực trạng này còn nặng nề hơn nhiều
vào năm 1999: lượng than tồn kho vào tháng 6/1999 lên tới gàn 5 triệu, tính tới

tháng 10/1999 lượng giấy tồn kho là 15186 tấn, thép chỉ khai thác được 50-60%
công suất thiết kế, Tổng công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc sản xuấ cả năm chỉ
đạt 20-40% công suất, các dịch vụ về du lịch và khách sạn cũng cung thừa.Mặc dù
cho tới những năm sau chính phủ đã có chủ trương kích cầu nhưng mọi chuyện
vẫn không được giải quyết. Tuy thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng
thị trường xuất nhập khẩu lại hoạt động rất sôi động, trong đó xuất khẩu thì tăng
mạnh, nhập khẩu thì giảm. Trên thị trường đầu tư, sự tiến triển rất chậm chạp,
nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư nước ngoài liên tục giảm sút. Nếu trong những
năm 1994-1997 FDI dạt bình quân 2 tỷ USD/năm, thì năm 1998 chỉ còn 800 triệu
và năm 1999 là vào khoảng 600 triệu. Thị trường các yếu tố sản xuất khác như thị
trường cốn còn sơ khai, thị trường lao động mới đang hình thành, thị trường bất
động sản chưa đuợc khai thông, thị trường chứng khoán mới được thành lập, thị
trường dịch vụ giảm sút. Trên từng địa bàn, thị trường cũng chưa thực sự thông
suốt do vẫn còn các trạm kiểm soát thu phí bất hợp lý, thậm chí ở một số nơi còn
bị chính quyền sở tại dùng biện pháp hành chính để bảo hộ các cơ sở sản xuất địa
phương.
Một đặc trưng thứ hai của thị trường nước ta trong thời gian này là lạm phát
giảm mạnh, hơn nữa còn có hiện tượng giảm phát. Chỉ số lạm phát năm 1996 là
4,5%, năm 1997 là 3,6%, tính cung năm 1999 chỉ số lạm phát là 1%, nhưng trong
suốt 8 tháng từ tháng 3 đé tháng 10/1999 chỉ có chỉ số giá âm. Trên thị trường hối
đoái thì đồng tiền Việt Nam lên giá trong thời gian nổ ra cuộc khủng hoảng kinh
tế.

3. Mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa
dựa trên những nguyển tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng
XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung
cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xã hội
đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò như động
lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm thứ hai đóng vai trò hướng
dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những mục tiêu,
dặc trưng bản chất khác biệt cơ bản về nguyên tắc so với nền kinh tế thị trường
TBCN. Điều đó được thể hiện như sau:
3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta:
Mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là: Giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi
nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế; trên cơ sở đó,
cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng,
bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Phát triển kinh tế thị trường sẽ khắc
phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã
hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động; áp dụng
khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã

hội, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá dịch vụ; thúc đẩy tích tụ, tập
trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ,
với các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài; thúc đẩy việc phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi
người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh theo con đường XHCN.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đảng ta
đã chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước phát triển.
Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phương tiện khách quan để xã
hội hoá XHCN nền sản xuất, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc
dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
3.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần cùng tồn tại và phát triển nhưng
kinh tế Nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế cơ sở cơ cấu đa
dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh
tế gồm nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà nước giữu vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình
thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Các