Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 250 -
THC TRNG VÀ MT S GII PHÁP BO H KIU
DÁNG CÔNG NGHIP TI VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Ngọc Bích Trâm
Khoa Marketing -Trường DH9 Tài chính - Marketing
Tóm tắt
Sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung, sở hữu công nghiệp (SHCN) trong đó có
(KDCN) nói riêng vẫn còn lĩnh vực khá mới m đối với người tiêu dùng Việt
Nam. Từ đại bộ phân các cán bộ, công chức nhà nước đến người dân lao động
thì sự hiểu biết về SHCN về KDCN vẫn còn hạn chế. Điều này giải tại sao phần
lớn người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận sử dụng các loại hàng a xâm phạm
quyền SHCN trong đó có KDCN với nhận thức “tiền nào của ấy”, điều này đã vô
hình chung tạo ra môi trường cho các loại hàng nhái, hàng giả KDCN tồn tại và
điều kiện phát triển. Để thể nâng cao nhận thức ý thức tôn trọng Pháp
luật của người tiêu dùng về SHCN và KDCN cần phải có sự kết hợp giữa chủ sở
hữu KDCN - đặc biệt các Doanh nghiệp (DN) với các quan nhà nước
thẩm quyền làm tốt công tác phổ biến Pháp luật về SHTT nói chung, về SHCN
nói riêng trong đó có KDCN. Trong phạm vi bài viết, tác giả trình bày một số cơ
sở luận về KDCN bảo hộ KDCN, đồng thời phân tích trường hợp của DN
Võng Xếp Duy Lợi để làm rõ về vai trò của bảo hộ KDCN trong kinh doanh.
Từ khóa: Kiểu dáng công nghiệp
1 Đặt vấn đề
Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu làm cho việc cạnh tranh giữa các
công ty trở nên khốc liệt hơn. Mỗi công ty đều nhận ra rằng sự sáng tạo, cải tiến,
phát triển các bằng sáng chế điều kiện sống còn của mình. Khách hàng không
chỉ sử dụng sản phẩm chất ợng của còn kiểu dáng nh dạng n
ngoài của sản phẩm. Do vậy, các doanh nghiệp (DN) đều mong muốn tạo ra nhiều
sản phẩm với kiểu dáng công nghiệp (KDCN) tối ưu, thu hút được sự quan tâm
của công chúng; việc đầu vào nghiên cứu triển khai áp dụng các KDCN mới
ngày một được chú trọng. Trên thực tế thì hiểu biết về luật sở hữu trí tuệ (TSTT)
nói chung và KDCN nói riêng của các DN Việt Nam còn hạn chế dẫn đến việc
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 251 -
các DN của chúng ta thường gặp nhiều kkhăn trong cạnh tranh thương mại,
nhất là ở thị trường nước ngoài.
Trong những năm gần đây, số đơn yêu cầu bảo hộ kiểu dáng công nghiệp
tại Cục sở hữu trí tuệ (SHTT) ngày càng tăng lên đáng kể, điều đó chứng tỏ sự
nhận thức về giá trị, vai trò của KDCN trong hội đã thay đổi. Tuy nhiên, để
xây dựng KDCN đáp ng mục đích kinh doanh của DN và đáp ứng được những
quy định về điều kiện bảo hộ KDCN lại không phải dễ dàng. Nhiều vụ việc liên
quan tới tranh chấp về KDCN; tranh đấu giữa các công ty, tập đoàn toàn cầu nhằm
bảo vệ sản phẩm của họ trước các đối thủ cạnh tranh đang diễn ra rất gay gắt.
Việc bảo hộ một KDCN thành công hay không trước hết KDCN đó phải đáp
ứng được các điều kiện bảo hộ theo quy định của pháp luật SHTT.
