Tiền pháp định  20/03/2007

Tiền pháp định là công cụ thanh toán mà, theo luật pháp qui định,

không thể bị từ chối khi được sử dụng để thanh toán các khoản nợ

được ghi nợ theo cùng đơn vị tiền tệ đó. Tiền pháp định là vị thế pháp

lý được gán cho một số loại tiền nhất định, tùy thuộc vào nhiều yếu tố

trong đó có yếu tố mệnh giá, số lượng tiền. Thuật ngữ tiền pháp định

bản thân nó không có nghĩa là tiền.

Do việc định nghĩa khác nhau trong các luật cho nên, khái niệm tiền

pháp định rất hay bị hiểu nhầm. Séc, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và các

phương tiện thanh toán phi tiền mặt tương tự nhìn chung không được

coi là tiền pháp định. Chỉ có một số loại tiền xu và tiền giấy nhất định

thường được coi là tiền pháp định. Theo qui định pháp lý của một số

nước, người ta cấm hoặc hạn chế việc thanh toán bằng bất kỳ phương

tiện thanh toán nào khác ngoài tiền pháp định. Ví dụ, luật của một

nước nào đó có thể sẽ coi việc sử dụng tiền xu và giấy bạc ngân hàng

của nước khác là bất hợp pháp và qui định các giao dịch  tài chính

bằng ngoại tệ muốn thực hiện phải có giấy phép.

Trong một số hệ thống luật pháp, tiền pháp định có thể không

được chấp nhận làm công cụ thanh toán nếu như không có nghĩa vụ

nợ nần nào tồn tại trước thời điểm thanh toán. Kết quả là, những nhân

viên các hãng vận tải hành khách hoặc các máy bán hàng tự động có

thể từ chối những tờ tiền giấy có mệnh giá quá lớn dùng để trả tiền vé

xe hoặc để mua một thanh kẹo chocolate, thậm chí những người bán

hàng cũng có thể không nhận tiền giấy mệnh giá lớn. Tuy nhiên, các

nhà hàng không thu tiền trước khi kết thúc bữa ăn sẽ phải chấp nhận

loại tiền pháp định này đối với việc thanh toán cho nghĩa vụ nợ phát

sinh sau khi khách hàng thanh toán sau bữa ăn.

Tiền   pháp   định   theo   qui   định   của   một   số   nước   trên   thế   giới:

Ở Mỹ: tiền xu và tiền giấy (bao gồm tiền giấy của Cục dự trữ liên bang

và giấy bạc lưu thông của Ngân hàng dự trữ liên bang và các ngân

hàng quốc gia), là tiền pháp định đối với mọi nghĩa vụ nợ nần, các

khoản đóng góp công cộng, thuế và phí. Tiền xu bằng vàng, bạc của

nước ngoài  không  được coi là tiền pháp  định với các nghĩa vụ nợ

nần. Không có một qui định liên bang nào khác cấm các công ty tư

nhân,   các   cá   nhân   hay   các   tổ   chức   từ   chối   hoặc   chấp   nhận   một

phương thức thanh toán khác. Ví dụ, các đối tượng nói trên hoàn toàn

được tự do trong việc chấp nhận các thanh toán bằng thẻ tín dụng,

hoặc từ chối nhận giấy bạc ngân hàng có mệnh giá lớn. Một số cửa

hàng nhỏ ở Mỹ có chính sách không chấp nhận tiền giấy mệnh giá

lớn (thông thường là trên $20) vào một thời điểm nào đó hoặc trong

suốt cả ngày, việc này cho phép họ giữ một số lượng tiền không quá

lớn trong  quỹ  và giảm được nguy cơ bị cướp, đồng thời chịu rủi ro

không lớn lắm đối với việc nhận phải tiền giả.

Ở Vương quốc Anh, chỉ tiền xu mệnh giá 1 Bảng và 2 Bảng được coi

là   tiền   pháp   định   với   số   lượng   không   hạn   chế   trên   khắp   lãnh   thổ

Vương quốc Anh. Tiền giấy không được cơ quan lập pháp của Anh

coi là tiền pháp định trên toàn Vương quốc Anh. Hiện nay, các đồng

xu 20 xu và 50 xu được coi là tiền pháp định với số lượng không quá

10 Bảng Anh, đồng xu 10 xu và 5 xu với số lượng không quá 5 Bảng,

đồng xu 1 xu và 2 xu với số lượng không quá 20 xu.

Ở Thụy Sĩ và Liechtenstein, đồng Franc Thụy Sĩ là loại tiền pháp định

duy nhất. Các khoản thanh toán bao gồm tối đa 100 đồng xu Thụy Sĩ

được coi là tiền pháp định, còn giấy bạc ngân hàng là tiền pháp định

với số lượng không hạn chế.

Trong khu vực châu Âu, đồng xu và giấy bạc Euro trở thành tiền pháp

định ở hầu hết các quốc gia của khu vực này từ 1.1.2002.

Nhìn chung các nước bao giờ cũng qui định rõ loại tiền, mệnh giá, và

tổng số tiền thanh toán tối đa để khoản thanh toán ấy được coi là tiền

pháp định. Trong trường hợp tiền xu và giấy bạc ngân hàng của một

nước được thay thế bằng loại tiền mới với cùng đơn vị tiền tệ, thì tiền

mới sẽ đương nhiên trở thành tiền pháp định thay thế cho các loại tiền

cũ.