intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Thông tin bất đối xứng

Chia sẻ: Dfvcx Dfvcx | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

483
lượt xem
64
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông tin bất cân xứng còn gây ra hiện tượng tâm lý ỉ lại (moral haz ard) sau khi hợp đồng đã được giao kết nhưng một bên có hành động che đậy thông tin mà bên kia khó lòng kiểm soát, hoặc muốn kiểm soát thì cũng phải tốn kém chi phí.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Thông tin bất đối xứng

  1. Tiểu luận Thông tin bất đối xứng
  2. A. Giới thiệu về “thông tin bất đối xứng ” hay “vấn đề quả chanh” M ột trong những giả thiết để có một thị trư ờng hoàn hảo là kết cấu thông tin cũng phải hoàn hảo. Giữ a các chủ thể kinh tế tham gia giao dịch có thông tin đầy đủ như nhau về nhau và về đối tượng giao dịch. Trái với kinh tế học cổ điển và t ân cổ điển, kinh tế học Keynes cho rằng thị trư ờng hiếm k hi hoàn hảo và kinh tế học Keynes m ới chỉ ra rằng bất đối xứng về thông tin chính là một nhân tố gây ra sự không hoàn hảo của thị trường. Vậy t hôn g tin bất đố i xứ ng, hay vấn đề quả chanh là gì? Và tại sao “ t hôn g tin bất đố i xứ ng” lại được gọi là “ Vấn đề quả cha nh”? Thông tin bất cân xứng xuất hiện khi người mua và người bán có các thông tin khác nhau. Ngư ời buôn ngựa mang một con ngựa vừa già vừ a xấu ra chợ. Bỏ một con lươn còn sống vào trong cổ họng của nó. Con ngự a sẽ thể hiện sự tràn đầy sứ c sống... Đó là nhữ ng thủ đoạn lừa gạt. Một bên của thị trư ờng là nhữ ng kẻ lừ a đảo. Còn bên kia là những người cố tránh nhữ ng kẻ lừa đảo. Nếu thái quá, thị trư ờng sẽ hoàn toàn bị sụp đổ. Và cả người tốt lẫn người xấu đều bị thua thiệt. Lý thuy ết thông tin bất cân xứ ng (Asymmetric Inform ation) lần đầu tiên xuất hiện vào nhữ ng năm 1970 và đã khẳng định đư ợc vị trí của m ình trong nền kinh tế học hiện đại bằng sự kiện năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là G eorge Akerlof, M ichael Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế. Thông tin bất cân xứng có t hể xảy ra trước khi tiến hành ký kết hợp đồng. Các bên tham gia giao dịch cố tình che đậy thông tin, ngư ời mua không có thông tin xác thự c, đầy đủ và kịp th ời nên trả giá thấp hơn giá trị đích thực của hàng hóa. Hậu quả là ngư ời bán cũng không còn động lự c để sản xuất hàng có giá trị và có xu hướng cung cấp những sản phẩm có chất lượng thấp hơn chất lượng trung bình trên thị trư ờng. Rốt cuộc trên thị trư ờng chỉ còn lại nhữ ng sản phẩm chất lư ợng xấu- những “trái chanh” bỏ đi, hàng tốt bị loại bỏ, dẫn đến lự a chọn bất lợi (adverse selection) cho cả hai bên. Như vậy, hiện tượng lựa chọn bất lợi đã cản trở việc giao dịch trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Thông tin bất cân xứng còn gây ra hiện tư ợng tâm lý ỉ lại (moral haz ard) sau khi hợp đồng đã được giao kết nhưng một bên có hành động ch e đậy thông tin m à bên kia khó lòng kiểm soát, hoặc muốn kiểm soát thì cũng phải tốn kém
  3. chi phí. Với mục đích giới thiệu và t ìm hiểu kỹ về vấn đề “bất đối xứng thông tin” nhóm thuyết trình số 4 mong muốn sẽ đư a r a đư ợc một cái nhìn sâ u sắc về tình trạng “ bất đối xứng thông tin” I. Các khái niệm “thông tin bấ t đối xứng”. 1. Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có nhiều thông tin hơn một bên khác. Điển hình là ngư ời bán biết nhiều về s ản phẩm hơn đối vớingư ời mua hoặc ngư ợc lại (Trang từ điển Waikip edia) 2. ‘Thông tin bất cân xứ ng xảy ra khi một bên đối t ác nắm giữ thông tin còn bên khác thì không biết đích thự c mức độ thông t in ở mức nào đó’. 3. Thông tin bất cân xứng trên thị trường chứ ng khoán xảy ra khi một hoặc nhiều nhà đầu tư sở hữu đư ợc thông tin riêng (Kyle, 1985 trích trong Ravi, 2005) hoặc có nhiều thông tin đại chúng hơn về một công ty (Kim và Verrecchia, 1994 và 1997 trích trong Ravi, 2005). II. Ảnh hưởng của thông tinh bất đối xứng với thị trư ờng nh ư thế nào? Hoạt động của thị trư ờng ch ính là sự giao dịch giữa ngư ời bán và n gư ời mua, do đó luô n tồn tại hai chiều thông tin khác nhau nên luôn tồn tại hai hệ quả của giao dịch là t âm lý ỷ lại và lựa chọn bất lợi 1. Tâm lý ỷ lại Tâm lý ỷ lại xuất phát từ hành vi ch e đậy và xuất hiện sau khi kí hợp đồng. Do một bên trong hợp đồng không biết liệu bên kia có tham gia vào nhữ ng hành động đưa họ vào thế bất lợi hay không. Với các hợp đồng vay ngân hàng hay bảo hiểm t hì t âm lý ỷ lại phát sinh từ phía người đi vay hay đi mua bảo hiểm. Họ sử dụng tiền vay không đúng mục đích hay do đã được bảo hiểm nên họ sẽ bất cẩn hơn so với trước khi mua bảo hiểm. Ở thị trư ờng chứng khoán, tâm lý ỷ lại phát sinh nếu như những ngư ời đại diện điều hành công ty không sử dụng nguồn vốn hiệu quả và đúng mục đích. Do tính chất của đầu tư trên thị trư ờng là đầu tư gián tiếp nên việc quản lý, giám sát vốn đầu tư của các nhà đầu tư phải thông qua một số người đại diện để điều hành công ty. Tâm lý ỷ lại sẽ gia tăng nếu như tỷ lệ s ở hữu cổ phần của những người đại diện thấp. Vì nếu hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả t hì trách nhiệm của họ không cao và sự thiệt hại trên phần vốn góp là thấp. Chính vì thế, hiện nay tiêu chí đầu tiên để những cổ đông muốn là