Trong phạm vi bài viết, tác giả m rõ những vấn đề luận về kiểu dáng
công nghiệp, đưa ra tình huống cụ thể tại doanh nghiệp nhân “Võng xếp Duy
Lợi” để làm nổi bật thực trạng của các tranh chấp về kiểu ng công nghiệp tại
Việt Nam. Từ đó đề xuất hỗ trợ cho các doanh nghiệp hiểu hơn tầm quan trọng
của kiểu dáng công nghiệp, những hậu quả pháp của việc vi phạm kiểu dáng
công nghiệp cũng như các phương pháp để bảo vệ kiểu dáng công nghiệp của các
doanh nghiệp.
2 Cơ sở lý thuyết về kiểu dáng công nghiệp
Theo định nghĩa của Tchức SHTT thế giới (WIPO): “Kiểu dáng công
nghiệp là các khía cạnh mang tính chất trang trí hay thẩm m của sản phẩm. Kiểu
dáng có thể bao m các khía cạnh ba chiều như:hình dạng hoặc bề mặt của sản
phẩm, hoặc các khía cạnh hai chiều như mẫu hoa văn, đường nét hoặc màu sắc”.
KDCN được xác định trước hết tính chất trang trí hay thẩm m của nó. Cùng
với đó, KDCN cũng thể được xác định biểu hiện bên ngoài của sản phẩm
biểu hiện đó thể là không gian hai chiều như họa tiết, đường nét, màu sắc
hoặc ba chiều như hình khối, kết cấu của sản phẩm.
Theo định nghĩa của Liên minh Châu Âu: “Kiểu dáng là là hình dạng bên
ngoài của toàn bộ sản phẩm hay một phần của sản phẩm được tạo thành từ các
yếu tố đường nét, màu sắc, hình dạng hoặc nguyên vật liệu tạo nên sản phẩm
và hoặc các yếu tố trang trí của sản phẩm”.
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam: Luật SHTT 2013, quan niệm về
KDCN của Việt Nam đã có sự đổi mới đáng kể, tại Điều 4 Luật SHTT 2013 quy
dịnh: “KDCN hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 252 -
khối, đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này”, định nghĩa này khá
tương đồng với quan điểm về KDCN của các nước trên thế giới.
Từ những quan niệm về KDCN của Pháp luật các nước, một KDCN được
xác định dựa trên hai yếu tố: KDCN phải biểu hiện bên ngoài của một sản phẩm
(hình dáng, hình khối, hóa văn, mẫu trang thoặc bất kỳ sự kết hợp nào của các
yếu tố đó…); KDCN khả năng áp dụng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp
hoặc thủ công nghiệp (theo quan điểm của rất nhiều ớc như: Hoa K, EU,
Indonexia, Malayxia…). Các đặc điểm khác như tính mới, tính khác biệt, tính
nguyên gốc chỉ các điều kiện để một KDCN được bảo hộ, không phải đặc
điểm của KDCN. Tuy nhiên, để chủ sở hữu KDCN được bảo hộ về quyền và
lợi ích hay không thì tùy theo Pháp luật của mỗi quốc gia mà KDCN đó yêu cầu
phải có tính mới, tính khác biệt hay tính nguyên gốc. Đối với Việt Nam thì Luật
SHTT 2013 đã có những quy định ràng về những điều kiện bảo hộ một KDCN.
