JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0043
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 154-160
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC A NHẬP CHO TRẺ EM MỒ CÔI
LÀNG TRẺ SOS QUY NHƠN - BÌNH ĐỊNH TẠI NHÀ TRƯỜNG TIỂU HỌC
Nguyễn Hồng Kiên và Dương Văn Thắng
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Nội
Tóm tắt. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu v thực trạng giáo dục a nhập (GDHN) cho trẻ
em mồ côi sống tại các trung tâm bảo trợ hội (TTBTXH) nhà trường tiểu học. Khách
thể nghiên cứu chính 16 giáo viên đang dạy 60 trẻ mồ côi của làng trẻ SOS Quy Nhơn
- Bình Định học hòa nhập tại hai trường tiểu học Nhơn Bình 1 Nhơn Bình 2, kết quả
nghiên cứu được so sánh với 21 khách thể người bảo trợ trẻ mồ côi chính 60 học sinh
(HS) mồ côi của làng trẻ SOS Quy Nhơn - Bình Định. Kết quả nghiên cứu cho thấy việc
phổ biến thông tin về GDHN cho trẻ mồ côi còn rất hạn chế, chưa chủ trương thực hiện
chính sách GDHN một cách ràng, đồng bộ. Hình thức GDHN còn y tiện, không được
đưa vào chương trình phương pháp giảng dạy. Đội ngũ cán bộ nhân viên còn thiếu kiến
thức năng v GDHN. Nhà trường chưa nhận được nguồn hỗ trợ từ bên ngoài nào đáng
kể để GDHN cho tr mồ côi. Đặc biệt, việc đánh giá kết quả học tập của HS mồ côi học
hòa nhập bị đánh đồng với trẻ bình thường. vậy, cần những biện pháp GDHN xuất
phát từ thực tiễn chế chính sách của nhà nước trong triển khai GDHN để trẻ em mồ
côi được hòa nhập tốt nhất nhà trường tiểu học - môi trường hội hóa quan trọng nhất
trong những năm đầu đời của các em.
T khóa: GDHN, trẻ em mồ côi, làng trẻ SOS, n trường tiểu học.
1. Mở đầu
Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và hội, năm 2011 [1] Việt Nam
khoảng 149.102 trẻ mồ côi đang sống tại 432 trung tâm bảo trợ xã hội. Đây nhóm trẻ chịu tổn
thương v tâm lí lớn nhất do b mất đi chỗ dựa vô cùng quan trọng khi tuổi đời còn non nớt, rất cần
sự chăm c và phải đến sống nơi không người thân thích. Các em đã gặp rất nhiều o cản
khi hòa nhập tại trường tiểu học - i trường hội hóa bắt buộc đầu tiên trong cuộc đời của các
em. vy, nhu cầu được giáo dục a nhập tại trường tiểu học của các em vô cùng cấp thiết.
Thực tiễn cho thấy việc giáo dục hòa nhập cho c em còn rất nhiều hạn chế cả v nền tảng luận
cũng như chế chính sách các điều kiện thiết yếu khác. Trẻ em mồ côi của làng trẻ SOS Quy
Nhơn Bình Định không được học hệ thống trường Hermann Gmeiner như trẻ em c làng trẻ
khác học hòa nhập tại cộng đồng, cụ th hai điểm trường củatiểu học Nhơn Bình 1 và tiểu
học Nhơn Bình 2. Các điểm trường y nằm cách xa trung tâm và còn rất nhiều thiếu thốn v
sở vật chất.
Ngày nhận bài: 5/1/2016. Ngày nhận đăng: 25/5/2016
Liên hệ: Nguyễn Hồng Kiên, e-mail: nguyenhongkiengd@gmail.com
154
Thực trạng giáo dục hòa nhập cho tr em m côi ng tr SOS Quy Nhơn - Bình Định...
Khái niệm giáo dục hòa nhập
Theo kết luận và kiến nghị của họp thứ 48 của Hội nghị quốc tế v giáo dục, Geneva,
tháng 11 năm 2008 nêu rõ: “GDHN một quá trình liên tục nhằm cung cấp một nền giáo dục
chất lượng cho tất cả mọi người, tôn trọng sự đa dạng và những khác biệt v nhu cầu, kh năng,
đặc điểm và vọng học tập của các em học sinh và cộng đồng và loại bỏ tất c các nh thức phân
biệt đối xử”. Trong bài viết y, chúng tôi lấy quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo làm quan
điểm nghiên cứu của mình: “GDHN một quá trình thay đổi toàn diện hệ thống giáo dục nhờ xác
định và đáp ứng nhu cầu đa dạng của tất cả học sinh, không phân biệt v hoàn cảnh hội, kinh
tế, văn a, ngôn ngữ, thể chất, hoặc các yếu tố thể chất khác” [2].
