
ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
319
THỰC TRẠNG LOGISTICS XANH: VẤN ĐỀ VÀ GIẢI PHÁP
TỪ CÔNG NGHỆ BLOCKCHAIN
Văn Hữu Quang Nhật
Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn
Lê Thị Kiều Anh
Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh
Tóm tắt
Bài viết phân tích vai trò của công nghệ blockchain với hoạt động logistics xanh, đồng
thời đề xuất một số giải pháp nhằm ứng dụng blockchain thành công trong doanh nghiệp để
có thể xanh hóa hoạt động logistics. Từ bối cảnh khủng hoảng do đại dịch Covid -19 trong
những năm vừa qua, các doanh nghiệp buộc phải thay đổi để thích nghi. Định hướng xanh
được tích hợp trong sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường trở thành xu hướng tất yếu,
gắn chặt với mục tiêu phát triển bền vững cho doanh nghiệp. Việc kiểm soát chi phí được xem
là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong
mọi lĩnh vực. Xanh hóa hoạt động giúp doanh nghiệp duy trì được mục tiêu kiểm soát này.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp logistics đang còn gặp một số vấn đề hạn chế trong việc quản
lý, chia sẻ dữ liệu theo thời gian thực và dự báo, khiến việc giảm chi phí logistics còn chưa
như kỳ vọng. Các giải pháp số hóa điển hình như Blockchain được xem là giải pháp khả thi
cho doanh nghiệp hướng đến mục tiêu tài chính và xanh.
Từ khóa: Logistics xanh, blockchain, chuỗi cung ứng
GREEN LOGISTICS: PROBLEMS AND SOLUTIONS FROM
BLOCKCHAIN TECHNOLOGY
Abstract
This paper studies to analyze the role of blockchain technology in green logistics, and
at the same time proposes some solutions to successfully apply blockchain in green logistics.
The spread of the Covid-19 pandemic in recent years has prompted businesses to go green in
production and business activities or to integrate production and business with environmental
protection. This is an inevitable trend for the sustainable development strategy for businesses
and the logistics sector is no exception. Currently, the logistics industry is developing
globally as businesses are increasingly aware of the importance of logistics. Therefore, cost
control is considered a factor that directly affects the competition of enterprises in the field.
In fact, green logistics enterprises are still facing some limited problems in managing and

320
ICYREB 2021 | CHỦ ĐỀ 1: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA
sharing data in real-time, and are expected, so the reduction of green logistics costs in our
country is still a problem.
Keywords: Green logistics, blockchain, supply chain
1.Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, toàn cầu đã và đang chịu ảnh hưởng nặng nề với bệnh dịch
và sự biến đổi khí hậu. Nguyên nhân chính của các hiện tượng này chính là hậu quả của việc
ô nhiễm môi trường quá mức. Các doanh nghiệp được xét là bên liên quan tác động lớn đến
môi trường. Nhiều nhà quản lý doanh nghiệp hướng tới chiến lược cụ thể trong việc cân bằng
giữa sản xuất, kinh doanh và môi trường. Và xu hướng phát triển bền vững trong doanh
nghiệp trở thành xu hướng của các doanh nghiệp trên thế giới. Định hướng này thúc đẩy
doanh nghiệp thực hiện xanh hóa mô hình sản xuất và kinh doanh truyền thống. Là một trong
các lĩnh vực gây ảnh hưởng lớn đến môi trường, logistics cần phải đẩy nhanh quá trình xanh
hóa nhằm nâng cao hiệu quả và giảm thiểu sự ô nhiễm. Trên thế giới, đã có nhiều quốc gia
thực hiện xanh hóa vào hoạt động logistcs cụ thể như sau: Tại Trung Quốc, trong nền công
nghiệp sản xuất giày, doanh nghiệp đã bắt đầu thực hiện tìm kiếm chất liệu thân thiện môi
trường, sử dụng giấy tái chế để làm hộp đựng giày và lắp đặt hệ thống lọc cho nhà máy.
