BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO



ĐỀ TÀI: TRIẾT HỌC HÊGHEN VÀ SỰ ẢNH HƢỞNG

CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA THỜI ĐẠI.

Giảng viên hƣớng dẩn khoa học : TS. BÙI VĂN MƢA

Học viên thực hiện : Lê Văn Đại

Lớp : CH Đ1 K19

Tp.HCM Thaùng 01 – 2010

MỞ ĐẦU

CHƢƠNG I

MUÏC LUÏC

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VAI TRÕ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA

HEGEN TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC

1- Cơ sở lý luận : …………………………………………………………………

1.2 Vai trò của của phép biện chứng duy tâm của Hegen trong nền triết học …….

CHƢƠNG II: NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC HEGEN

1.2.1 Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hegel ……………………………….

1. Hiện tƣợng luận của tinh thần ……………………………………………………

2. Luận lý học………………………………………………………………....

2.1 Ý thức cảm giác:…………………………………………………………………..

2.1.2 Phân tích đối tƣợng của ý thức cảm giác:……………………………………..

2 .1.3 Xét cái tôi :……………………………………………………………. ..

2.1.4 Quan hệ giữa chủ quan và khách quan :……………………………………….

3.Tri giác :………………………………………………………………………

4. Trí tuệ:……………………………………………………………………….

4.1 Thực tế trong lịch sử loài ngƣời, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế giới ..

4.2 Đến trình độ trí tuệ, Hegel nói chính đối tƣợng ý thức ấy là mình……………

CHƢƠNG III

Triết học Hêgen ảnh hƣởng đến thời đại

1.Tính thiết yếu của triết học Hêgen trong triết học Mác:…………………………

KEÁT LUAÄN................................................

TAØI LIEÄU THAM KHAÛO ................................................................................

PHUÏ LUÏC

2

1.TÍNH CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:

Tìm hiểu và làm rõ triết học Hêgen để là cơ sở, nền tảng để tìm hiểu, lý luận triết học

Mác – Ăngghen.

2. MUÏC ÑÍCH NGHIEÂN CÖÙU

Đề tài đặt ra các mục đích nghiên cứu sau đây

1-Làm sáng tỏ nội dung và bản chất của triết học Hêgen

2- Phân tích, đánh giá triết học Hêgen

3- Những ƣu và khuyết của triết học Hegen trong cuộc sống thời đại

3. ÑOÁI TÖÔÏNG, GIÔÙI HAÏN CUÛA ÑEÀ TAØI NGHIEÂN CÖÙU

Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài đƣợc xác định là triết học Heghen có ảnh hƣởng đến

cuộc sống của thời đại .

4.PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU SỮ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI

Phƣơng pháp nghiên cứu sữ dụng trong đề tài này là phƣơng pháp phân tích, thực

hiện mô tả, suy luận logic và phƣơng pháp duy vật biện chứng đƣợc sữ dụng làm nền

tảng trong nghiên cứu đề tài này.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

1. Heä thoáng moät soá vaán ñeà lyù luaän coù lieân quan ñeán triết học Hêghen

2. Làm sáng tỏ một phần nội dung của triết học Hêgen

6. KEÁT CAÁU CUÛA LUAÄN VAÊN

Ngoaøi lôøi môû ñaàu, keát luaän, danh muïc tham khaûo vaø phuï luïc, luaän vaên goàm ba

chöông:

CHƢƠNG II: Nội dung của triết học Hêgen

CHƢƠNG III: Triết học Hêgen ảnh hƣởng đến cuộc sống thời đại

CHƢƠNG I: Cơ sở lý luận và vai trò của phép biện chứng duy tâm của Hegen

3

LỜI MỞ ĐẦU

Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất, không thể không kể tới Phriđrích Hêgen

ngƣời đã cùng Lút vích Phoiơbăc và các nhà triết học Đức đƣơng thời khác tạo ra

một trong những tiền đề lý luận cần thiết cho việc hình thành chủ nghĩa Mác. Không

chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học

địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với

những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tƣợng, chức

năng và phƣơng pháp của triết học, mối quan hệ của triết học với các khoa học khác

và qua đó, trình bày một cách khúc chiết, đúng đắn bản chất của triết học.

4

CHƢƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA

HÊGEN TRONG NỀN TRIẾT HỌC MÁC

1- Cơ sở lý luận :

Phriđrích Hêgen ( 1770-1831) là nhà triết học – bác học vĩ đại của Đức, Ông là

ngƣời hoàn chỉnh nền triết học duy tâm biện chứng cổ điển đức. Hêghen đã để lại

cho nhân loại một di sản triết học đồ sộ. Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết

học cổ điển Đức, Hêgen đã đem lại cho triết học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của

nó trong đời sống tinh thần nhân loại. Với những luận cứ sâu sắc và có cơ sở khoa

học, Hêgen đã làm sáng tỏ đối tƣợng, chức năng và phƣơng pháp của triết học, mối

quan hệ của triết học với các khoa học khác và qua đó, trình bày một cách khúc chiết,

đúng đắn bản chất của triết học. Gần 2 thế kỷ đã trôi qua kể từ khi hệ thống triết học

Hêgen ra đời, song ảnh hƣởng của nó trong đời sống tinh thần nhân loại vẫn không

ngừng tăng lên. Bởi lẽ, nhƣ Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Hệ thống Hêgen bao trùm

một lĩnh vực hết sức rộng hơn bất cứ hệ thống nào trƣớc kia, và phát triển, trong lĩnh

vực đó, một sự phong phú về tƣ tƣởng mà ngày nay ngƣời ta vẫn còn ngạc nhiên... Vì

Hêgen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri

thức bách khoa nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại... Nếu đi sâu hơn nữa

vào trong toà nhà đồ sộ, ngƣời ta sẽ thấy trong đó có vô số những vật qúy giá đến

nay vẫn còn giữ đƣợc toàn bộ giá trị của chúng... Nói chung, với Hêgen, triết học đã