KDCN luôn gắn kiền với sản phẩm, thể hiện hình dáng bên ngoài của sản
phẩm, tạo nên sự đặc điểm riêng biệt của sản phẩm. ơng ứng với một sản phẩm
của một thương hiệu một KDCN khác nhau hoàn toàn. vậy đây chính
điểm độc đáo tạo nên sự khác biệt giúp người tiêu dùng dễ dàng phân biệt các sản
phẩm khác nhau của cùng thương hiệu hay là sản phẩm của các thương hiệu khác
nhau. Với cùng chung một nhãn hiệu xe Honda: nhưng với mỗi loại xe thì
những kiểu dáng riêng biệt cho các dòng xe như: PCX được thiết kế với đường
nét mạnh mẽ, gam màu thời trang, là hiện thân của sự nam tính thành đạt và sang
trọng; còn với dòng xe Supper Dream: tem xe là sự kết hợp hài hòa giữa họa tiết
chìm và màu sắc tinh tế - điểm nhấn mang hơi thtruyền thống nhưng không
kém phần độc đáo. Còn khi nhắc tới nhãn hiệu Vespa thì người tiêu dùng nghĩ
ngay đến dáng vẻ cổ điển hài hòa với sự trẻ trung hiện đại được phác họa theo
hình cánh ong của các dòng xe…nghĩa khi nhắc tới một sản phẩm hay một
thương hiệu thì người tiêu dùng sẽ nghĩ ngay đến KDCN đặc trưng của sản phẩm
đó, ngược lại khi nhìn thấy KDCN của một sản phẩm thì người tiêu dùng sẽ
nghĩ ngay đến thương hiệu, thông điệp của sản phẩm. Do đó sản phẩm càng đi
sâu vào thị trường thì không chỉ ở chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng,
KDCN của sản phẩm cũng giữ một vai trò to lớn. Vì vậy doanh nghiệp phải luôn
không ngừng cải tiến KDCN của sản phẩm bởi một KDCN phù hợp với sản
phẩm không chỉ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng còn thể hiện được cả
thương hiệu của sản phẩm. Chính vì vậy mà việc bảo hộ KDCN là phương pháp
hiệu quả nhất doanh nghiệp cần thực hiện ngay khi 1 KDCN mới được
sáng chế. Việc bảo hộ giúp cho doanh nghiệp tránh được tình trạng hàng làm hàng
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 253 -
giảm sao chép KDCN hay đăng theo kiểu tài sản trí tuệ khác thương hiệu
hay bản quyền tác giả. Một ví dụ điển hình là vụ kiện tranh chấp kiểu dáng, mẫu
hộp bánh bánh đậu xanh giữa hai Công ty CPTM Rồng vàng Minh Ngọc
Công ty TNHH Gia Bảo trên thị trường bánh đậu xanh Hải Dương. Kiểu dáng
công nghiệp “Hộp đựng bánh” của Công ty TNHH Gia Bảo đã được Cục Sở hữu
trí tuệ cấp Bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp từ tháng 11/ 2005. Trong khi
đó tháng 10/ 2007, Công ty CP Rồng vàng Minh Ngọc mới có hồsố 3 2007
00439 gửi đến Cục Sở hữu trí tuệ với nhãn hiệu xin đăng “Công ty CP
Rồng vàng Minh Ngọc”. Công ty TNHH Gia Bảo hiện đang chủ sở hữu hợp
pháp của kiểu dáng Hộp đựng bánh”, nên việc Công ty CP Rồng vàng Minh
Ngọc sử dụng kiểu dáng tương tự trên sản phẩm mà không được sự cho phép của
Công ty TNHH Gia Bảo thể coi đó hành vi vi phạm. Ngày 10/8/2009 Cục
Sở hữu trí tuệ Quyết định số 1558/QĐ SHTT về việc huỷ bỏ văn bằng bảo
hộ nhãn hiệu đối với Công ty CP Rồng vàng Minh Ngọc.
vậy để đảm bảo KDCN của một sản phẩm phát huy hết tiềm ng thì
doanh nghiệp cần phải có hệ thống quản lý hiệu quả cũng như kế hoạch thúc đẩy
phát triển sự sáng tạo của các nhân viên cần sự hiểu biết sâu sắc về hệ thống
pháp luật tài sản trí tuệ nói chung về KDCN nói riêng để tránh những trường
hợp vi phạm về kiểu dáng công nghiệp gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
KDCN được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
- tính mới trên phạm vi thế giới: sự khác biệt đáng kể với những
KDCN đã bị bộc lộ ng khai dưới hình thức sử dụng, tả bằng văn bản hoặc
bất khình thức nào khác trong nước hoặc nước ngoài trước ngày nộp đơn
hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng ký KDCN được hưởng quyền ưu tiên.