  4. thành viên của Hội đồng quản trị thì họ phải có một tỷ lệ vốn góp nhất định nào đó. 2. Lựa chọn bất lợi Lựa chọn bất lợi là kết quả của thông tin bị che đậy, nó xảy ra trước khi thực hiện giao dịch hay nói cách khác trước khi ký hợp đồng. Thông thư ờng trong hoạt động mua bán, ngư ời bán là người nắm rõ thông tin về s ản phẩm của m ình và dĩ nhiên khi đó chi phí lựa chọn bất lợi sẽ do ngư ời m ua gánh chịu. Ví như trong thị trư ờng chứng khoán, công ty niêm yết luôn nắm thế chủ động hơn so với nhà đầu tư. Cụ thể, căn cứ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh và các hợp đồng kinh doanh, các công ty niêm yết sẽ biết rõ khả năn g đạt được lợi nhuận kỳ vọng của mình là bao nhiêu nên các công ty này sẽ biết chắc chắn giá bán trên mỗi cổ phiếu đó bao nhiêu là hợp lý. Với những gì được thấy ở trên, chúng ta đã b iết ảnh hưở ng của “thông tin bất cân xứng” đối với thị trường như t hế nào? Vậy, chả lẽ, cứ để “thông t in bất cân xứng” tồn tại như vậy? Hay có những bi ện pháp hạn chế ảnh hưởn g xấu của “thông tin bất câ n xứng”? Để h iểu rõ h ơn, chúng ta sẽ xem xét cách mà các nhà kinh t ế đưa r a để hạn chế ản h hưởng của “thông t in bất cân xứ ng” đối với thị trường. III. Hạn chế “thông tin bất cân xứng” Trong nhiều lĩnh vực xuất hiện t hông t in bất cân xứng thì các giải pháp thường đư ợc áp dụng chung để hạn chế mức độ thông tin bất cân xứng là cơ chế phát tín hiệu, cơ chế sàng lọc và cơ chế giám sát. 1. Cơ chế phát tín hiệu Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu (signaling): bên có nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một cách trung thực và tin cậy. Với việc phát tín hiệu này, người bán những s ản phẩm chất lượng cao phải sử dụng nhữ ng biện pháp được coi là quá tốn kém với người bán hàng hóa chất lư ợng thấp. Spence lấy ví dụ bằng thị trư ờng lao động. Ngư ời bán là nhữ ng ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà tuyển dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những người kém năng lự c phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những ngư ời có năng lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì nhữ ng người có năng lự c có thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng cấp mà ngư ời kém năng lực không thể đạt được. Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương trình quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thư ơng trường.
  5. Hay như thị trư ờng t ài chính, để giao dịch đư ợc hiệu quả thì người đi vay có thể vay đư ợc vốn với chi phí thấp, ngư ời cho vay chắc chắn khả năng thu hồi được nợ hay ngư ời cho vay và đi vay phải nắm rõ quyền lợi và trách nhiệm của riêng m ình. T hông t hường ngư ời đi vay là người nắm rõ thông tin về mình nhất thế nên họ sẽ được lợi nhiều hơn trong giao dịch. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ không dễ dàn g cho vay nếu như họ không biết rõ về khách hàng của mình. T hế nên, người đi vay phải phát tín hiệu rằng mình là người có khả năng trả được nợ tốt. Vấn đề phát t ín hiệu trong trường hợp này là: Uy tín của công ty, qui mô và danh tiếng công ty, năng lực tài chính, tài sản đảm bảo..., ngược lại ngân hàng cũng phải phát tín hiệu để người đi vay thực hiện trách nhiệm của mình trong hợp đồng vay như cơ chế xử lý tài sản, lãi suất cho vay... 2. Cơ chế sàng l ọc Joseph Stiglitz đã tiếp tục bổ sung vào công trình nghiên cứu của Akerlof và Sp ence. St iglitz đặt ra vấn đề là bản th ân nhữ ng ngư ời có ít thông tin hơn cũng có thể tự cải thiện tình trạng của mình thông qua cơ chế sàng lọc (screening). Ông đã chỉ ra rằng bên có ít thông tin hơn có t hể thu t hập thông tin từ bên kia bằng cách đưa ra các điều kiện giao dịch hợp đồng khác nhau. Ví dụ điển hình là các công ty bảo hiểm thường cung cấp nhữ ng loại hợp đồng bảo hiểm v ới các mức phí bảo hiểm khác nhau, tương ứng với mức bồi thường khác nhau. Các khách hàng sẽ tự lựa chọn loại hợp đồng bảo hiểm p hù hợp với mình, do đó tự phân hóa thành các loại khách hàng khác nhau. Những khách hàng có rủi ro thấp thường thích loại hợp đồng có phí bảo hiểm thấp trong khi khách hàng có rủi ro cao lại lựa chọn hợp đồng có phí bảo hiểm cao. 3. Cơ chế giám sát Cơ chế giám sát được áp dụng nhằm m ục đích kiểm soát tâm lý ỷ lại, cơ chế bao gồm: giám sát trự c tiếp và giám sát gián tiếp Giám sát trực tiếp: bên m ua sẽ bỏ ra nguồn lự c để đạt được kiểm soát thông tin, cơ chế giám sát này tốn nhiều chi phí và sứ c lực, và khả nă ng giám sát là hạn chế Giám sát gián t iếp : thông qua các qui định của các nhà tổ chức thị trường , mặc nhiên bên b án phải có trách nhiệm thông báo trực tiếp hoặc gián tiếp đến bên mua và bên mua cũng thông qua các quyền lợi đã được qui định mà có th ể tiếp cận giám sát gián tiếp thi hành của bên bán Trải qua hơn hai thập kỷ, lý thuy ết về thị trường có thông t in bất cân xứng đã trở nên vô cùng quan trọng và là trọng t âm nghiên cứu của kinh tế học hiện đại. Th ông tin bất cân xứng càng trở nên phổ biến và trầm trọng khi tính minh bạch của thông tin, khả năng tiếp cận thông tin và cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém.