đi đến điểm tận cùng, một mặt vì trong hệ thống của ông, ông đã tổng kết một cách

hết sức hùng vĩ toàn bộ sự phát triển của triết học và mặt khác, vì Hêgen, dù không

có ý thức, cũng đã chỉ cho chúng ta con đƣờng thoát khỏi cái mớ bòng bong những

hệ thống triết học, nhân loại đã lập nên biết bao chiến công hiển hách kể từ ngày

Hêgen trở về cõi vĩnh hằng. song nó cũng đã phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng

nề. Một trong các nguyên nhân gây nên những tôn thất ấy là do chúng ta đã hành

động mà thiếu một tƣ duy tỉnh táo và trƣớc hết là thiếu một tƣ duy mang đậm sắc thái

nhân văn - tƣ duy triết học, tƣ duy luôn đặt con ngƣời, số phận và khát vọng về tự do

của nó lên hàng đầu. Điều đó cho thấy, nhân loại không thể sống thiếu triết học với

bản chất nhân đạo vốn có của nó. Và hơn ai hết, chính Hêgen là nhà triết học đầu tiên

5

không những đã ý thức đƣợc và nói rõ bản chất nhân đạo ấy của triết học, mà còn

luận chứng cho nó một cách sâu sắc và khoa học.

1.2 Vai trò của của phép biện chứng duy tâm của Hêgen trong nền triết học

1.2.1 Hạt nhân duy lý trong biện chứng pháp Hêgen

Marx lấy lại của Hêgen phƣơng pháp biện chứng, cải biến nó từ một phƣơng pháp

biện chứng duy tâm thành phƣơng pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ

Marx thực hiện đƣợc một cuộc biến chất nhƣ vậy chính là vì trong biện chứng pháp

của Hêgen đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái

phƣơng pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo

quá trình phát triển mâu thuẫn. Hêgen đã vận dụng phƣơng pháp nêu mâu thuẫn đó

một cách lộn ngƣợc, chân cho lên trên, đầu để xuống dƣới; lẽ ra phải thấy rằng do

mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới

phát sinh ra tinh thần, thì Hêgen lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của

tinh thần.

Cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của

Hêgen lại nắm đƣợc cơ sở chân lý đó? Muốn hiểu đƣợc điểm này thì cần phải xét đến

nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen.

1.2.2 Nguồn gốc lịch sử chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen

Biện chứng pháp duy tâm của Hêgen là kết quả của quá trình xây dựng phƣơng pháp

biện chứng trong triết học Đức từ Kant; quá trình ấy phản ánh những đòi hỏi của tƣ

tƣởng cách mạng tƣ sản Âu châu thông qua tình hình đặc biệt của giai cấp tƣ sản

Đức. Ƣu điểm lớn nhất của Kant là đã đề cao đƣợc vai trò lao động sáng tạo ra thế

giới, tuy chỉ quan niệm cái lao động ấy là lao động tinh thần. Thế giới của Kant là thế

giới của tƣ sản, thế giới trao đổi hàng hóa. Trong chế độ kinh tế phong kiến, những

vật làm ra chủ yếu là để sử dụng, nếu có trao đổi cũng chỉ là trong phạm vi địa

phƣơng nhỏ hẹp, với quan niệm ban ơn. Với kinh tế tƣ sản, quan hệ chính trong xã

hội là quan hệ trao đổi hàng hóa trên cơ sở bình đẳng - thực ra bình đẳng ở đây chỉ là

hình thức, chỉ để che đậy động cơ quyền lợi ở bên trong - hàng hóa là sản sinh ra

6

trong một quá trình sản xuất của máy móc, có tổ chức, duy lý. Nhƣ vậy là tính chất

lao động sáng tạo đã đƣợc thực hiện với một mức cao. Đã đến lúc có điều kiện để tin

rằng thế giới của loài ngƣời - cái thế giới hàng hóa - là do con ngƣời tạo ra.

Nhƣng vật chất mà tƣ sản đề cao chỉ là vật chất máy móc, chƣa phải là vật chất thực

sự lao động tức là con ngƣời lao động. Giai cấp tƣ sản chỉ giữ lại phần lao động trí

óc, lao động tổ chức sản xuất và tính toán kỹ thuật sản xuất, gạt bỏ phần lao động

thực sự tức là con ngƣời sản xuất. Đây cũng là nguyên nhân tính chất hạn chế của tƣ

tƣởng Kant khi ông đề cao vai trò lao động trong quá trình hiểu biết và xây dựng thế

giới, Kant hạn chế lao động đó trong phạm vi tinh thần, do hoạt động của tinh thần

mà thế giới bên ngoài đƣợc xây dựng và có đƣợc tính chất khách quan.

Trong bản đề án về Feuerbach gồm 11 điểm, Marx viết rằng trong chủ nghĩa duy vật

trƣớc kia ngƣời ta chỉ nắm đƣợc vật chất về phần tĩnh của nó, tức là trong phạm vi nó

đƣợc phản ánh một cách thụ động vào trong giác quan của con ngƣời. Còn phần hoạt

động thì chủ nghĩa duy vật cũ chƣa nắm đƣợc. Vì vậy nó chỉ đƣợc đề cao trong phạm

vi tinh thần, duy tâm. Nhƣng tƣơng đối với điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, việc đề cao

này cũng đã là một bƣớc tiến bộ. Vì lao động tinh thần đƣợc nêu lên đó cũng phản

ánh đƣợc phần nào phƣơng thức sản xuất mới, và thực ra nó cũng bắt nguồn từ lao

động thực sự.

Vì vậy, đặc điểm của tƣ tƣởng duy tâm Đức là đã xây dựng đƣợc một khái niệm về

chủ quan, nó phản ánh quá trình thực tế của lịch sử, tức là quá trình lao động xây

dựng thế giới. Đây chính là cái hạt nhân duy lý.