Tương tự, ở Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ, chính phủ vừa giúp xây một khu phức hợp xử lý
chất thải thông thường (common effluent treatment plant - CETP) để xử lý nước thải từ công
nghiệp thuộc da (Bùi Văn Danh, 2017). Cùng với xu hướng đó, tại Hoa Kỳ, công ty logistics
khổng lồ FedEx đã sử dụng đội bay Boeing 777F vốn tiết kiệm nhiên liệu hơn hay các xe hoạt
động bằng điện nhằm giảm thiểu việc thải khí CO. Tại Đức, công ty DHL đã thực hiện chiến
lược dịch vụ Go Green, lượng khí CO thải ra từ quá trình vận chuyển sẽ được đền bù bằng
các dự án bảo vệ khí hậu như dự án xây dựng một nhà máy phong điện ở Phật Sơn, Trung
Quốc (Thái Hà, 2021). Với xu hướng đó, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã tiên phong
trong chiến lược xanh như: kho lạnh Nam Hà Nội, ICD Tân Cảng - Sóng Thần, NhatViet
Logistics…Điều trên cho thấy rằng, phát triển bền vững, xanh hóa hoạt động sản xuất và kinh
doanh là xu hướng tất yếu của doanh nghiệp logistics trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng.
Bên cạnh đó, chi phí logistics ở Việt Nam cao hơn thế giới với tỷ lệ 25% hơn 7% so
với Trung Quốc, 14% so với Nhật Bản, 17% so với Singapore và gần gấp đôi so với toàn cầu.

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
321
Hình 1. Chi phí logistics Việt Nam năm 2020
Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam
Cùng với đó, hoạt động logistics còn tồn tại nhiều mặt hạn chế và chưa ổn định, cụ thể
như vận tốc bình quân của xe tải lưu thông trên các tuyến quốc lộ Việt Nam là 35km/h, độ
tuổi bình quân của xe vận tải là 17 năm, thủ tục hải quan chậm 3 năm về mức tốt nhất ở Đông
Nam Á và chi phí lưu kho doanh nghiệp trả hằng năm là 100 triệu đồng (Anh Minh, 2017). Số
liệu trên cho thấy, hiện trạng logistics Việt Nam đang còn nhiều vấn đề bất cập trong hoạt
động, quản lý, giám sát vận chuyển và lưu kho hàng hóa.
Song song, toàn cầu đã và đang trong những bước đầu của nền cách mạng Công
nghiệp 4.0 với những thành tựu khoa học - kỹ thuật vượt bậc. Đây là cơ hội cho doanh nghiệp
trên thế giới giảm chi phí sản xuất và kinh doanh, tăng khả năng quản lý và giám sát, tiếp cận
khách hàng dễ dàng hơn thông qua ứng dụng nền tảng công nghệ số. Gần đây, từ khóa “công
nghệ số” ngày càng được xem trọng từ các hội nghị toàn cầu, chính phủ, hội thảo doanh
nghiệp, các nhà nghiên cứu quan tâm và đem làm đề tài nghiên cứu tập trung. Là một lĩnh vực
bao gồm các hoạt động vận chuyển, lưu trữ, xử lý nguyên vật liệu từ nhà cung cấp đến nhà
sản xuất và sản phẩm/ dịch vụ từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng (Nath & Mandal, 2019;
Jacobs và cộng sự, 2014), thì việc ứng dụng nền tảng công nghệ số trong việc giám sát hiệu
quả và quả lý chất lượng hàng hóa được xem là vấn đề cấp thiết.