  6. Đến đây, chúng t a sẽ tóm tắt thông t in bất cân xứ ng qua sơ đồ sau: B. Thực trạng “thông tin bất đối xứng” trong thị trường Việt Nam IV. Thị trường tài chính 1. Thị trường tín dụng Trong thời gian nghiên cứu hệ thống tài chính Việt Nam, nhóm các nhà kinh tế nhận th ấy rằng giống như các nước Đông Nam Á khác, ở Việt Nam, các ngân hàng chiếm tỉ trọng cao trong hệ thống tài chính. Hầu hết các giao dịch đều được t hực hiện qua hệ thống ngân hàng, thị trường chứ ng khoán có m ột vài trò rất khiêm t ốn. Hơn nữa, trong giai đoạn chuyển đ ổi n ền kinh t ế sang nền kinh tế thị trường theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa, nên phần lớn nhân dân vẫn chư a còn quen với việc giao dịch qua ngân hàng, dẫn đến tình trạn g, các dịch vụ của ngân hàn g thương mại còn ít, và tín dụng vẫn c hiếm tỉ trọng cao trong các giao dịch của ngân hàng. Điều đáng nói ở đây là, m ặc dù đem lại doanh thu cao ~60% cho các ngân hàng, nhưng ho ạt đ ộng tín dụn g của các ngân hàng Việt Nam đang gặp phải khó khăn, do tỉ lệ nợ xâu cao. Theo kinh nghiệm của nhiều nước v à từ nhiều nghiên cứ u, trừ những cú sốc bất ngờ như khủng hoảng kinh t ế, thiên t ai…nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu nhiều nhất là do các ngân hàng không có đầy đủ t hông t in từ phía khách hàng của m ình mặc dù đã có rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định . Nói một cách đơn giản, là do cơ chế sàng lọc chư a đủ hiệu lực nên các ngân hàng đã để "lọt" những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông t in của kho trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm h iểu kỹ hơn về hoạt động tín dụng cũng như thực trạng của thông t in bất cân xứ ng lên hoạt động này a. Tại sao ngân hàng phải xử lý vấn đề thô ng tin bất cân xứng Ngân hàng chính là một doanh nghiệp, và sản phẩm của ngâ n hàng chính là cấp tín dụng. Cấp t ín d ụng là hình thứ c m à ngân hàng cho kh ách hàn g vay một khoản tiền hay uy tín của mình trong thời gian nhất định. Sau đó khách hàng phải trả khoản tiền vay và lãi kèm theo. Đặc biệt, việc cấp tín dụng là một hợp đồng không hoàn ch ỉnh. Để một hợp đồng được thự c hiện đầy đủ thì các bên liên quan trong hợp đồng phải thự c hiện đúng nghĩa vụ của mình. Tuy nhiên, không giống như các hợp đồng hoàn chỉnh, việc thự c hiện các h ợp đồng không hoàn chỉnh gặp nhiều khó khăn hơn vì có rất nhiều tình huống có thể xảy ra trong quá trình thự c thi hợp đồng mà các bên không lường trước được. Cũng do chính vấn đề này mà trong quá trình thự c hiện hợp đồng, nếu một bên có nhiều thông tin hơn có thể có những hành vi gây tổn hại đến bên có ít thông
  7. tin hơn. Đây chính là vấn đề bất cân xứng về thông tin trong các hoạt động của nền kinh t ế. Hành vi phổ biến nhất d o thông tin bất cân xứng gây nên là tâm lý ỷ lại và lựa chọn bất lợi ( đã nói phần trên) Chúng ta nhận thấy rằng, trong các hợp đồng thì hệ t hống ngân hàng luôn có ít thông tin hơn bên khách hàng. Bởi ngân hàng không kiểm tra được việc sử dụng vốn của khách hàng như thế nào? Và tình trạng gì đang diễn ra? Do vậy, để giải quyết tốt vấn đề trên, các ngân hàng cần phải k iếm soát tốt, tình trạng nợ xấu của mình để giảm thiểu nguy cơ bị xù nợ. Nhưng, một ngân hàng muốn quản lý tốt thì trư ớc hết, phải có những cơ sở hạ t ầng tốt, vậy cơ sở hạ tầng và điều kiện cầ n thiết là gì? b. Các cơ sở hạ tầng và điều kiện cần thiết trong hoạt động tín d g ụn  Cần c ó đi ều kiện pháp lý rõ ràng, chặt chẽ.  Hệ thống tha nh toán và báo cáo tài chính đủ độ tin cậy, phản ánh đúng khả năng chi trả của kh ách hàn g  Hệ thống thông tin tốt  Các t iêu chuẩn đánh giá, chính xác, nhanh nhạy  Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng độc lập  Hệ thống đang ký tài sản Với các tiêu chuẩ n trên, hiện nay, Việt Nam cần phát triển mạ nh hơn nữa việc xếp hạng tín dụng m ột cách độ c lập. Hiện tại thì c hỉ có trung tâm thông tin tín dụng (CIC) mới có khả năng đáp ứng được điều kiện này. c. Một số vấn đề liên quan đến hoạt động của các ngân hàng i. Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệ p Việt Nam Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp ảnh hư ởng rất nhiều đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu cộng đồng các doanh nghiệp có một văn hoá kinh doanh tốt, trên cơ sở chiến lược phát triển dài hạn sẽ là một thuận lợi rất lớn cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Khi đó, các doanh nghiệp rất coi trọng chữ tín của mình. Việc xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu là một trong nhữ ng mục tiêu sống còn của doanh nghiệp. N gư ợc lại, nếu các doanh nghiệp không có chiến lược phát triển dài hạn mà kinh doanh theo kiểu "đánh quả" sẽ gây khó khăn rất lớn cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì khi đó, các mối quan hệ dài hạn dự a trên uy tín dường như ít được thiết lập và các ngân hàng buộc phải sử dụng những giải pháp phòng ngừ a rủi ro khác. Đối với Việt Nam, do những điều kiện thự c t iễn cộng với thời gian chuyển sang kinh t ế thị trường chỉ mới khoảng hai thập kỷ, văn hoá, tập quán
  8. kinh doanh của doanh nghiệp chưa đư ợc hình thành. Nhiều doanh nghiệp có tư tưởng kinh doanh theo kiểu "đánh quả". Do đó, đây là m ột khó khăn rất lớn đối với các ngân hàng trong việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng. ii. Năng lực và trình độ cán bộ tín dụng Năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ quyết định rất lớn đến việc thẩm định thành công hay không thành côn g t rong một dự án. Tuy nhiền, với Việt Nam, trong quá trình học tập và đào tạo, các sinh viên lại đư ợc đào t ạo quá nhiều lý thuyết xuống mà không có m ấy ứng dụng thực tế, dẫn đến tình trạn g chỉ giỏi về lý thuyết m à kiến thức thực tế lại ít. Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới việc đội ngũ cán bộ có năn g lự c làm việc kém , sự nh ay nhậy chưa cao. d. Q uyết định cấp tín dụng tại các ngân hàn g Việc thực hiện cấp tí n dụng của các ngân hàng luôn đảm bảo đúng với quy đinh về cấp tín dụng của ngân hàng nhà nước. Việc thẩm định dự án cho vay và cấp tín dụng được tiến hành minh bạch, tuy nhiên với những vấn đề thực tế nêu trên, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án, có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mứ c độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức tín dụng. Do t ính chính xác trong việc thẩ m định dự án của các ngân hàng còn rất nhiều hạn chế, và độ tin cậy thấp . Việc sử dụng vốn để phát triển của nền kinh tế vẫn là thiết yếu, các tổ các ngân hàng vẫn phải cung tín dụng, nhưng quyết định cấp tín dụng của các ngân hàng sẽ căn cứ vào các tiêu chuẩn nào, và liệu rằng các quyết định này có đủ độ tin cậy, hay giảm thiểu việc t ạo ra nợ xấu hay không là câu hỏi lớn đối với từng ngân hàng nói riêng hệ thống t ài chính ngân hàng Việt Nam nói chung? Giải quyết khó khăn trên là một vấn đề hết sứ c nan giải đối với cá c ngân hàng, do đó các ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách, các chiến lược khác nhau. Nhưng, tài sản đả m bảo vẫn đượ c coi là một trong những đ iều kiện quan trọng nhất khi quyết định cho vay . Riêng đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, có một thời gian thích cho các doanh nghiệp nhà nư ớc vay hơn vì các ngân hàng này nghĩ rằng nếu doanh nghiệp có vấn đề gì thì nhà nư ớc sẽ cứu. Tuy nhiên trong thời gian qua, do sự hoạt động y ếu kém của m ột số doanh nghiệp nhà nư ớc đã để lại khối lượng nợ xấu rất lớn, tâm lý thích cho các doanh nghiệp nhà nư ớc vay đã giảm đi rất nhiều, thay vào đó tiêu chí có tài sản đảm bảo là điều kiện tiên quyết trong quyết định cấp tín dụng. e. Kiểm tra, giám sát, thu hồi vốn vay của các tổ chức tín dụng