Lao động tinh thần mà Kant quan niệm chỉ phản ánh đƣợc hình thức kỹ thuật của

phƣơng thức sản xuất máy móc. Kant cho rằng thế giới mà ta nhận thức đƣợc là do

sự liên kết những cảm giác theo quy luật số lƣợng và nhân quả, quan niệm đó phản

ánh tính chất sản xuất hàng hóa theo quy luật số lƣợng và nhân quả. Đấy mới chỉ là

hình thức kỹ thuật sản xuất, chƣa đi vào con ngƣời lao động thực sự. Kant mới phản

ánh phƣơng thức sản xuất trong giai đoạn tiền cách mạng; Kant chƣa tin tƣởng hoàn

toàn vào cái thế giới hàng hóa và cho đấy chƣa phải là thực tại tuyệt đối, chƣa phải là

vật tự tại.

7

Tiến lên một bƣớc nữa, đến giai đoạn cách mạng cần phải khẳng định hoàn toàn cái thế giới mới, Fichte [2] đã tuyệt đối hóa quan niệm duy tâm của Kant. Fichte nói: nếu

thế giới là do ý thức chủ quan của ta mà có, do lao động tinh thần xây dựng lên, thì

đấy cũng là thế giới duy nhất, ngoài nó ra không có vật tự tại nào khác.

Fichte đã đi thêm đƣợc một bƣớc trên con đƣờng xây dựng phƣơng pháp biện chứng.

Fichte đã từng thấy mâu thuẫn giữa hoạt động sáng tạo và thế giới đƣợc sáng tạo,

giữa cái «tôi» và cái «không phải là tôi». Tôi chỉ là một vật thể trong thế giới tự

nhiên và thế giới đó ảnh hƣởng đến tôi. Nhƣng mặt khác, cái chủ quan của tôi đã đặt

ra: tôi là một vật thể. Hai mặt đó đã đƣợc Fichte biểu diễn trong hai mệnh đề: về

quan hệ lý thuyết là tôi tự đặt (tôi là do cái không phải là tôi quy định); và trên quan

hệ thực tiễn là tôi đặt (cái không phải tôi là do tôi quy định).

Phƣơng pháp mâu thuẫn này mới đƣợc sử dụng trong phạm vi chủ quan, cái khách

quan ở đấy chung quy vẫn nằm trong chủ quan. Mâu thuẫn giữa tôi và cái không phải

tôi vẫn nằm trong tôi, vì chính tôi đặt ra cái quan hệ đó - cái tôi vẫn là tuyệt đối.

Triết học của Hêgen vận dụng một cách có hệ thống phƣơng pháp biện chứng, tức là

phƣơng pháp nêu mâu thuẫn và biểu diễn quá trình biến chuyển của mâu thuẫn.

Phƣơng pháp của Hêgen phản ánh đầy đủ hơn quá trình lịch sử thực tế, cho là trong

mỗi giai đoạn có phát sinh ra mâu thuẫn nội bộ, và có phản ánh quá trình đó một

cách có thứ tự, hệ thống. Nhƣng Hêgen lại nói rằng quá trình phát triển vật chất là do

mâu thuẫn của hoạt động tinh thần. Hêgen chỉ trông thấy hiện tƣợng ở bên trên, nên

cho rằng tinh thần quy định sự tiến hóa, hoạt động tinh thần sáng tạo ra thế giới.

Mệnh đề chung của Hegel phản ánh một chân lý: đó là con ngƣời sáng tạo thế giới

lịch sử. Nhƣng con ngƣời đó chỉ đƣợc quan niệm trong phạm vi tinh thần. Tuy nhiên

con ngƣời tinh thần cũng chỉ là hình ảnh của con ngƣời lao động thực sự. Hạt nhân

duy lý trong phƣơng pháp biện chứng của Hêgen là ở chỗ đó.

8

CHƢƠNG II

NỘI DUNG CỦA TRIẾT HỌC HÊGEN

1. Hiện tƣợng luận của tinh thần

2. Luận lý học.

Cuốn trên trình bày lý thuyết về những hiện tƣợng của tinh thần và cuốn dƣới nói về

hệ thống phạm trù. Nhƣng phạm trù này không chỉ là những khái niệm trừu tƣợng

nhƣ của Kant mà bao gồm tất cả nội dung của thực tế khách quan. Luận lý của Hegen

không phải là hình thức mà bao gồm tất cả cái gì có thể hiểu biết đƣợc và trình bày

theo quá trình biện chứng của nó, nhƣng trƣớc khi đi đến trình độ đó, phải thanh toán

những hình thái ý thức còn phân biệt thực tế khách quan và khái niệm, chƣa thực

hiện lý luận triết học. Hêgen phê phán những chủ nghĩa triết học trƣớc bằng cách coi

những hình thái ý thức không phải là lý luận triết học nhƣ ông ta quan niệm (ví dụ:

cảm giác, tức là cơ sở chủ nghĩa cảm giác). Phân tích nó đúng thế nào và chứng minh

rằng mỗi hình thái ấy có một quá trình biện chứng, trong đó nó mâu thuẫn với nó, bắt

buộc phải chuyển lên một mức cao hơn và cứ nhƣ thế đi đến hình thái triết học của

Hêgen.

Trong cuốn Hiện tƣợng luận của tinh thần (Phenomeno- logie des Geistes), Hêgen

phê phán mọi tƣ tƣởng triết học trƣớc đó, qua mọi hình thái ý thức theo quá trình

biện chứng của nó cho đến luận lý học của Hêgen, tức là biện chứng pháp duy tâm

mà Hêgen quan niệm.

2.1 Ý THỨC CẢM GIÁC

Ý thức cảm giác là cái ý thức nhằm cái trƣớc mắt: cái này, ở đây, bây giờ. Theo ý tứ

của nó thì nó nắm đƣợc thực tại tuyệt đối. Thƣờng những chủ nghĩa chống triết học

duy tâm dựa vào cái mà tôi nắm ở đây, bây giờ, để mà phê phán những lý luận cao

siêu của các triết gia. Chúng ta phân tích nội dung thực tế của cái ý thức cảm giác ấy.