Tình hình nghiên cứu trên thế giới trong nước
Quan điểm GDHN trẻ mồ i cần được đặt trong một tập thể, rèn luyện thông qua lao động
hoặc tiếp xúc với quá trình lao động để nuôi dưỡng xúc cảm trong tâm hồn đã được đặt nền móng
từ trong tưởng của nhà giáo dục vĩ đại người Nga A.X.Ma-ka-ren-cô sau đó tiếp nối V.A.
Xu-khôm-lin-xki. Ngay từ năm 1920, A.X.Ma-ka-ren-cô (1888- 1939) đã được giao nhiệm vụ tổ
chức GDHN cho những trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Quan điểm để giáo dục những trẻ
em y của Ma-ka-ren-cô đưa học sinh vào trong một tập thể, trong đó toàn bộ tập th phải cùng
với thầy giáo dưới sự chỉ đạo của thầy giáo tiến hành ng tác giáo dục mọi người. Mặc đề
cao tập thể nhưng ông cũng không quên vai trò giáo dục nhân. Ông chỉ ra mối quan hệ giữa tập
thể và nhân trong giáo dục, tập thể chỉ môi trường để giáo dục hòa nhập cho các nhân. Còn
với từng học sinh cụ thể, cần một phương pháp riêng. Bên cạnh đó, Ma-ka-ren- cũng nhấn
mạnh vai trò của tập thể giáo viên và nhà trường trong việc giáo dục các em học sinh có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, trong đó trẻ mồ côi. Tiếp nối quan điểm Mac-xít của A.X.Ma-ka-ren-cô,
nhà giáo dục V.A.Xu-khôm-lin-xki (1918- 1970) đã đúc kết tưởng giáo dục hòa nhập bắt nguồn
từ thực tiễn dạy học và lãnh đạo trường học. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong GDHN cho trẻ
em mồ côi của V.A.Xu-khôm-lin-xki chính thông qua giao tiếp tâm hồn [3]. Để tổ chức giáo
dục cho tr mồ côi, ông nhấn mạnh việc được sống giữa mọi người tạo thành một tập thể yêu
thương như một gia đình hòa thuận. V phương pháp giáo dục cụ thể cho trẻ em mồ côi, trước tiên
Xu-khôm-lin-xki đề cao sự giao tiếp tâm hồn. Xu-khôm-lin-xki tổng kết “Dạy trẻ biết cảm xúc là
việc khó khăn nhất trong công tác giáo dục”.
GDHN giáo dục cho mọi trẻ em không chỉ dành riêng cho đối tượng trẻ em mồ côi
hay trẻ em hoàn cảnh đặc biệt khó khăn là quan điểm đã xuất hiện từ những năm 20 của thế kỉ
XX của nhà giáo dục đại người Nga A.X.Ma-ka-ren-cô, sau đó tiếp nối hoàn thiện các tác giả
Tony Booth và Mel Ainscow (người Anh) và Irine Lopez (Thụy Điển). Trong quá trình giáo dục
những trẻ em phạm pháp vị thành niên, những trẻ em vô thừa nhận, vô gia tưởng và phương
pháp giáo dục của A.X.Ma-ka-ren-cô hình thành và phát triển. Song, như ông đã nhiều lần nhấn
mạnh, chúng thể vận dụng hiệu quả vào công tác giáo dục tr em c trường phổ thông
bình thường [4]. Hai tác gi Tony Booth và Mel Ainscow [5] đề xuất việc y dựng môi trường
giáo dục hòa nhập không chỉ phương hướng hoàn thiện nhà trường theo c giá trị hòa nhập
còn nhằm y dựng các mối quan hệ hợp tác và cải thiện tốt hơn môi trường dạy học hòa nhập.
Sau đó, Irine Lopez, Trường Đại học Gotenborgs Thụy Điển [6], người hơn 20 năm cống hiến
cho giáo dục a nhập Việt Nam cũng nhìn nhận giáo dục hòa nhập theo tiến trình lịch sử phát
triển của giáo dục. GDHN dành cho mọi trẻ em. Hay nói khác đi, mọi tr em đều quyền học
hòa nhập cùng nhau trong nhà trường. Trong khi đó, hai tác giả khác Boler, T & Carroll [7] đã
tổng kết rằng trẻ em mồ côi đang gặp hàng loạt những vấn đề trong giáo dục.Trong đó, vấn đề cấp
bách nhất những sang chấn tâm dẫn đến sự tổn thương cho các em. Đó ng nguyên nhân
gây ra sự thiếu tập trung trong học tập, khó khăn trong việc tham gia các hoạt động học tập, kết
155
Nguyễn Hồng Kiên Dương Văn Thắng
quả học tập kém. Quan điểm coi trẻ em mồ côi nhóm trẻ d bị tổn thương nhất và cần sự
hỗ trợ v GDHN nhằm giảm bớt những k khăn trong học tập cũng quan điểm của Chính phủ
Liên bang Nga năm 2007 [8].