  9. Ở phần trên chúng ta đã xét tới lựa chọn bất hợp lý của khách hàng khí đi vay, còn trong phần n ày, chúng ta xem xét tâm lý ỷ lại của các ngân hàng. Để có thể kiểm tra giám sát, đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải biết đư ợc dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay của bên vay. Đây là một vấn đề lớn đang đặt ra đối với các tổ chứ c t ín dụngViệt Nam vì việc kiểm soát dòng t iền bảo đảm bên vay sử dụng vốn đúng mục đích không phải là vấn đề đơn giản vì khác với các nền kinh t ế phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ t hanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất cao. Đây chính là khó khăn rất lớn trong việc giám sát chi tiêu của ngư ời vay vốn. Mặc dù, trong thời gia n qua, hệ thống thông tin của các ngân hàng đã được nâng lên đáng kể, tuy nhiên, sự quản lý vẫn còn lỏng lẻo chưa có chiều sâu, dẫn đến c ùng với một dự án nhưng công ty có thể vay ở rất nhiều ngân hàng, dẫn đến tình trạng sử d ụng nguồ n vốn đ ó sai m ục đích. Chúng ta xét với trường hợp “ lòng vòng vay mư ợn” của các ngân hàng:  Doanh nghiệp A hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp (xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng, đầu tư bất động sản…) cho rằng thị trư ờng bất động s ản đang ấm dần lên, nếu đầu tư ngay thì khả năng sẽ có lợi trong tương lai. Như ng hiện tại, A không có đủ vốn, việc vay vốn ngân hàng để đầu tư vào bất động sản là không thể được vì ngân hàng đánh giá đây là loại hình kinh doanh quá rủi ro. Làm thế nào để A có tiền để đầu tư vào dự án bất động sản nêu trên? Hiện tại A đang là nhà thầu thi công công trình có quy mô lớn. A vay vốn ngân hàng để m ua nguyên vật liệu của công ty X (A chuyển tiền trả cho X). X là nhà phân phối chính của X tiếp tục ký hợp đồng m ua sản phẩm của A, X chuyển tiền ngược trở lại cho A. Bây giờ tiền của A là doanh thu chứ không phải là vốn vay. Vậy là A có thể dùng khoản tiền này để thực hiện đầu tư dự án bất động sản nêu trên. Điều gì sẽ xảy ra nếu thời gian sau đó thị trường bất động sản bị đóng băng. Việc chuyển tiền, thanh toán nêu trên có thể t hực hiện tinh vi hơn qua một vài doanh nghiệp nữa. Đây cũng là cách mà m ột số doanh nghiệp có thể thực hiện để thay nhữ ng khoản nợ quá hạn bằng nhữ ng khoản nợ m ới mà trong giới tài chính ngân hàng gọi là đảo nợ. f. Tại sao tài sản đảm bảo là điều kiện quan trọng nhất? Có th ể nói, với nền kinh t ế đang phá t tri ển, quản lý v à xử lý thông tin còn y ếu kém thì việc. Song song vớ i nó là sự y ếu kém của đội ngũ công nhân viên làm trong các tổ chức tín dụng chức tín dụng. Đây là nguyên nhân gây ra cho sự thẩm định các dự án cho vay với độ tin cậy và mức chính xác không cao. Điều này đã đẩy các tổ chức tín dụng đến lựa chọn quyết định cho vay chỉ khi khách hàng có t ài sản đảm bảo
  10. Tài sản đảm bảo có vai trò rất lớn trong quyết định cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt nam hiện nay. Không đơn giản vì nó là chỗ dựa t in cậy trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng mà hơn thế nữ a, tài sản đảm bảo có tác dụng rất tốt trong việc ngăn ngừ a sự xuất hiện của tâm lý ỷ lại sau khi cho vay vì khi thự c hiện bất cứ m ột hành vi nào, mỗi cá nhân luôn xem xét họ sẽ được gì và mất gì. Nếu hành vi luôn m ang lại lợi ích mà không bị tổn thất gì thì họ sẽ thực hiện, ngược lại nếu hành vi luôn tạo ra tổn thất mà không có lợi ích gì cho bản t hân thì họ sẽ không thự c hiện. Đối với loại còn lại, hành vi đư ợc thực hiện khi lợi ích lớn hơn chi phí và ngược lại hành vi sẽ không đư ợc thực hiện. T ác dụng của t ài sản đảm b ảo nằm ở điểm n ày. Khi những khoản tín dụng được cấp m à không có t ài sản đảm bảo, phần vốn của bên vay tham gia rất ít hoặc không tham gia vào dự án đầu tư, thì xu hư ớng t ất yếu là bên vay sẽ thự c hiện các dự án có mứ c độ rủi ro cao để đem lại lợi nhuận cao vì nếu dự án thất bại thì cái mà họ mất là không đáng kể, ngược lại nếu dự án thành công t hì lợi ích của họ là rất lớn. Hành vi của bên vay sẽ hoàn toàn ngư ợc lại khi họ phải đem thế chấp các tài sản hiện có của m ình để được cấp tín dụng. Khi tài sản được t hế chấp, cấm cố tại các tổ chức tín dụng thì người vay sẽ bị mất nó nếu khoản vay của họ đư ợc đầu tư không cẩn thận và xảy ra rủi ro. Chính vì vậy mà họ phải thận trọng hơn khi thực hiện quyết định đầu tư của mình. Trên đây là những thực trạn g tồn tạ i của củ a thông t in bất đối xứn g trên thị trường tín dụng Việt Nam. Và có một số câu hỏi đặt ra ở đây là? 1. Những vấn đề trong xử lý thông tin bất đối xứng tr ong thị trường tín dụng Việt Nam là gì? 2. Chính phủ và ngân h àng cần làm gì để hạn chế tình trạng tr ên? 3. Việt Nam áp dụng ngay bây giờ các công cụ t iên tiến của ngân hàng thế giới vào hoạt động t ín dụng trong thời gian này ha y không? 