2.1.2 Phân tích đối tƣợng của ý thức cảm giác:

Cái này, ở đây, bây giờ là cái gì? có nhắc đến thế giới không?

9

Xét theo nội dung thì nó luôn luôn biến chuyển vì thế «tôi» không nắm đƣợc gì hết.

Thực tế, ta chỉ nắm đƣợc cái đại thể: lúc nào cũng là lúc bấy giờ, chỗ nào cũng là ở

đây, cái gì cũng là cái này. Vậy ta không nắm đƣợc cái cá thể. Chủ nghĩa cảm giác có

thể trả lời: Đối tƣợng biến chuyển luôn luôn, nhƣng vẫn là tôi nắm nó.

2 .1.3 Xét cái tôi ấy là gì?

Tôi nhằm cái này. Cái tôi nhằm nhƣ vậy tƣởng là vững chắc, nhƣng bên cạnh có

ngƣời khác cũng nhằm cái này, vì ai cũng là tôi cả nên tôi ấy vẫn là đại thể. Cho nên

ý thức cảm giác cũng không căn cứ đƣợc vào cái tôi cá thể.

2.1.4 Quan hệ giữa chủ quan và khách quan

Chủ quan cũng nhƣ khách quan không phải là cá thể. Vậy quan hệ giữa chủ quan và

khách quan có phải là cá biệt không?

Phân tích quan hệ ấy trong cảm giác thì chúng ta chỉ có thể định nghĩa bằng cái thái

độ: chỉ cái này, bây giờ, ở đây. Khi tôi chỉ cái này ở đây, tức là tôi đặt đối tƣợng

trong không gian, tôi phải nắm nhiều cái ở đây. Vậy tôi cũng chỉ nắm cái đại thể. Khi

tôi chỉ cái bây giờ, vì một buổi chiều có mấy giờ, mỗi giờ nhiều phút, v. v... Vậy

quan hệ đây giữa chủ quan và khách quan vẫn phải nắm một đại thể.

Kết luận là ý thức cảm giác tƣởng là nắm đƣợc một cá biệt rất là vững chắc. Nhƣng

thực tế nó nhằm cái cá biệt, nhƣng nó không nắm đƣợc cái mà nó phải nắm là cái đại

thể. Vậy tất cả những lập luận dựa vào cảm giác - chủ nghĩa kinh nghiệm - chống lại

chủ nghĩa vận dụng lý luận là vô giá trị. Vậy thực tế khách quan không do kinh

nghiệm trực tiếp mà nắm đƣợc, mà phải do khái niệm mới nắm đƣợc. Hegel phê

phán chủ nghĩa kinh nghiệm cũng là nhằm chủ nghĩa duy vật.

3.TRI GIÁC

Ý thức cảm giác tự nó mâu thuẫn với nó. Tri giác là ý thức nắm đối tƣợng với thuộc

tính đại thể của nó. Cái bàn với hình thể, màu sắc, trọng lƣợng. Những thuộc tính ấy

định nghĩa cái nội dung thực tại của đối tƣợng khách quan. Trong tri giác tôi đã nắm

đƣợc nội dung chân chính của đối tƣợng. Tôi đã định nghĩa đƣợc rồi. Nhƣng phân 10

tích cái nội dung ấy, chúng ta thấy có mâu thuẫn giữa thuộc tính với vật thể cá biệt.

Nếu thực chất của nó là thuộc tính đại thể thì tôi không nắm đƣợc cái gì cá biệt cả. Ví

dụ: Tôi nói cây này màu xanh, nhƣng xanh này lại khác xanh của các vật khác.

Thành ra trong tri giác vẫn có mâu thuẫn, và do đó bƣớc đầu phải trở lại cảm giác.

Những thuộc tính lại trở lại cá biệt mà không phải là đại thể nữa. Nhƣng trong cảm

giác ấy lại có mầm mống để phát triển nội dung theo chân lý của nó. Là vì nếu chúng

ta đặt thuộc tính ấy là thực tế khách quan. Nếu có gì thiếu sót thì ta cho nó là của chủ

quan. Vì sai lầm chủ quan cho nên tƣởng thuộc tính của nó lúc thế này lúc thế khác,

nhƣng khách quan thì vật thể có thuộc tính nhất định của nó. Nếu cho rằng sai lầm là

chủ quan của ta, thì chúng ta đã đặt đƣợc chân lý ở vật thể tri giác. Nhƣng mọi vật

thể lại liên quan với nhau: nội dung chân chính của vật thể là do quan hệ của nó với

vật khác. Quan hệ có thể hiểu biết đƣợc, quan hệ lý tính chứ không phải cái này, cái

kia với những thuộc tính của nó. Mâu thuẫn đó đƣa đến một hình thức cao hơn, tri

giác, tức là trí tuệ có thể hiểu biết, tính toán ngoài cảm giác.

4. TRÍ TUỆ

Với trí tuệ, chúng ta nắm đƣợc chân lý cao, nhƣng vẫn có mâu thuẫn, chân lý ấy lại

tự phủ định nó. Chân lý của trí tuệ là những quan hệ toán lý mà chúng ta có thể hiểu

biết đƣợc ngoài hay trên thế giới cảm giác kinh nghiệm. Với hoạt động trí tuệ, chúng

ta xây dựng một thế giới mới, thế giới cao hơn thế giới cảm giác, một thế giới siêu

giác. Thế giới siêu giác là chân lý, là thực tế khách quan chân chính ngoài chúng ta.

Phân tích nội dung, chúng ta thấy trong ấy có những quan hệ toán lý. Nhƣng quan hệ

toán lý gì? Căn bản là cách chúng ta tính toán, nó là hoạt động tính toán của ý thức.

Chính nó là cái hoạt động của ý thức. Nội dung của nó là chủ quan, mà ta tƣởng là ở

ngoài ta.

