
3
được coi là cơ sở lý luận cho chủ nghĩa bảo hộ và được công nhận rộng rãi dưới quan
điểm của các nhà nghiên cứu Hamilton (1791) và List (1841).
Việc khuyết thiếu bí quyết cốt lõi hay sở hữu trí tuệ cho ra sản lượng thấp hoặc
dù đã hoạt động ổn định cũng không sở hữu các yếu tố cạnh tranh được với doanh nghiệp
tồn tại lâu đời từ nước ngoài khiến việc tồn tại của ngành công nghiệp này cần sự bảo
hộ mậu dịch để tồn tại. Việc bảo hộ này sẽ được kéo dài đến khi ngành được cho là đủ
lợi thế để tham gia cạnh tranh quốc tế, đạt được lợi nhuận kinh tế nhờ quy mô và trong
dài hạn thúc đẩy lợi thế so sánh (Investopedia, 2023).
Ngoài ra, còn có thể đề cập đến một vài ý kiến khác về ngành công nghiệp non
trẻ như việc thành lập các ngành mới sẽ giảm sự lệ thuộc vào sản phẩm từ các quốc gia
bên ngoài; khuyến khích và kích thích sản xuất, tiêu dùng nội địa; đem lại thu nhập cho
quốc gia khi ngành đã đạt đến độ trưởng thành; hấp dẫn nhà đầu tư quốc tế và tạo cơ hội
làm việc cho công dân trong nước.
Lý lẽ bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ, theo Từ (2010) cho thấy ba vấn đề cần
xem xét trọng tâm: (i) thị trường vốn chưa vận hành hiệu quả thường thấy ở các quốc
gia đang phát triển vì vậy áp dụng lý lẽ công nghiệp non trẻ ở khu vực này sẽ phù hợp
hơn; (ii) chính sách bảo hộ khi đã thực thi rất khó để tháo bỏ vậy nên cần xem xét kỹ
tính chất và triển vọng của ngành công nghiệp được bảo hộ; và (iii) trên lý thuyết, trợ
cấp tương đương thuế sẽ góp phần mang lại hiệu quả bảo hộ cao hơn nhưng nguồn trợ
cấp cần đến từ thu nhập trong khi thuế giúp đem lại nguồn thu nhập cần thiết cho thu
ngân sách chính phủ.
2.2. Lý thuyết cơ cấu thuế quan
Chính sách thuế quan về bảo hộ lượng nhập khẩu là chiến lược được một quốc
gia áp dụng để bảo vệ sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ
nước ngoài Tại Việt Nam, công cụ thuế quan tiêu biểu cũng như bắt buộc bao gồm:
Thuế nhập khẩu (NKNC), Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), Thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Trong khuôn khổ bài viết, chính sách thuế bảo hộ xuất phát trực tiếp từ lý thuyết
bảo hộ ngành công nghiệp ô tô non trẻ (VnEconomy, 2024; Cổng thông tin điện tử Bộ
Tài chính, 2023; Từ, 2010). Các loại phí, thuế đánh lên ô tô có thể được chia thành 2
loại: (i) Thuế, phí đánh vào các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp và kinh doanh ô tô; và
(ii) Thuế, phí đánh vào người tiêu dùng ô tô.
Theo Đỗ & Vũ (2015), người tiêu dùng sau khi mua ô tô sẽ phải chịu nhiều loại
phí lưu hành xuyên suốt từ quá trình đăng ký đến khi lưu thông. Không chỉ người tiêu
dùng, theo Phúc (2015), các doanh nghiệp kinh doanh hay sản xuất ô tô cũng phải gánh
nhiều loại thuế, phí tính vào giá xe cuối cùng.
2.2.1. Thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc (NKNC)
Thuế NKNC là một loại thuế áp dụng cho việc nhập ô tô đã được lắp ráp hoàn
chỉnh từ các quốc gia khác vào Việt Nam. Thuế NKNC được nhà nước cho là công cụ
giúp bảo vệ ngành ô tô nội địa mới chớm nở, còn đang bấp bênh cũng như đóng góp
thêm thu nhập cho ngân sách nhà nước (Cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính, 2023).
Điều này thể hiện rõ khi thuế NKNC ngành hàng ô tô luôn là một trong 5 khung ngành
đem lại lợi nhuận nổi bật, tăng xấp xỉ 20% về lượng và 10% về giá trị (Minh, 2023).