2. Thị trường vốn Ở trong phần này, chúng ta tập trung phát triển và xem xét mứ c độ của sự bất đối xứ ng t hôn g tin trên t hị trư ờng Chứng khoán Việt Nam trong những năm gần đây. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần có c ái nhìn khái quát về thị trường chứ ng khoán Việt Nam trong thời gian gần đây. Và để t ập trung giải quyết vấn đề nêu ra, chúng t a sẽ tập trung vào giải quyết một số câu hỏi sau: 1. Đâu là vấn đề lớn nh ất trong việ c xử lý thông tin bất cân xứng trong thị trư ờng chứng k hoán Việt Nam? 2. Yếu tố nào ảnh hưởng đến mức độ bất cân xứ ng trong thị t rường chứ ng khoán Việt Nam? 3. Cách hạn chế mứ c độ xấu của thông tin bất cân xứng đối với thị trường chứ ng khoán Việt Nam như thế nào? a. Giới thiệu tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam
  11. Thị trư ờng chứng khoán Việt Nam bắt đầu hoạt động kể từ năm 2000, khi đó thị trường chỉ được giao dịch tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM, biểu thị của thị trư ờng là chỉ số giao dịch VNIndex. Khi Tru ng t âm mở cửa giao dịch phiên đầu t iên thì chỉ có 2 cổ phiếu REE và SAM được niêm yết, mãi cho đến cuối năm 2005 cũng chỉ có 41 công ty niêm yết. Chỉ số VNI ở giai đọan này biến động khá thất thường, có lúc cao trào chỉ số tăng lên gần 600 điểm, lúc n guội lạnh thì VNIdex chỉ còn hơn 100 điểm. Bư ớc sang năm 2006, đặc biệt là nữa cuối của năm số lượng công ty niêm yết tăng lên nhanh chóng, đến cuối năm số công ty niêm y ết là 196 công ty( bây giờ là 354 công ty) . Đi cùng với sự gia tăng số lượng công ty niêm yết là chỉ số VNI liên tục tăng từ mốc 600 điểm giữ a năm 2006 đã tăng lên gần 1000 điểm vào cuối năm. Không dừng lại tại đó, sự kiện Việt Nam được gia nhập tổ chứ c kinh tế lớn nhất thế (WTO) vào cuối năm 2006, thị trư ờng đã thực sự bùng nỗ. Th ị trường liên tục tăng nóng bất chấp những lời cảnh báo của các chuyên gia và đỉnh điểm của nó là chỉ số VNI tăng lên 1170 điểm vào ngày 12/03/2007. Điểm đặc biệt ở giai đoạn trên là khi thị trư ờng tăng, hầu hết mọi cổ phiếu đều t ăng giá, bất chấp cổ phiếu tốt hay không t ốt và ngư ợc lại khi có một biến động nhỏ thì tất cả các cổ phiếu đều giảm. Hiện tượng tâm lý hay hành vi đầu tư theo kiểu bắt chư ớc còn gọi là hành vi bầy đàn lại biểu hiện rõ như lúc này, đi kèm theo đó là có những dấu hiệu bong bóng tài sản trên thị trư ờng và chúng m ang tính không ổn định. Vậy đâu là nguy ên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng trên trong t hị trư ờng chứng khoán ở một vài năm gần đây ? b. Ảnh hưởng thông tin bất đối xứng lên thị trường chứng khoán Trên thị trư ờng chứ ng khoán, hiện tư ợng bất cân xứng xảy ra khi: doanh nghiệp che giấu các thông tin bất lợi, thổi phồng thông tin có lợi...; doanh nghiệp cung cấp thông t in không công bằng đối với các nhà đầu tư; doanh nghiệp sau khi phát hành cổ phiếu không chú trọng vào đầu tư s ản xuất kinh doanh m à chỉ t ập trung vào việc “làm giá” trên thị trư ờng chứng khoán; có sự rò rỉ thông tin nội gián; m ột số nhà đầu tư tạo cung cầu ảo trên thị trư ờng dẫn đến phản ánh sai lệch giá trị của doanh nghiệp; một số kẻ xấu t ung tin đồn thất thiệt cho doanh nghiệp; các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch; các trung gian tài chính cung cấp, xử lý thông tin không chính xác... Tình trạng bất cân xứng về thông tin sẽ dẫn đến việc các nhà đầu tư đư a ra các quyết định đầu tư không chính xác, gây cung cầu ảo, thị trư ờng bong bóng và tiềm ẩn nguy cơ sụp đổ thị trư ờng. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như bất kỳ thị trường mới nổi nào trên thế giới, hiện tư ợng thông tin bất cân xứng xảy ra phổ biến trên mọi ngành, lĩnh vự c.