Việt Nam, việc nghiên cứu v GDHN cho trẻ mồ côi chưa nhận được nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu, chỉ một số i liệu dạng i nghiên cứu hoặc chuyên đề. Tác giả
Nguyễn Thị Oanh [9] khẳng định: “GDHN cho trẻ em mồ côi trách nhiệm của gia đình, nhà
trường, các quan chức năng và cộng đồng hội”. Cảnh báo nguy rối nhiễu m đáng báo
động của trẻ em mồ côi sống tại các TTBTXH, từ đó đề xuất sự quan tâm của nhà trường, của các
TTBTXH đến việc trị liệu và giúp đ các em trong học tập quan điểm của nhóm tác giả Trần
Thị Tú Anh, Hoàng Thị Kim Liên [10] của Trường Đại học phạm - Đại học Huế và cộng sự.
Đề xuất lớp học linh hoạt để phù hợp với nhận thức trình độ của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn trong đó trẻ mồ côi quan điểm của tác giả Trần Thị Minh Đức [11]. Cần kiến
thức v tâm sinh lí, những rối loạn phát triển thường gặp trẻ em, nắm vững quyền, bổn phận và
nhu cầu của trẻ, xây dựng bầu không khí an toàn và thân thiện, y dựng một số chiến lược kỉ luật
tích cực những kiến thức và năng cần thiết của người làm việc với trẻ em mồ côi sống trong
trung tâm bảo trợ xã hội và làng trẻ mồ côi là kết luận của nhóm tác giả Đoàn Thị Hương, Đặng
Hoàng Minh [12].
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu y chúng tôi tiến hành khảo sát 60 HS mồ côi, 21 người bảo tr
của làng trẻ và đặc biệt 16 giáo viên của hai trường tiểu học đang dạy 60 trẻ mồ côi nói trên học
hòa nhập tại trường tiểu học Nhơn Bình 1 và tiểu học Nhơn Bình 2. Kết quả nghiên cứu được công
bố dựa trên kết quả phiếu khảo sát giáo viên chủ yếu nhưng đối chiếu và so sánh với kết quả
phiếu của người bảo trợ và học sinh. Tất cả số liệu sau khi đã thu thập được x bằng phần mềm
IBM SPSS 22 dành cho hệ điều hành Windows. Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 m 2015 đến
tháng hết tháng 2 năm 2016. Phương pháp nghiên ch yếu khảo sát bằng bảng hỏi, quan sát
phỏng vấn sâu.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Kết quả nghiên cứu
Năm học 2015-2016, làng trẻ SOS Quy Nhơn- Bình Định 60 HS gồm 36 HS nam và 24
HS nữ trong đó 25/60 HS người dân tộc thiểu số đang theo học từ lớp 1 đến lớp 5. Kết quả
nghiên cứu cho thấy: trẻ mồ côi sống tại làng SOS Quy Nhơn đang học hòa nhập tại trường tiểu
học thể, chiều cao, cân nặng và sự nhanh nhẹn không thua kém so với các trẻ khác. Điều y
bước đầu thể đánh giá trẻ sống tại làng SOS Quy Nhơn được các mẹ và các chăm sóc dinh
dưỡng chu đáo. Hầu hết trẻ đều nhút nhát, tự ti ít khi thể hiện mình trước lớp. Ngoài ra, tr thường
biểu hiện buồn bã, thu mình, không vui v như các bạn cùng lớp, thầy Nguyễn H cho biết thêm:
“Khi buồn, trẻ thường ngồi một mình không chia sẻ với bạn. Các em luôn cảm giác tủi thân khi
chứng kiến bạn mình bố mẹ”. 50% giáo viên được hỏi và 76,2% người bảo trợ xác nhận trẻ
thường hay xin đồ hoặc lấy cắp đồ dùng của bạn trong lớp hoặc của người khác. Nguyên nhân trẻ
thích xin đồ hay lấy cắp của người khác do tr nhỏ thường thích những đồ dùng của bạn hay của
người khác không được đáp ứng. Những hành vi y thường rơi vào những trẻ từng sống lang
thang hoặc sống vô cùng thiếu thốn trước khi vào làng. Trong học tập, 37,40 % giáo viên đánh giá
trẻ gặp khó khăn trong việc thực hiện nội quy, nền nếp của lớp; 56,40% giáo viên xác nhận trẻ gặp
khó khăn trong học tập, chủ yếu hai môn Toán và Tiếng Việt. Nguyên nhân do không được
học tập, dạy dỗ chu đáo, quá trình học tập bị gián đoạn hoặc từng sống lang thang tự do. Những
156
Thực trạng giáo dục hòa nhập cho tr em m côi ng tr SOS Quy Nhơn - Bình Định...
