
Thế giới đang biến đổi và tư duy mới về “bàn tay nhà nước”
Hơn 10 năm trước đây, thế giới đã chứng kiến sự đổ vỡ bất ngờ và mau chóng của
hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ theo mô hình Xô Viết cũ từng tồn
tại gần 80 năm trên phạm vi toàn cầu. Những tháng cuối năm 2008, cơn bão khủng
hoảng tài chính phố Wall bùng phát đột ngột, gia tốc cực nhanh, các động thái
nhiều kịch tính với những lốc xoáy dữ dội, hệ lụy mất ổn định và suy thoái toàn
cầu, đặt ra nhiều bài toán phức tạp chưa có tiền lệ, đòi hỏi và phát động những
phối hợp quy mô quốc tế, những tranh cãi căng thẳng đến nghẹt thở và những tổn
phí giải cứu đắt đỏ trị giá nhiều ngàn tỷ USD cả trong và ngoài nước Mỹ... cũng
lập tức trở thành sự kiện chưa từng có suốt 80 năm nay trong thế giới kinh tế thị
trường tự do cao độ theo mô hình Mỹ, là ”giọt nước làm tràn ly”, hạ bệ và hủy
hoại không thương tiếc “các giá trị Mỹ” vốn đề cao sáng kiến cá nhân và khả năng
tự điều chỉnh của các thể chế thị trường, Sự liên tiếp và cộng hưởng của hai sự
kiện lịch sử có tầm vóc toàn cầu này đã chính thức gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh
toàn cầu báo hiệu một thế giới đang biến đổi, không có ngoại lệ ”miễn dịch đổ vỡ”
cho bất kỳ một tập đoàn - “đại gia” kinh tế, tài chính nào (dù sở hữu hàng trăm,
ngàn tỷ USD và kinh nghiệm kinh doanh hàng trăm năm tuổi), cũng như cho bất
kỳ một thể chế kinh tế - chính trị nào (dù là siêu cường hàng đầu thế giới) khi
không tôn trọng các quy luật kinh tế - xã hội khách quan, do đó, đòi hỏi một tư
duy mới thích ứng về “bàn tay quản lý kinh tế của Nhà nước” - trong từng quốc
gia, cũng như trên phạm vi thế giới.
Hơn 10 năm trước đây, thế giới đã chứng kiến sự đổ vỡ bất ngờ và mau chóng của
hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ theo mô hình Xô Viết cũ từng tồn
tại gần 80 năm trên phạm vi toàn cầu.
Những tháng cuối năm 2008, cơn bão khủng hoảng tài chính phố Wall bùng phát
đột ngột, gia tốc cực nhanh, các động thái nhiều kịch tính với những lốc xoáy dữ

dội, hệ lụy mất ổn định và suy thoái toàn cầu, đặt ra nhiều bài toán phức tạp chưa
có tiền lệ, đòi hỏi và phát động những phối hợp quy mô quốc tế, những tranh cãi
căng thẳng đến nghẹt thở và những tổn phí giải cứu đắt đỏ trị giá nhiều ngàn tỷ
USD cả trong và ngoài nước Mỹ... cũng lập tức trở thành sự kiện chưa từng có
suốt 80 năm nay trong thế giới kinh tế thị trường tự do cao độ theo mô hình Mỹ, là
”giọt nước làm tràn ly”, hạ bệ và hủy hoại không thương tiếc “các giá trị Mỹ” vốn
đề cao sáng kiến cá nhân và khả năng tự điều chỉnh của các thể chế thị trường,
Sự liên tiếp và cộng hưởng của hai sự kiện lịch sử có tầm vóc toàn cầu này đã
chính thức gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh toàn cầu báo hiệu một thế giới đang
biến đổi, không có ngoại lệ ”miễn dịch đổ vỡ” cho bất kỳ một tập đoàn - “đại gia”
kinh tế, tài chính nào (dù sở hữu hàng trăm, ngàn tỷ USD và kinh nghiệm kinh
doanh hàng trăm năm tuổi), cũng như cho bất kỳ một thể chế kinh tế - chính trị
nào (dù là siêu cường hàng đầu thế giới) khi không tôn trọng các quy luật kinh tế -
xã hội khách quan, do đó, đòi hỏi một tư duy mới thích ứng về “bàn tay quản lý
kinh tế của Nhà nước” - trong từng quốc gia, cũng như trên phạm vi thế giới.