  12. Thứ nhất, ngoài các thông tin bắt buộc theo luật định phải công bố thì các doanh nghiệp không chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp th ời. Đặc biệt đối với các công ty có cổ phiếu giao dịch trên thị trường phi chính thứ c (OTC), tình trạng phổ biến là nhà đầu tư hầu như m ù m ờ về tình hình làm ăn, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty. Các thông t in t ìm được chủ y ếu qua nguồn tin riêng, trên các diễn đàn chứ ng khoán hoặc tin đồn. M ột thực trạng nữ a là đối với các công ty chào bán lần đầu ra công chúng thực hiện đấu giá t ại cơ sở, Ban giám đốc công ty có xu hướng che giấu các thông tin để “dìm giá“ sao cho nhữ ng ngư ời nội bộ công ty có thể mua được cổ phiếu với giá thấp. Thứ hai, có hiện tư ợng rò rỉ thông tin chưa hoặc không được phép công khai. Sự rò rỉ thông tin phổ biến trong công tác đấu giá cổ phiếu. Hiện nay, quy chế đấu giá do UBCK ban hành chỉ yêu cầu các Trung tâm giao dịch chứng khoán công bố tổng số nhà đầu tư tham gia đấu giá và tổng lượng CP đặt mua, trong khi những thông tin có ảnh hưởng rất lớn đến việc đặt giá như số lượng nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài tham gia đấu giá, số lượng CP đặt mua của các đối tư ợng này, lại không được công bố cụ thể. Điều đáng nói là, nhữ ng thông tin này không được bảo m ật chặt chẽ m à được cung cấp một cách riêng lẻ cho những đối tượng có nhu cầu. Nhữ ng người nắm được cụ thể, chi tiết về tổng cầu cổ phiếu của thị trư ờng, các cá nhân tổ chứ c nào tham gia đấu giá s ẽ tính toán đư ợc hợp lý mứ c giá mà mình bỏ thầu, qua đó chiếm lợi thế so với các nhà đầu tư khác không có thông tin. Sự rò rỉ thông tin còn thể hiện ở việc công bố các thông tin có lợi của công ty. Ví dụ đối với các quyết định của Hội đồng quản trị như chia cổ tức bằng cổ phiếu thư ởng, tăng quy mô vốn... t hông thư ờng do các nguồn quan hệ cá nhân, một số nhà đầu tư còn biết trước khi Trung t âm chứ ng khoán công bố vài ngày và đã tranh thủ thu mua cổ phiếu để chờ giá lên. Đến khi các nhà đầu tư còn lại biết được thông tin thì đã quá mu ộn. Chính vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam đang diễn ra theo hiện tượng "bầy đàn", vì có sự suy diễn rằng, việc mu a hàng loạt hay bán hàng loạt cổ phiếu của m ột nhóm nhà đầu tư nào đó là do có thông tin biết trước. Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp thông tin không công bằng đối với các nhà đầu tư: ưu tiên cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư chiến lư ợc, các nhà đầu tư tổ chức mà không công bố rộng rãi. Đến nay, một hiện tượng phổ biến cho thấy các cuộc đấu giá thì người đấu giá thành công chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức. Loại trừ khả năng các nhà đầu tư tổ chức có kinh nghiệm, kỹ năng phân tích và "trường vốn" hơn thì ngư ời t a cũng nghi ngờ các nhà đầu tư nhận được nhiều thông t in chất lượng hơn so với các nhà đầu tư cá thể. Thứ tư là hiện tượng lừ a đảo. Đây không phải là hiện tượng phổ biến trên thị trường chứ ng khoán Việt Nam nhưng rất đáng cảnh báo các nhà đầu tư nghiệp dư, đặc biệt những người không có kiến thức về chứng khoán và kinh tế lại có tham vọng làm giàu bằng kinh doanh chứng khoán. Báo Vnexp ress đăng tin, một số cá nhân đã lừ a đảo bán cổ phiếu giả cho những nhà đầu tư nhẹ dạ ở
  13. Hải Phòng để thu được gần 800 tỷ đồng. T iếp đó là vụ lừ a đảo hàng chục tỷ đồng, lợi dụng lòng t in của những ngư ời chơi chứ ng khoán nhỏ lẻ để ôm tiền bỏ chạy. Thứ năm là việc tung tin đồn thất thiệt. Trong thời gian 6 năm hoạt động của thị trường chứng khoán, có không ít tin đồn ảnh hưởng đến uy tín của các công ty niêm yết. Các tin này thường được tung ra trên các diễn đàn chứng khoán (forum), trên các sàn giao dịch chứ ng khoán, hoặc được truy ền miệng. Do nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm , kỹ năng để kiểm chứng nguồn thông tin, đồng thời do cơ chế thông t in của doanh nghiệp còn yếu kém, chậm chạp nên dẫn đến gây tâm lý hoang m ang cho nhà đầu tư, ảnh hư ởng đến giá cả cổ phiếu trên t hị trư ờng. Trong khi đó, các quy định của Nhà nước về việc xử phạt đối với việc tun g tin đồn trên thị trư ờng chứng khoán vẫn còn trong giai đoạn soạn thảo. Cơ chế phát hiện đối với việc tung tin đồn cũng chưa rõ ràng. Thứ sáu là các cơ quan truyền thông cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ. Đây không phải là hiện tượng phổ biến nhưng khiến cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp không mấy tin cậy vào chất lượng thông tin của các cơ quan báo chí. Ví dụ, thông tin về SJS "sập sàn" do báo Tiền phong điện tử đăng ngày 12/1/2007. Thực chất là do SJS chia 3 cổ phiếu thưởng cho 1 cổ phiếu hiện tại nên giá cổ phiếu của công ty giảm tương ứ ng từ 728.000đ/CP xuống còn 190.000đ/CP. Mặt khác, về nội dung