Đến đây có mâu thuẫn: hình thức đối tƣợng khách quan mâu thuẫn với nội dung đối

tƣợng khách quan (tức là chủ quan). Do đó, chân lý khách quan là chủ quan. Thế giới

khách quan không có gì là khác mình. Ý thức chuyển lên ý thức bản ngã, và chính

11

thế giới khách quan cũng là ý thức thôi. Hêgen đã đi thêm một bƣớc nữa trong quá

trình xây dựng chủ nghĩa duy tâm.

4.1 Thực tế trong lịch sử loài ngƣời, cũng có một lúc khoa học định nghĩa thế

giới khách quan bằng toán lý.

Nhƣng có phải nó chấm dứt với ý nghĩa tri giác không? Những quan hệ toán lý nó

đặt ra là trên cơ sở kinh nghiệm. Quy luật này, quy luật kia, là quy luật của thế giới

vật chất xuất hiện trong kinh nghiệm. Còn nội dung toán lý thật ra thì có phần chủ

quan, vì do hoạt động tính toán của chúng ta. Nhƣng hoạt động tính toán của chúng

ta cũng là phản ánh một quá trình cơ giới thực sự mà chúng ta nắm trong kinh

nghiệm máy móc. Không có sản xuất máy móc, không có tính toán, và tính toán chỉ

là một cách phản ánh cái hoạt động máy móc đã có, và dự tính quá trình lao động

máy móc sau này. Nội dung thực sự là thực tế khách quan của thế giới vật chất.

4.2 Đến trình độ trí tuệ, Hegen nói chính đối tƣợng ý thức ấy là mình (ý thức

biến thành ý thức bản ngã).

Điểm này cũng phản ánh một hiện tƣợng thực tế. Vì ý thức bản ngã là gì? làm sao mà

tôi có ý thức bản ngã đƣợc.

Trong quá trình lịch sử, ý thức bản ngã phát triển với hoạt động sở hữu hóa. Tôi là tôi

có của. Quá trình sở hữu hóa có thể cá thể hay tập thể. Thời thị tộc, tôi tức là tôi tập

thể. Bản ngã có tính chất cá thể xuất hiện với chế độ sở hữu cá thể, tách biệt ngƣời

này với ngƣời kia. Của của tôi không phải là của của anh. Quá trình sở hữu hóa tự

phát đến chế độ tƣ bản mới có tính chất tự giác. Chính đấu tranh của giai cấp tƣ bản

chống giai cấp phong kiến nhằm chế độ tƣ hữu mới, có ý thức, đấu tranh chống lại

những đặc quyền của giai cấp phong kiến. Trái lại, đấu tranh của nô lệ chống chủ nô,

hay phong kiến mới chống Nhà nƣớc chủ nô cũ, không có ý thức rõ rệt về nội dung

thực sự, tức là thay đổi chế độ sở hữu. Sở dĩ bọn tƣ bản có ý thức nhƣ vậy là vì lần

đầu tiên có một tổ chức sản xuất mà ngƣời chỉ huy sản xuất có thể nắm đƣợc rõ rệt

quá trình của nó. Phƣơng thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa là một phƣơng thức có ý

thức, bọn tƣ bản tính toán quá trình sản xuất một cách chi tiết. Tất nhiên không phải

12

là tính toán toàn bộ, họ chỉ trong phạm vi cục bộ tƣ hữu thôi, chứ không phải toàn bộ,

cho nên sinh ra hẹp hòi, duy tâm, trừu tƣợng. Nhƣng trong giới hạn ấy, nó có nắm

đƣợc quá trình sản xuất. Trong giới hạn ấy, bọn tƣ bản nắm đƣợc hoạt động của con

ngƣời theo hình thức kỹ thuật trừu tƣợng. Vì họ nắm đƣợc nhƣ vậy, cho nên ý thức

sở hữu của họ rất rõ rệt.

Chính tổ chức sản xuất với cách vận dụng trí tuệ của nó gây ra ý thức sở hữu và cuộc

đấu tranh giai cấp của tƣ bản chống phong kiến.

Hêgen đã phản ánh quá trình này trong phạm vi tinh thần. Hêgen nói: những mâu

thuẫn của trí tuệ đƣa đến ý thức bản ngã. Thực tế, nó là quá trình phƣơng thức tƣ bản

chủ nghĩa chuyển lên đấu tranh chống phong kiến, tranh giành quyền tƣ hữu tƣ bản

chủ nghĩa. Nó là một quá trình thực tế trong lịch sử. Nhƣng Hêgen đã phản ánh một

cách hẹp hòi nên kết luận lộn ngƣợc: thế giới là chúng ta tức là không có thế giới, chỉ

có chúng ta.

Triết học Hêgen là duy tâm tuyệt đối, nhƣng nó thông qua cả nội dung cụ thể của lịch

sử, không để một cái gì ở ngoài cả. Chính nội dung tuyệt đối là do nó phản ánh lịch

sử có thật. Nó có cái mà Marx gọi là «hạt nhân duy lý». Mâu thuẫn xuất hiện trong

phạm vi tinh thần phản ánh mâu thuẫn thực sự của tự nhiên.

Phƣơng pháp nêu mâu thuẫn, vận dụng mâu thuẫn, diễn tả quá trình biến chuyển theo

mâu thuẫn là một phƣơng pháp rất đúng mà Hêgen đã vận dụng trong phạm vi duy

tâm, một cách trái ngƣợc, nhƣng căn bản có hình thức đúng. Nội dung ấy đã bị xuyên

tạc. Đấu tranh giai cấp thực sự trong xã hội thì Hêgen lại quan niệm là quá trình phát

sinh của ý thức tự ngã. Nhƣng trong lúc mô tả quá trình phát sinh ấy trong phạm vi

tinh thần với những khái niệm trừu tƣợng, thực tế Hêgen đã diễn tả những hình ảnh

phản ánh cuộc đấu tranh thực sự giành quyền sở hữu của giai cấp tƣ bản.