1. Thế giới đang biến đổi
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, thế giới đang biến chuyển
mạnh mẽ cả về lượng và chất, với các xu hướng chủ yếu:
Thứ nhất, tăng cường đối thoại, vừa cạnh tranh vừa hợp tác, phụ thuộc và chế định
lẫn nhau trong quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa, đồng nhất hóa môi trường
kinh doanh, hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả vận hành của các nguyên tắc
và thiết chế thị trường mở, vì sự phát triển bền vững của mỗi nước, cũng như của
toàn thể cộng đồng.
Đối thoại ngày càng là sự lựa chọn ưu tiên cùng với sự gia tăng hợp tác trong cạnh
tranh gay gắt trên tất cả các cấp độ và lĩnh vực, cả trong một quốc gia, cũng như
trong quan hệ quốc tế. Hệ thống sản xuất, thương mại và tài chính quốc gia ngày

càng mở rộng và quốc tế hóa. Nhân loại đang thực sự bước vào kỷ nguyên của các
thị trường toàn cầu được kiểm soát tập thể (mặc dầu sự hoàn thiện của cơ chế kiểm
soát này tỏ ra chưa theo kịp tốc độ toàn cầu hoá các thị trường đó). Đồng thời, sẽ
ngày càng đậm nét hơn xu hướng hội tụ và “đồng nhất hóa” giữa các khối kinh tế,
cung nhu cỏc qu? c gia về mô thức tổ chức, môi trường và nguyên tắc quản lý kinh
tế chủ yếu trong nước, trong khu vực và trong phạm vi toàn cầu.
Thứ hai, tăng cường quá trình tái cấu trúc mới, đa dạng hóa và đa cực hóa về trung
tâm, mô hình, động lực và cả mục tiêu phát triển, đa phương hóa việc quản lý và
giải quyết các vấn đề của mỗi quốc gia cũng như quốc tế.
Các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đang và sẽ có sự cải thiện căn bản theo hướng
đa dạng hơn, gọn nhỏ hơn, nhiều chức năng hơn, tiện lợi, tinh xảo hơn, tiết kiệm
năng lượng và rẻ hơn, do đó, phổ cập hơn và có tính chất cá nhân hơn; xuất hiện
hàng loạt sản phẩm hoàn toàn mới với vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn lại,
thậm chí rất ngắn. Giá trị của thông tin trở nên đắt hơn. Chất lượng nắm bắt, xử lý
các thông tin trở thành nhân tố quyết định chất lượng sống, cũng như sự thành
công của mỗi cá nhân và doanh nghiệp, do đó, cũng là yếu tố chủ yếu cho sự thành
công của mỗi quốc gia.
Các công ty, một mặt, được tổ chức theo quy mô nhỏ (thậm chí có công ty một
người), phi tập trung hoá, giảm bớt các khâu trung gian, cơ cấu thành nhiều đơn vị
độc lập, có quyền tự chủ cao, giảm bớt tệ nạn quan liêu, được chuyên môn hoá
cao, có tinh thần hợp tác, hoạt động mang tính toàn cầu chặt chẽ, và tuân thủ
những tiêu chuẩn đạo đức ngày càng cao hơn; mặt khác, xu hướng hợp nhất để trở
thành lớn, mạnh hơn, toàn cầu hơn, giảm chi phí và có sức cạnh tranh hơn cũng sẽ
ngày càng gia tăng. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng to lớn trong
việc tạo động lực cho tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế toàn cầu. Do ưu thế
vượt trội về khả năng huy động vốn và các nguồn lực xã hội khác, về phân tán rủi
ro, cũng như về khả năng gần như vô hạn mở rộng quy mô, lĩnh vực và phạm vi

hoạt động... nên mô hình các công ty cổ phần, công ty mẹ - con, tổ hợp kinh doanh
đa sở hữu sẽ ngày càng chiếm ưu thế vượt trội cả về số lượng, quy mô và sức cạnh
tranh so với các loại hình công ty và tổ chức kinh doanh khác. Ngày nay, các công
ty mạnh nhất, thành công nhất và có triển vọng phát triển nhất trên phạm vi quốc
gia, cũng như thế giới đều thuộc nhóm mô hình công ty cổ phần này. Hơn nữa,
hình thức chiếm hữu cổ phần trong công ty cổ phần còn là biểu hiện mới, là cơ chế
thực hiện và phát triển tính chất xã hội hoá nền sản xuất quốc gia và thế giới trực
tiếp, thực chất và hiệu quả nhất so với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào. Có thể
nói, khẳng định của C. Mác về sứ mệnh của công ty cổ phần như là một hình thức
phổ biến và chủ yếu nhất trong tổ chức nền sản xuất hiện đại của tương lai đã,
đang và tiếp tục được chứng minh trong thực tiễn và cho thấy tính khoa học bất
diệt của học thuyết kinh tế mác – xít...