2. Hoạt động logistics xanh và công nghệ blockchain
2.1 Công nghệ blockchain
Cùng với làn sóng công nghệ số, số hóa trên mọi lĩnh vực của thế giới, blockchain trở
thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong hội nghị, hội thảo và các nhà nghiên cứu. Hiện
nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu đem blockchain vào quá trình nghiên cứu, vì vậy, đã xây
dựng nên những góc tiếp cận khác nhau về khái niệm blockchain. Lược khảo nghiên cứu
trước đây, tác giả nhận thấy các nhà nghiên cứu đã khai thác nhiều cạnh khác nhau về
blockchain cụ thể như: Với kết quả nghiên cứu của Chris (2017) nhận thấy rằng, blockchain
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
Singapore Nhật Bản Trung Quốc Việt Nấm

322
ICYREB 2021 | CHỦ ĐỀ 1: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ TOÀN CẦU HÓA
là một mạng lưới phần mềm ngang hàng, được phân phối đầy đủ, sử dụng mật mã để lưu trữ
an toàn các ứng dụng, lưu trữ dữ liệu và dễ dàng chuyển các công cụ kỹ thuật số có giá trị đại
diện cho tiền trong thế giới thực. Đồng quan điểm, Lee (2019) chỉ thêm rằng blockchain là
một sổ cái bất biến, mật mã (dựa trên mật mã), phân tán (mạng phi tập trung ngang hàng),
theo hướng đồng thuận. Cùng với đó, góc tiếp cận mục tiêu, Kube (2018) chỉ ra rằng
blockchain là một hệ thống ngang hàng nhằm đạt được hai mục tiêu: một mặt, nó cho phép
mọi người thêm dữ liệu giao dịch mới vào lịch sử được duy trì chung; mặt khác, nó đảm bảo
rằng lịch sử của dữ liệu giao dịch được bảo vệ khỏi bị thao túng hoặc giả mạo. Tóm lại,
blockchain được hiểu là hệ thống lưu trữ, bảo mật các cơ sở dữ liệu thành các khối, không bị
giới hạn, đồng cấp nhằm chống hiện tượng gian lận, thay đổi của dữ liệu trong hệ thống máy
chủ, nếu có trường hợp gian lận, sự thay đổi thông tin dữ liệu bất hợp pháp thì hệ thống máy
chủ sẽ tự động cập nhật lại dữ liệu ban đầu.
2.2 Hoạt động logistics xanh
Dưới tác động của đại dịch, logistics xanh càng được chú ý và quan tâm hơn không
chỉ trong trong giới học thuật mà còn đến từ các nhà quản lý doanh nghiệp. Khái niệm
logistics xanh được nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận với những khía cạnh khác nhau. Theo kết
quả nghiên cứu Chhabra và cộng sự (2017) chỉ ra rằng logistics xanh đề cập đến việc lập kế
hoạch, kiểm soát và thực hiện luồng hậu cần thông qua việc kết hợp các kỹ thuật hậu cần hiện
đại với mục đích giảm thiểu các nguy cơ về môi trường. Như vậy, việc chuyển đổi sang
logistics xanh có vai trò quan trọng trong việc tích hợp kinh tế và môi trường vào logistics.
Góc tiếp cận là mục đích, việc xây dựng logistics xanh nhằm mục đích giảm các tác động bên
ngoài môi trường của các hoạt động logistics, chẳng hạn như phát thải khí nhà kính, tiếng ồn
và tai nạn, đồng thời phát triển sự cân bằng bền vững giữa các mục tiêu kinh tế, môi trường
và xã hội (Dekker và cộng sự, 2012). Góc tiếp cận là chức năng, logistics xanh là là một cách
tiếp cận quản lý qua đó đánh giá, quản lý và kiểm soát các tác động môi trường của các hoạt
động logistics của họ trong suốt vòng đời của sản phẩm (Gong, 2015); kết quả gián tiếp của
các chính sách và chiến lược nhằm cải thiện chi phí, hiệu quả và độ tin cậy của chuỗi cung
ứng (Rodrigue và cộng sự, 2016).