5.Ý thức bã ngã

Có thể nói đây là chƣơng nổi tiếng nhất của quyển Hiện tƣợng luận tinh thần.

Chƣơng này đƣợc sử dụng rất nhiều. Nó chia làm hai phần:

13

Phần I - Độc lập tính và phụ thuộc tính của ý thức bản ngã.

Phần II - Tự do tính của ý thức bản ngã.

Phần thứ I: phản ánh những cuộc đấu tranh phát triển cuối thời thị tộc và quá trình

chuyển biến của chế độ nô lệ.

Phần II trình bày những chủ nghĩa phát triển cuối thời nô lệ ở Địa Trung Hải. Ba chủ

nghĩa: khắc kỷ, hoài nghi, tâm hồn gian khổ (tức là đạo Gia tô) nhằm đề cao tự do

tính của con ngƣời. Theo Hêgen, những ngƣời theo đạo Gia-tô là những ngƣời có

tâm hồn gian khổ. Tâm hồn họ đƣợc cứu thế, nhƣng đời này thì tâm hồn đó vẫn gian

khổ. Chính trạng thái gian khổ đó gây nên đòi hỏi cứu thế. Hêgen đã diễn tả quá trình

lịch sử đó trong phạm vi tinh thần.

5.1Tự do tính của ý thức bản ngã

Nhờ công trình lao động của nô lệ, đời cổ đại đã xây dựng đƣợc một thế giới mới có

tính chất nhân tạo, trong đó ý thức bản ngã có thể hƣởng đƣợc tự do, nghĩa là lúc

trông thấy vật thể bên ngoài, nhận thấy vật thể bên ngoài cũng là nó. Tự do là sống

trong một thế giới mà mình tự nhận mình trong thế giới ấy, những vật thể trong thế

giới ấy đã mất tính chất độc lập với ta mà là những vật thể của mình thôi. Sống trong

thế giới ấy tức là hƣởng đƣợc đời sống tự do, không bị cái gì đối lập, cƣỡng bách

mình. Hegel đã trình bày hình thức tự do đó trong phạm vi tinh thần, qua ba chủ

nghĩa sau đây:

5.1.2 Lý tính

Lý tính là ý thức bản ngã tin tƣởng rằng mình là tất cả sự vật trong thế giới. Ở đây, tƣ

tƣởng duy tâm của Hegel lên đến cao độ: ý thức chủ quan nhận thấy mình trong tất

cả sự vật.

Biện chứng pháp của lý tính thông qua 3 giai đoạn:

1 - Lý tính thực nghiệm,

2 - Lý tính thực tiễn gồm có 3 giai đoạn nhỏ:

14

a) Hƣởng lạc và định mệnh;

b) Luật của lƣơng tâm và tự cao điên cuồng;

c) Đạo đức và thời cuộc.

3 - Lý tính trong cái thực hiện của mình gồm có:

a) Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy;

b) Lý tính lập pháp;

c) Lý tính kiểm pháp.

Quá trình diễn biến của lý tính phản ánh quá trình đấu tranh giai cấp trong thời đại tƣ

sản đang lên.

1 - Lý tính thực nghiệm (tiếp thu kinh nghiệm)

Lý tính thực nghiệm là ý thức tin tƣởng mình là mọi sự vật, trong thế giới chỉ có

mình thôi. Nó phát triển bằng tƣ tƣởng thực nghiệm, tìm tòi mình trong tự nhiên, vì

tin tƣởng trong tự nhiên chỉ có mình. Do đó mà phát triển khoa học thực nghiệm.

Lòng tin tƣởng của nhân loại vào mình đã thành lập trong quá trình phát triển của

khoa học tự nhiên, nhƣng gặp mâu thuẫn khi chuyển lên vấn đề ngƣời: lúc nó đặt vấn

đề con ngƣời là gì? tƣ tƣởng là gì (tâm lý học)? Khoa học tự nhiên quan niệm ngƣời

là một vật tự nhiên, nó là một bộ óc nhƣ vậy làm sao nó lại tƣ tƣởng đƣợc (nó tự

nhận nó trong vật ấy đƣợc). Do mâu thuẫn ấy, ý thức lý tính chuyển sang một lập

trƣờng mới: lý tính thực tiễn. Nó không thể nhận thấy nó trong tự nhiên, cho nên nó

phải tự thực hiện nó trong tự nhiên.

5.1.3 Lý tính thực tiễn thông qua 3 giai đoạn:

a - Hưởng lạc và định mệnh

Chủ yếu là hƣởng lạc trong luyến ái, phát triển trong thế kỷ XVII, XVIII. Tƣ tƣởng

hƣởng lạc là một hình thái tƣ tƣởng cao hơn trình độ ham muốn, vì nó bao hàm ý

thức bản ngã: đã tin tƣởng mình là tất cả sự vật, mình thống trị thế giới. Nhƣng nó lại

gặp một ý thức khác (một ngƣời khác) cùng tin tƣởng nhƣ thế. Hai bên rất xa cách

15

nhau, vì mỗi ngƣời mang một thế giới trong đầu óc. Mỗi cá nhân đều tự giác về

quyền lợi tuyệt đối của mình, nhƣng lại gặp một cá nhân khác cũng tự giác. Nhƣ thế

chỉ còn một cách giải quyết là gây ra một cái thông cảm để phá cái ngăn trở giữa cá

nhân và cá nhân. Cái cản trở đó bị phá bỏ trong sự hƣởng lạc. Sự hƣởng lạc đó không

phải chỉ nhằm hấp thụ đối tƣợng vào mình, mà có ý thức phá bỏ xa cách giữa cá nhân

và cá nhân để gây nên một ý thức đại thể. Trong hƣởng lạc, cá nhân thông cảm với

toàn bộ thế giới, tìm sự giải phóng con ngƣời trong cái hƣởng lạc đó, và đặt cho mình