trẻ kết quả học tập kém thường rơi vào những em thuộc dân tộc Bana hoặc Khơ-me mới được
đón v sinh sống tại làng phải học hòa nhập với các bạn dân tộc Kinh sống tại thành phố. Kết quả
y khá trùng khớp với kết quả nghiên cứu từ chính học sinh người bảo trợ.
Quyền của trẻ em được học trong môi trường giáo dục trong đó trẻ điều kiện và
hội để lĩnh hội những tri thức mới theo nhu cầu và khả năng của mình. Trẻ mồ côi sống tại cơ
sở bảo trợ xã hội rất cần nhận được sự giúp đỡ của nhà trường, thầy để đạt được kết quả giáo
dục tốt nhất. Dựa theo tiêu chí giáo dục hòa nhập của các tác giả Chris Forlin, Chambers, Jim
Loreman, Joanne Deppeler và Umesh Sharma [13], chúng tôi đã lập bảng hỏi giáo viên tham gia
dạy giáo dục hòa nhập cho trẻ mồ côi và thu được những kết quả sau đây:
2.1.1. Phổ biến thông tin v GDHN bồi dưỡng giáo viên
Để thực hiện tốt GDHN cho trẻ em mồ côi, đội ngũ giáo viên trong nhà trường tiểu học cần
phải được cập nhật những kiến thức, năng thường xuyên. Qua trưng cầu ý kiến, 18,8 % giáo viên
trả lời không được n trường ph biến thông tin v giáo dục hòa nhập cho trẻ em mồ côi, 50%
giáo viên không biết v thông 39/2009/TT-BGDĐT triển khai giáo dục hòa nhập cho trẻ em
hoàn cảnh khó khăn. Hầu hết giáo viên đều không được học v giáo dục hòa nhập trong chương
trình đào tạo tại nhà trường trong các chương trình bồi dưỡng thường xuyên; 56,30 % giáo viên
được đi tập huấn v giáo dục hòa nhập, số giáo viên còn lại hoàn toàn chưa kiến thức v vấn đề
y.
2.1.2. s vật chất trong nhà trường
Qua kết quả phỏng vấn thầy giáo đang dạy hòa nhập và các em học sinh tại trường Tiểu
học Nhơn Bình 1 và trường Tiểu học Nhơn Bình 2, sở vật chất phục vụ dạy hòa nhập còn thiếu
thốn, hiện nay n trường không sở vật chất cũng như các phòng học chuyên dụng với những
trang bị v bàn ghế theo yêu cầu dạy học tương tác hoặc những phòng học nhỏ, phòng học lớn để
phục vụ giảng dạy GDHN.
2.1.3. Chính sách GDHN của nhà trường
Trẻ em mồ côi học hòa nhập rất cần nhận được sự quan tâm của nhà trường, các thy
giáo và các bạn học sinh cùng lớp, học sinh mồ côi hoàn cảnh khó khăn, các em gặp nhiều trở
ngại trong cuộc sống và trong học tập. Chính sách hỗ trợ của nhà trường phần nào giúp các em
giảm bớt những áp lực đó.
Kết quả Bảng 1 cho thấy, bước đầu n trường các chính sách hỗ trợ cho trẻ mồ côi như
miễn giảm các loại quỹ đóng góp, hỗ trợ ch giáo khoa, hỗ trợ đồ dùng học tập; tuy nhiên, v học
tập trẻ mồ côi chưa được giáo viên hỗ trợ khác so với học sinh bình thường mặc các em gặp
nhiều khó khăn rào cản trong học tập.