- tính sáng tạo: Nếu căn cứ vào các KDCN đã được bộc lộ công khai
dưới hình thức sử dụng, tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác
trong nước hoặc nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên của
đơn đăng KDCN (trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên), KDCN
đó không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết trung bình
về lĩnh vực tương ứng.
- khả năng áp dụng công nghiệp: khnăng dùng m mẫu để chế
tạo lặp đi lặp lại hàng loạt sản phẩm có kiểu dáng giống hệt bằng phương pháp
công nghiệp hoặc thủ công nghiệp bởi người hiểu biết trung bình trong lĩnh
vực tương ứng.
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 254 -
3 Thực trạng về bảo hộ kiểu dáng công nghiệp tại Việt Nam
 Việt Nam hiện nay, theo thống kê của Cục quản lý thị trường (Bộ Công
Thương) mỗi m đều phát hiện hàng nghìn vvi phạm liên quan đến việc sản
xuất và tiêu thụ hàng hóa kiểu dáng “cải tiến” từ các kiểu ng đã được đăng
bảo hộ KDCN. Thực trạng này không những y thiệt hại cho các DN cả về
uy tín và doanh thu mà còn trực tiếp gây thiệt hại đến quyền lợi người tiêu dùng.
Mặc Việt Nam đã có đủ các biện pháp, chế tài xử các hành vi vi phạm về
SHTT nói chung và KDCN nói riêng tuy nhiên công tác thực thi nhìn chung còn
nhiều hạn chế - hầu như mới sử dụng biện pháp xử phạt hành chính. Các biện
pháp xử hình sự còn phức tạp, tốn kém và chủ thể quyền SHTT thường gặp
nhiều khó khăn trong việc thực hiện bảo vệ quyền của mình bằng biện pháp này.
Không chỉ riêng Việt Nam, tình hình bảo vệ quyền KDCN trên thế giới
hiện nay cũng rất phức tạp bởi vì KDCN đóng một vai trò rất quan trọng đối với
chiến lược kinh doanh của Công ty. Để tn ti phát triển được trong môi trưng
kinh doanh s cnh tranh ngày ng khc lit, doanh nghip bt buc phi
thích nghi vi hoàn cnh mới, có nghĩa là h phải thay đổi phương thc qun lý,
ci tiến áp dng công ngh mi, ci tiến cht lượng công vic sn phm,
nâng cao năng lực sn xuất, tăng ng tìm kiếm th trường các hội kinh
doanh mi.
Khi sử dụng, khai thác quyền sở hữu công nghiệp nói chung quyền sở
hữu kiểu dáng công nghiệp nói riêng, tức tiến hành sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ. Doanh nghiệp thể trực tiếp sử dụng,
khai thác đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc ủy quyền cho người khác tiến hành
sử dụng, khai thác. Nếu ủy quyền cho người khác khai thác, cần phải lập văn bản
ủy quyền chặt chẽ và hợp pháp, trong đó phải nêu đầy đủ các điều kiện mà người
được ủy quyền phải tuân thủ.
Theo s liu báo cáo ca Cục SHTT, tính đến tháng 5/2017 thì KDCN
mt trong những đơn được xin đăng ký sở hu công nghip (SHCN) nhiu Vit
Nam. C th: tổng số đơn đăng SHCN mới được tiếp nhận 22.370 (trong
tổng số 39.408 đơn các loại được tiếp nhận), bao gồm: 2.056 đơn ng chế; 145
đơn giải pháp hữu ích; 1.004 đơn kiểu dáng công nghiệp; 19.131 đơn đăng
nhãn hiệu (15.703 đơn nhãn hiệu quốc gia 3.428 đơn nhãn hiệu quốc tế nộp
qua Hệ thống Madrid); 3 đơn chỉ dẫn địa lý 31 đơn đăng ký quốc tế có nguồn
gốc Việt Nam (2 đơn sáng chế, 29 đơn nhãn hiệu). Trong đó, cục SHTT đã xử lý
34.535 đơn các loại, đơn đăng ký SHCN đã xử lý được là 16.874, tăng 11,6% so