một giá trị tuyệt đối: đƣa cá nhân lên đại thể. Đến đây lại xuất hiện mâu thuẫn: đại

thể đây không có ý nghĩa cụ thể, thông qua một cách chung chung, không nắm đƣợc

điểm nào dứt khoát; rất trừu tƣợng. Đó chính là cái định mệnh. Thực tế, trong cái

hƣởng lạc không đạt đƣợc mức cao hơn, do định mệnh hai bên thông cảm với nhau

mà hƣởng đƣợc hạnh phúc, nhƣng không biết dựa vào đâu, không hiểu vì sao có cái

định mệnh ấy? Định mệnh là một khái niệm nghèo nàn không có nội dung. Nhƣng

trong cái nghèo nàn ấy, lý tính cảm thấy mình không còn là cá nhân hƣởng lạc mà

mình có giá trị đại thể. Do mâu thuẫn này, ý thức lại chuyển lên một hình thức cao

hơn: luật của nhân tâm và tự cao điên cuồng.

5.14 Lý tính trong cái thực hiện của mình

a - Giới động vật của tinh thần và cái lừa dối hay chính sự việc ấy đấy

Cá nhân chỉ biết có mình thôi, không biết ngƣời khác, nhƣng khi phát huy tài năng

thì mỗi cá nhân lại làm công việc chung. Công việc của nó làm có ý nghĩa tinh thần:

do đó gọi là giới động vật của tinh thần: mỗi sự nghiệp cá nhân là một bộ phận của

sự nghiệp chung; nó tƣởng là nó làm cho nó thì nó đã làm cho tập thể, nhƣng thực tế

thì nó lại cũng làm cho cá nhân nó. Mâu thuẫn đó Hegel kêu là lừa dối. Nhƣng mà

trong quá trình mâu thuẫn ấy, chúng ta đi đến ý thức cái mà ta nhầm chính là sự việc

ấy đấy. Nhƣ thế, ý thức không phải là cá nhân, vì sự việc ấy có ý nghĩa đại thể. Nếu

đã nhận thức đƣợc điểm ấy, thì ý thức đặt quy luật cho thế giới: đó là lý tính lập

pháp.

5.15 Lý tính lập pháp

16

Đặt luật có giá trị phổ cập, nhƣng cũng chỉ dựa vào cá nhân thôi, vì nó thấy nó có cơ

sở đặt luật cho mọi ngƣời. Điểm này Hegel nhắm luận lý cảm tính của Rousseau[7],

định ra luật pháp dựa vào cảm tính, cảm tính cho cái gì tốt là tốt, cái gì xấu là xấu.

Nhƣng lại có mâu thuẫn, vì cảm tính mỗi ngƣời một khác, không thể dựa vào cảm

tính mà đặt luật pháp đƣợc. Nó chỉ có thể xem xét đặt luật này đúng hoặc sai: lý tính

kiểm pháp.

1. Chủ nghĩa khoa học thực nghiệm.

2. Chủ nghĩa hƣởng lạc.

3. Chủ nghĩa cá nhân duy tâm, lấy cá tính làm quy luật cải tạo thế giới.

4. Chủ nghĩa đạo đức, phải hy sinh cá nhân chống lại thời cuộc để thực hiện đức tính,

phát triển trong giai đoạn cao nhất của Cách mạng Pháp 1789 thời Robespierre[8]

lãnh đạo.

5. Ngoài ra, Hêgen cũng phản ánh luận lý cá nhân chủ nghĩa của Montaigne, một

phần nào của Descartes, luận lý tình cảm của Rousseau, cuối cùng là luận lý của

Kant. Nội dung rất phong phú. Mâu thuẫn Hêgen nêu lên là mâu thuẫn có thật trong

lịch sử tƣ tƣởng và trong lịch sử nói chung. Ví dụ: mâu thuẫn đặc tính với thời cuộc

là mâu thuẫn có thật giữa bọn Robespierre và giai cấp tƣ sản. Robespierre đề cao đức

tính cũng chỉ là phục vụ tƣ sản, mà quyền lợi tƣ sản lại chỉ là quyền lợi cá nhân.

Nội dung tuy phong phú nhƣng chỉ diễn tả trong tinh thần: nói chung là mâu thuẫn

giữa cá thể và đại thể, nhƣng ta không hiểu vì sao mâu thuẫn lại diễn biến nhƣ vậy,

cuối cùng đức tính phải đầu hàng thời cuộc. Hêgen đã tách rời cơ sở thực tế. Cả công

trình xây dựng lý tính trên cơ sở duy vật lại đƣợc trình bày một cách duy tâm: trình

bày để chứng minh chủ nghĩa duy tâm; biện chứng pháp của Hêgen đã đảo ngƣợc cái

ý nghĩa chân chính của phong trào cách mạng tƣ sản: ý nghĩa duy vật.

Mâu thuẫn căn bản, đứng về mặt duy tâm mà Hêgen nêu ra trong quá trình diễn biến

của lý tính là mâu thuẫn giữa sự tin tƣởng của bản ngã và mặt khác là sự thực rằng ý

thức bản ngã vẫn là cá nhân. Mâu thuẫn là: cái mà nó tin tƣởng thì thực tế nó chƣa

17

thực hiện đƣợc. Từ mâu thuẫn đó, nó chuyển lên hình thức bản ngã đại thể tức là cái

tôi đại thể. Hêgen gọi cái tôi đại thể đó là tinh thần. Mâu thuẫn trên thực tế ở đâu ra?

Trong thời tƣ bản chủ nghĩa, ngay trong lúc đang lên của nó đã có mâu thuẫn giữa cá

nhân chủ quan và đại thể khách quan. Nhƣng mâu thuẫn đó không phải xuất phát từ

tinh thần nhƣ Hêgen tƣởng.

Theo Hêgen, trong lý tính thực nghiệm có mâu thuẫn ở chỗ nó tƣởng nó có thể tìm

thấy đƣợc nó trong thế giới vật chất, nhƣng thực tế nó không tìm đƣợc. Do đó, phải

chuyển sang một lập trƣờng mới là lý tính thực tiễn.