Bảng 1. Kết quả khảo t sự hỗ trợ của nhà trường đối với tr MC học hòa nhập
Nội dung Tỉ lệ % Không Tỉ lệ %
Cử giáo viên dạy phụ đạo 0 0 16 100
Miễn giảm các loại quỹ đóng góp tại nhà trường 16 100 0 0
Hỗ trợ SGK 15 93,8 1 6.20
Hỗ trợ đồ dùng học tập 15 93,8 1 6,20
Khác 0 0 16 100
157
Nguyễn Hồng Kiên Dương Văn Thắng
2.1.4. Thực hiện kế hoạch giáo dục nhân
Với câu hỏi, thầy thực hiện kế hoạch giáo dục nhân cho trẻ mồ côi sống tại làng
SOS đang theo học tại lớp của mình hay không? Kết quả là, 87,5 % giáo viên đang dy các lớp
trẻ mồ côi trả lời: “không thực hiện kế hoạch giáo dục nhân”, một tỉ lệ nhỏ: 2 giáo viên thực
hiện chiếm tỉ lệ 12,50 %.
2.1.5. Sự tương tác giữa các học sinh
Trong GDHN, s tương tác thường xuyên và hỗ trợ qua lại giữa trẻ và nhóm bạn sẽ giúp ích
rất nhiều cho trẻ trong học tập cũng như rèn luyện các năng cuộc sống, từ đó nâng cao khả năng
hòa nhập.
Bảng 2. Thực trạng sử dụng các hình thức tương tác cho học sinh mồ côi
Nội dung Tỉ lệ % Không T lệ %
Làm việc theo cặp 6 37,50 10 62,50
Làm việc theo nhóm nhỏ 9 56,30 7 43,70
Thường xuyên được trao đổi theo nhóm nhỏ 3 18,70 13 81,30
Làm việc cùng nhóm lớn 2 12,50 14 87,50
Khác 0 0 16 100
Học sinh mồ côi đang học hòa nhập tại trường Tiểu học Nhơn Bình 1 Tiểu học Nhơn
Bình 2 ít được tham gia các hoạt động tương tác cùng các bạn. Theo kết quả nghiên cứu, 62,5%
giáo viên không tổ chức cho trẻ học theo cặp, điều đó đồng nghĩa với việc không phân công các
bạn học k giỏi giúp đỡ c bạn trẻ mồ côi học yếu. 43,70 % giáo viên không tổ chức cho
trẻ học nhóm, qua phỏng vấn sâu, một số giáo viên cho biết: “Giáo viên chỉ cho c em học theo
nhóm một số tiết dạy, việc học nhóm làng SOS và trường hầu như không có”. Điều y sẽ
làm hạn chế chất lượng giáo dục hòa nhập, hạn chế khả năng tương tác, trẻ khó hòa nhập cộng
đồng.
2.1.6. Đội ngũ n bộ công nhân viên
Đội n cán bộ công nhân viên chuyên môn v GDHN trong nhà trường một trong
các tiêu chí để đánh giá chương trình GDHN tại trường Tiểu học. Tuy nhiên, trường tiểu học Nhơn
Bình 1 Nhơn Bình 2 chỉ đội ngũ giáo viên dy chương trình phổ thông và kiêm thêm chương
trình hòa nhập. Cả hai trường đều không giáo viên phụ trong những lớp học hòa nhập, không có
nhân viên vấn tâm giáo dục; không nhân viên công tác xã hội. Kết quả này không trùng
khớp với kết quả chúng tôi khảo sát trên 21 người bảo trợ, đặc biệt câu hỏi v giáo viên ph giúp
giáo viên chính hỗ tr học sinh mồ côi nhu cầu giúp đỡ a nhập. 47,6% phụ huynh (người
bảo trợ) cho rằng con của họ được giáo viên phụ hỗ trợ trong lớp học, tiến hành phỏng vấn sâu,
chúng tôi thu được kết quả: giáo viên phụ người bảo trợ trả lời chỉ giáo viên dạy môn phụ, họ
thường đến trước giờ dạy khi giáo viên chính chưa kết thúc lớp học đ tiếp nối tiết học của mình.
2.1.7. Sự h trợ của nguồn lực bên ngoài
Trẻ em mồ côi sống tại làng SOS Quy Nhơn học hòa nhập tại các trường tiểu học trên địa
bàn không nhận được s giúp đỡ của các tổ chức, nhân các nhà hảo tâm. Qua phỏng vấn một
số học sinh, các em cho biết: “Em nhận được bánh kẹo của các anh chị và các chú đến thăm
làng”. Kết quả y cũng p hợp với kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên đang dạy tại nhà trường,
tới 62,60 % cho rằng không tổ chức nào giúp đỡ các em trong học tập; 87,50 % giáo viên
khẳng định trẻ mồ i không nhận được nguồn giúp đỡ tài chính tại n trường.
158