Logistics xanh được hiểu là chiến lược doanh nghiệp lĩnh vực logistics phủ xanh từ kế
hoạch tới hoạt động, từ vận chuyển, giám sát tới lưu kho hàng hóa nhằm cân bằng giữa lợi
nhuận và sức khỏe môi trường. Tuy nhiên, lĩnh vực này còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cụ
thể như chi phí cao, nguyên nhân chủ yếu của việc gia tăng chi phí là khả năng giám sát nhân
công và chất lượng vận tải đang còn thấp, hoạt động kiểm tra hàng hóa đang còn thủ công,
không theo dõi cụ thể tình trạng hư hỏng của hàng hóa, nhất là nông sản…về nội doanh
nghiệp.
Ứng dụng blockchain trong doanh nghiệp logistics sẽ giúp doanh nghiệp và các bên
liên quan đạt mục tiêu phòng chống gian lận, bảo mật thông tin và dữ liệu, gia tăng khả năng
kiểm soát và quản lý hoạt động trong doanh nghiệp. Hơn nữa, blockchain không những xây
dựng doanh nghiệp bền vững, toàn vẹn dữ liệu mà còn bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và

ICYREB 2021 | Chủ đề 1: Tăng trưởng kinh tế và Toàn cầu hóa
323
các bên liên quan của doanh nghiệp. Và hơn hết, ứng dụng blockchain trong doanh nghiệp
góp phần xây dựng thương hiệu vững mạnh với sứ mệnh luôn hướng đến quyền lợi mọi đối
tượng hữu quan. Là một lĩnh vực hoạt động ảnh hưởng và tác động đến nhiều bên liên quan
trong và ngoài doanh nghiệp, việc xây dựng và thực hiện chiến lược blockchain được xem là
cấp thiết với xu hướng phát triển bền vững.
3. Thực trạng logistics xanh tại Việt Nam
Theo Hiệp hội DN dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành
logistics tại Việt Nam ở Việt Nam có khoảng những năm gần đây đạt khoảng 14%-16%, với
quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm khoảng 3.000 DN
trong nước và khoảng 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình
thức. Hiện nay, 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt
Nam với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ Logistics,
KMTC Logistics… Cùng với đó, theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng
thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN sau
Singapore, Malaysia và Thái Lan (Phạm Trung Hải, 2019).
Cùng với đó, thời gian gần đây, với thành tựu khoa học – công nghệ vượt bậc của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, song song là đại dịch Covid – 19 đã thúc đẩy doanh nghiệp
tích hợp mô hình bán hàng đa kênh. Do đó, bùng nổ về thương mại điện tử và e-Logistics trên
toàn cầu và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Theo Cục Thương mại điện tử và kinh tế số của
Bộ Công Thương, thương mại điện tử tăng trưởng 35%/năm; doanh số bán lẻ thương mại điện
tử của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 20%/năm và tổng doanh số bán lẻ
thương mại điện tử Việt Nam dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2020 (Phạm Trung Hải, 2019).
Từ những dữ liệu trên cho thấy hoạt động logistics Việt Nam đang phát triển mạnh, bắt kịp xu
hướng phát triển logistics của thế giới.
Bên cạnh đó, hoạt động logistics truyền thống tác động tiêu cực đến môi trường. Theo
Tổ chức Liên chính phủ về thay đổi khí hậu (IPCC), khói thải từ máy bay chiếm 3,5% nguyên
nhân làm cho trái đất ấm dần lên. Cùng với đó, theo Cơ quan Môi trường châu Âu, các
chuyến bay từ châu Âu tạo ra lượng khí thải lên tới 440.000 tấn mỗi ngày. Với vận tải đường
sắt, đường bộ, tại Việt Nam, chất thải và rác vẫn xả trực tiếp xuống hai bên đường sắt, gây ra
các phản ứng phá hủy thiết bị đường sắt, gây ô nhiễm môi trường và cuộc sống cộng đồng.
Ngoài ra, còn phải kể đến bụi bẩn, hóa chất, tiếng ồn, độ rung ảnh hưởng đến môi trường
trong quá trình chuyên chở, xếp dỡ hàng rời, hàng độc hại.