Các nền kinh tế quốc gia và quốc tế sẽ chuyển dịch theo hướng thu hẹp và mất dần
đi các ngành khai thác, chế biến nguyên liệu truyền thống và hàng loạt ngành sản
xuất mới sẽ xuất hiện và phát triển mạnh hơn. Các ngành dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng
lớn nhất và đem lại nhiều lợi nhuận hơn trong nền kinh tế quốc gia và quốc tế.
Các công nghệ mới, các xa lộ thông tin, vận tải toàn cầu phát triển khiến thế giới
trở nên “phẳng” hơn (được cộng hưởng bởi sự đồng nhất môi trường kinh doanh
toàn cầu trong khuôn khổ các định chế kinh tế - thương mại - tài chính toàn cầu,
như WTO...) và đẩy nhanh hơn tốc độ lưu chuyển các yếu tố của hoạt động tái sản
xuất kinh tế - xã hội.
Con người lao động mới sẽ có tri thức toàn diện hơn, năng động, tự chủ hơn, di
chuyển chỗ làm việc thường xuyên và trên phạm vi ngày càng rộng hơn, ngày
càng trở thành trung tâm động lực và mục tiêu của phát triển. Đô thị hoá sẽ tăng
nhanh. Các cấu trúc chính trị và giao lưu văn hoá - xã hội quốc gia và quốc tế sẽ
có sự dịch chuyển tương ứng. “Nền kinh tế nợ” sẽ trở thành đặc trưng cho mọi
công ty và quốc gia, kéo theo những xung lực tiềm ẩn gây bất ổn định thị trường

tài chính - tiền tệ quốc gia và quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu bức bách hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát an toàn tài chính - tín dụng cả ở cấp
vi mô lẫn cấp vĩ mô, cấp quốc gia, lẫn khu vực và quốc tế.
Thứ ba, chu kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa không mất đi và có sự rút ngắn khoảng
cách giữa các chu kỳ, sự “mờ dần” ranh giới giữa các giai đoạn của một chu kỳ;
ngày càng có sự gắn kết sâu đậm và tác động qua lại nhạy cảm và trực tiếp hơn
giữa khủng hoảng chu kỳ kinh tế và khủng hoảng cơ cấu, đặc biệt là khủng hoảng
tài chính - tiền tệ; thành thử, những giải pháp đối phó với chu kỳ ngày càng mang
tính chất tài chính - tiền tệ, tri thức và quốc tế hoá hơn...
Khủng hoảng kinh tế và các chấn động cơ cấu (nhất là trong lĩnh vực năng lượng,
môi trường và tài chính - tiền tệ) sẽ có xu hướng trở nên dày đặc và phổ biến hơn;
sẽ ngày càng có xu hướng đan xen, lồng ghép, thậm chí trùng hợp hoặc “mờ dần”
ranh giới giữa khủng hoảng chu kỳ với khủng hoảng cơ cấu (đặc biệt nếu tiếp cận
dưới góc độ mới về nhu cầu trong nền kinh tế tri thức được đặc trưng bởi cơ cấu
đa dạng, mềm dẻo, cá nhân hơn và có hàm lượng về sức khoẻ trí tuệ, văn hoá, tâm
linh, tinh thần và môi trường cao hơn so với cách hiểu nhu cầu truyền thống v.v..).
Các cuộc khủng hoảng chu kỳ và cơ cấu của các nền kinh tế thị trường trên thế
giới ngày càng mang tính quốc tế rất cao cả về nguyên nhân, tác động lẫn những
giải pháp được đề xuất và ứng dụng nhằm đối phó với chúng. Đồng thời, vai trò
của can thiệp kinh tế đang dịch chuyển dần từ “nhà nước quốc gia”, sang những
“nhà nước quốc tế” (như nhóm G7, Nghị viện Châu Âu, IMF, WB...); tư bản tài
chính và các chính sách tài chính - tiền tệ (được nhân bội sức mạnh bởi tính quốc
tế hóa của mình) ngày càng vừa là nguồn gốc, vừa là giải pháp chủ yếu mở đường
thoát ra khỏi khủng hoảng, cả ở cấp độ quốc gia, cũng như trên phạm vi thế giới...
Các nguyên nhân và giải pháp đối phó với chu kỳ ngày càng đa dạng hơn, nhưng
gắn liền và mang đậm hơn tính chất tài chính - tiền tệ, nhân tố con người và khoa