thông tin do cơ quan truyền thông cung cấp, chủ yếu vẫn là tin tứ c, diễn biến t hị trường, chư a có nhiều các thông tin nhận định phân t ích m ang t ính định hư ớng cho nhà đầu tư và thị trường. Ngoài ra còn nhiều hiện tư ợng khác về việc một số nhà đầu tư làm giá, tạo cung cầu ảo trên thị trường khiến cho giá cả biến động mạnh. Sự thua thiệt thuộc về các nhà đầu tư cá nhân, không có nguồn tin nội bộ, khi m uốn mua t hì không thể nào tìm đư ợc nguồn mua do các nhà đầu tư lớn đã thâu t óm toàn bộ, khi muốn bán thì cũng không thể nào bán được do thị trư ờng bão hòa... Mặc dù đến nay chưa có những nghiên cứ u định lượng như ng có thể khái quát bức tranh toàn cảnh tình trạng bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam khá hỗn độn. Điều này phù hợp với đánh giá của các chuyên gia về tình trạng thị trường chứ ng khoán Việt Nam đang phát triển quá nóng, không phản ánh thực chất giá trị của doanh nghiệp và cung cầu thị trường. c. Hạn chế thông tin bất đối xứng Nếu cứ để t ình trạng như vậy xảy ra thì thị trường chứng khoán ở Việt Nam thì hệ quả tất yếu là sự suy thoái của thị trư ờng, chính ở điểm này, chính phủ và các nhà kinh t ế đã nghiên cứu và hạn chế bớt những ảnh hư ởng tiêu cực như vậy đến thị trư ờng chứng khoán trong thời gian gần đây. Với một loạt các biện pháp mạnh tay, chính phủ đã đưa ra các biện pháp mạnh tay như (Quyết 13 định số: 898 /QĐ-BT C ngày 20 tháng 02 năm 2006 của Bộ Tài chính về việc ban hành “Kế hoạch phát triển thị trường chứ ng khoán Việt Nam 2006-2010”, Quyết định số: 128/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng 02/08/2007 về việc phê duy ệt
  14. Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam). Và những nỗ lự c trong việc ngăn cản t ình trạng bong bóng tài chính vào cuối năm 2007 trên thị trường chứng khoán, chỉ t hị s ố 03 của Ngân hàng Nhà nư ớc ban hành ngày 28/06/2007. Theo đó, các tổ chứ c tín dụng chỉ được phép cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán dưới mứ c 3% của tổng dư nợ tín dụng và liên tục là lời cảnh báo của các chuyên gia về t ìn h hì nh trên. Song song với đó, để hạn ch ế bớt sự bất đố i xứ ng thông t in trên thị trường chứ ng khoán Việt Nam, Chính phủ cần m ạnh tay hơn nữa. Đư a ra các chính sách nhanh nhạy và phù hợp: Thứ nhất, Chính phủ (Ủy ban chứng khoán) cần phải nâng cao qui định vốn pháp định các công ty niêm y ết trên thị trường (giải pháp sàng lọc). Vì qui định các công ty cổ phần có vốn pháp định 10 tỷ đồng được niêm yết trên thị trường hiện nay đã trở nên quá t hấp. Việc nâng cao qui định vốn pháp định sẽ giới hạn chỉ có những công ty có qui m ô lớn mới được niêm yết trên thị trường chứ ng khoán TP.HCM. Như đã nói các công ty càng có qui mô lớn thì nhà đầu tư càng dễ có được thông tin cần thiết để đầu tư về những công ty này thông qua thư ơng hiệu, danh tiếng, phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh… Thứ hai, chính phủ nên khuyến khích các công ty lớn, các tập đoàn lớn sớm tham gia niêm yết trên thị trường, bởi như thế, trên thị trư ờng chứng khoán sẽ có t hêm những cổ phiếu m ạnh (Blue Chip). Thông thườn g, các công ty đó rất có uy tín và thông tin luôn minh bạch, hơn n ữa nhờ vậy mà vốn hóa thị trường sẽ t ăng lên. Thứ ba, các nhà đầu tư các nhân cần phải tự nâng cao kiến thức về chứ ng khoán khi tham gia đầu tư, để giảm bớt tình trạng “bầy đàn” trong giao dich. Cùng đó, cơ quan quản lý ngành (Ủy ban chứ ng khoán, Sở giao dịch chứ ng khoán) thư ờng xuyên đư a ra các phân tích, cảnh báo về diễn biến của thị trường (thị trư ờng tăng trưởng quá nóng hoặc quá lạnh) để nhà đầu tư kém thông tin nhận định chính xác hơn về tình hình thị trường và từ đó sẽ có nhữ ng quyết định mua – bán hợp lý. Thứ tư, về phần các công ty niêm y ết. Các công ty niên yết cần phải “phát tín hiệu” về những thông tin còn thiếu trên thị trường để nhà đầu tư có cái nhìn đầy đủ hơn và đánh giá đúng hơn về giá trị thự c cũng như giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường. Chính phủ cũng nên bổ sung các quy định về công bố t hôn g tin, gồm các thông tin thiếu xót của công ty niên yết . Cuối cùng, xuất ph át từ thực trạng công bố thông tin của các công ty niêm y ết trong thời gian vừa qua và những nhận định vừ a chủ quan vừ a khách
  15. quan của các nhà đầu tư hiện nay, các thông tin công bố từ phía công ty niêm yết cần phải chính xác và kịp thời. Muốn vậy cần phải có những qui định rõ ràng về thời gian, nội dung và chất lượng thông tin công bố, đặc biệt qui định xử phạt phải đảm bảo tính răn đe nếu công ty vi phạm. N goài ra, các cơ quan quản lý chuyên ngành cần phải thư ờng xuyên thự c hiện chứ c năng giám sát cả trực tiếp lẫn gián tiếp để giao dịch được diễn ra công bằng và m inh bạch.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2