Thuốc kháng viêm không steroid s
dụng không đơn giản
T khi mặt, các loại thuốc chống viêm không steroid đã góp
phần đẩy lùi nhiu bệnh tật nhờ tác dụng ức chế, chống lại phản ứng
viêm như tình trng sung huyết, phù ncác tổ chức ta thường gọi là
phản ứng viêm.
Viêm là một phản ng của cơ thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Phản
ứng này nhm chống li các tác nhân gây bệnh để bảo vệ cơ thể. Khi tình
trạng viêm nhim nặng kéo dài gây đau đớn, khiến cho sức khỏe bị suy sụp.
Thuốc kháng viêm thường hai loại, đó là loi kháng viêm
steroid loại kháng viêm không steroid. Dưới đây chỉ xin trình y loi
thuốc kháng viêm không steroid.
Thuốc kháng viêm không steroid nghĩa là các thuốc loại không
steroid, cách đây ng tm năm đã xut hiện như aspirin (acid
acetylsalicilic). Dn dần họ nhận thấy rằng các loại thuốc dạng này cn phi
dược tính hoàn ho n, hiu quả sdụng nhanh, gim thiu những tác
dụng kng mong muốn, song lại dễ hấp thu, dễ uống, tin dùng cho các lứa
tuổi... nên cùng vi thời gian đã xuất hiện nhiu loại thuốc kháng viêm
không steroid ra đời sau aspirin như indometacin, ibuprofen (còn
naproxen, fenopfen, ketoprofen), piroxicam (tenoxicam, meloxicam),
diclofenac (voltaren)... Ngoài ra, thuốc còn được bào chế dưới dạng viên sủi
hay tạo màng bao tan ở ruột để ngăn không cho hoạt chất của thuốc kích ứng
vào niêm mạc dạ dày như viên aspirin pH8...
loại thuốc tác dụng hầu hết trên các loi viêm kng pn bit
nguyên nhân. Phản ứng của thuốc kháng viêm loại này được biểu hin theo
chế: ức chế sinh tổng hợp prostaglandin do ngăn cản sự hình thành
cyclooxygenase là một enzym tác dụng thúc đẩy việc tạo ra các
prostaglandin (một hormon liên quan đến sđiều tiết mt số chức năng của
thể như viêm, thân nhiệt, co cơ). Người ta đã biết rằng không
cyclooxygenase thì không th tạo ra prostaglandin; mà khi không có
prostaglandin tcũng không triu chứng viêm, đau, sốt. Mặt khác thuốc
còn làm bn vững thể tiểu bào tức màng lybosom để phân gii và ức chế quá
trình viêm; đồng thời đối kháng vi các chất trung gian hóa học của viêm.
Ngoài ra, nó n tác dụng làm h sốt, gim đau và chống sự ngưng kết
tiu cầu.
Phân loại thuốc
Người ta đã phân loi thuốc kháng viêm không steroid theo cu trúc
hóa học (cấu tạo phân tử), như nhóm dẫn xuất acid salicylic (aspirin), dẫn
xuất pyrazolon, dẫn xut indol, dẫn xuất oxicam, dẫn xuất propionic, dẫn
xuất acid phenylacetic...
Các thuốc kháng viêm thường dùng như aspirin (acid acetylsalicylic),
ibuprofen, naproxen, diclofenac, indometacin, meloxicam, nimesulid. Gn
đây nhóm thuốc coxib (celecoxib, rofecoxib...) ức chế chuyên biệt
cyclooxygenase 2 là men xúc tác tạo ra prostaglandin gây viêm chkhông
ảnh hưởng đến cyclooxygenase 1 (là yếu txúc tác sản xuất prostaglandin
che ch niêm mạc dạ dày), do đó thuốc này ít gây ra tác dụng phụ loét dạ
dày, tng, song một thời gian sau li phát hiện gây tác dụng phụ trên
tim mạch, có thể dẫn đến tvong, vì vậy khi đơn loại thuốc này phải rất
thận trọng.
Hiện nay các thuốc kháng viêm không steroid được bào chế thành 4
dạng là ung, tiêm, thuốc dạng đạn để đặt vào hu môn, kem, cồn xoa bóp.
Thuốc khả ng hấp thu tốt nên thông thường người ta vn dùng dng
uống, còn dng tiêm ít dùng, chsdụng trong bệnh khp như viêm khớp
dạng thấp, các chng viêm không phi thấp khớp, trong giảm đau. Để tăng
cường c dụng kng viêm giảm đau còn ra đời c loại thuốc phối hợp
như viên alaxan (gồm ibuprofen và paracetamol), hay viên dolor nisina
(chứa aspirin, paracetamol và cafein).
Tác dụng phụ của thuốc
Thông thường thuốc gây viêm loét ddày, tràng, khi gây xut
huyết. Do thuốc loại này ức chế s tổng hợp prostaglandin, đặc biệt là
prostaglandin E n đã m gim lớp chất nhày có tác dng bo vệ niêm mạc
ddày, sinh viêm lt. Mặt khác, ta thy các phân tử của thuốc loại này có
độ tan thấp, mà li kích ng biểu tại chỗ rất mnh n nguy cơ viêm loét
niêm mc dạ dày, tràng càng cao. Tác dụng này không nhng chỉ xảy ra
qua đường uống là chyếu, mà n xy ra khi dùng bng đường tiêm, đặt
thuốc ở trực tràng, bôi thuốc trên din da rộng.
Để tránh tình trng các hoạt chất của thuốc kích ứng niêm mạc dạ dày,
người ta đã bào chế ra viên thuốc tạo màng tan ruột như viên aspirin
pH8 (aspan pH8, aspral pH8...), do vy những loại viên này để bảo tồn c
dụng y khi uống không được nhai hay bẻ đôi hoặc cắt viên thuốc ra nhiều
phần mà phải nuốt nguyên cviên. Dạng thuốc này cần uống xa bữa ăn và
nên uống với nhiu nước.
Ngược lại, nếu dùng viên thường (không màng bao đặc biệt) thì
cần uống thuốc vào bữa ăn hoặc ngay sau khi ăn m, cũng cần uống vi
nhiều nước (khoảng 200ml) mỗi lần. Loại thuốc này thnhai nát hoặc
cho vào cốc nước chờ viên thuốc rã tan đkhi ung giúp thuốc trôi nhanh
xuống ruột. Trên th trường còn loại viên sủi hoặc gói bột dạng cốm pha
trong c thành dung dịch rồi ung (aspegic: acetyl salicylat DL lysine).
Một điều cn cý là khi s dụng thuốc kháng viêm tuyệt đối không
được uống rượu vì sgây chảy u d dày. Loi thuốc này cũng dễ gây dị
ứng, hen suyễn và có thxảy ra dị ứng chéo.
Một số trường hợp không được dùng các loại thuốc này (tức chống
chđịnh): những người tiền sử viêm loét ddày - tràng, chảy u dạ
dày, người mắc sốt xuất huyết hay đang xuất huyết (như phụ nữ đang băng
huyết hay rong kinh), tiền sử hen phế quản, địa dị ng. Tránh dùng cho
phnữ đang mang thai (nhất là 3 tháng cuối) vì sgây độc cho thận và tim
phổi của thai nhi, hoặc phụ nữ đang cho con bú.