Hêgen có phản ánh một phong trào tƣ tƣởng có thực, nhƣ sau: một mặt thì phát triển

khoa học thực nghiệm, một mặt lại phê phán khoa học thực nghiệm, cho khoa học

thực nghiệm chỉ nắm đƣợc một số quy luật chết, không nắm đƣợc bản chất con

ngƣời. Chỉ trong hoạt động thực tiễn, mình mới thực hiện đƣợc tính chất nhân bản.

Ví dụ: trong quyển Faust của Goethe[11] đã biểu hiện một tinh thần chán nản đối với

khoa học, và đòi hỏi một hoạt động thực tiễn. Nhƣ câu: «Khoa học thì xám, nhƣng

cây của đời sống bao giờ cũng xanh». Đó là một xu hƣớng đã phát triển nhiều trong

tƣ tƣởng tƣ sản. Với tƣ tƣởng này, thì một mặt phát triển khoa học, nhƣng một mặt

lại phê phán khoa học, đi vào hoạt động chủ quan chống lại khoa học.

Sở dĩ nhƣ thế, vì thực tế khoa học máy móc không thỏa mãn đƣợc những nhu cầu của

ngƣời ta, thành ra nó bắt buộc ngƣời ta phải tìm con đƣờng giải phóng bằng cách

phản lại khoa học, nó đòi hỏi cái mà Goethe đã gọi là «cây sống xanh tƣơi». Nhƣng

có phải chỉ vì mâu thuẫn tinh thần trong bản chất khoa học tự nhiên mà đi đến giải

pháp đó không? Có phải vì khoa học tự nhiên lúc bấy giờ có tính chất máy móc mà

phải đi tìm con đƣờng giải phóng trong con đƣờng phản lại khoa học không?

Thực tế, những ngƣời đi vào con đƣờng hoạt động phản lý hồi đó phần lớn không

phải là những nhà khoa học. Sở dĩ khoa học tự nhiên hồi đó còn có tính chất máy

móc nhƣ thế, là vì nó bị một cơ sở thực tế nào đó chi phối. Hêgen đã không xét đến

cơ sở thực tế của khoa học tự nhiên, mà chỉ quan niệm theo cách hiểu biết trong

phạm vi tinh thần, giải thích khoa học tự nhiên theo kiểu duy tâm của Kant (quan

18

niệm xây dựng đối tƣợng khách quan theo quy luật chủ quan). Vì thế mà Hêgen nói

đến chuyện tìm chủ quan trong thực nghiệm. Thực tế, trong giai đoạn tƣ sản đang

lên, sự phát triển của khoa học tự nhiên không phải là do việc đi tìm mình trong tự

nhiên, mà trái lại là tìm tự nhiên trong thế giới khách quan. Nó là thế giới quan duy

vật, chứ không phải là duy tâm. Lúc đó, sở dĩ hƣớng về thế giới khách quan vì trong

thực tế đã xuất hiện một phƣơng thức hiểu biết mới theo toán lý, gây cơ sở để hiểu

biết tự nhiên. Phƣơng thức hiểu biết mới đó sở dĩ xuất hiện trong ta, căn bản lại do

kinh nghiệm mới trong phƣơng thức sản xuất mới của tƣ sản. Phƣơng thức hiểu biết

mới đó có hiệu lực hơn phƣơng thức hiểu biết cũ, nó giúp con ngƣời hiểu biết sâu sắc

hơn trƣớc. Hiệu lực của phƣơng thức hiểu biết mới chỉ là kết quả của hiệu lực thực tế

của phƣơng thức sản xuất mới. Hêgen không thấy ý nghĩa thực tế đó mà chỉ nắm

phần xuất hiện của phƣơng thức hiểu biết mới, rồi cho rằng nó là ý thức đi tìm mình

trong tự nhiên. Hêgen đã biến phong trào duy vật thành một phong trào duy tâm. Do

đó, đi đến kết luận rằng: vì mình không tìm thấy mình trong tự nhiên, nên phải tự

thực hiện mình chống lại thế giới.

Thực tế có hiện tƣợng chán nản khoa học tự nhiên thật, nhƣng cản bản là do mâu

thuẫn trong thực tế gây ra, chứ không phải do mẫu thuẫn trong tinh thần. Không phải

là chuyện nhà khoa học tự cảm thấy trong tinh thần chán nản mà đi vào hoạt động

chủ quan. Khoa học có tiến bộ là nhờ có phƣơng thức sản xuất mới, nhƣng trong

phƣơng thức sản xuất mới vẫn có thiểu số; có mâu thuẫn là: về mặt sản xuất thì có

tính chất xã hội, nó mở rộng phạm vi sản xuất, nhƣng về quan hệ sản xuất thì lại có

tính chất tƣ hữu, cá nhân. Do đó, trong phƣơng thức sản xuất mới đó tuy có cơ sở để

phát triển lực lƣợng sản xuất, nhƣng lại không có cơ sở để tổ chức quan hệ sản xuất

cho hợp lý. Nó có một phần nào có tổ chức hợp lý, nhƣng đó chỉ là trong phạm vi

đơn vị cá thể, chứ xét toàn bộ xã hội thì nó không có cơ sở để tổ chức hợp lý đƣợc, vì

nguyên lý của nó là cá nhân tự do cạnh tranh. Do đó mà nó đặt vấn đề giải quyết trên

cơ sở cá nhân, và hoạt động thực tiễn có tính chất cá nhân chủ quan. Vì có tính chất

cá nhân chủ quan nên nó mới đối lập với khoa học. Đó là mâu thuẫn căn bản trong xã

hội tƣ bản (hoạt động thực tiễn mâu thuẫn với hoạt động khoa học). Do mâu thuẫn

căn bản đó mới xuất hiện trong tinh thần hiện tƣợng chán nản đối với khoa học, đi

tìm chân lý ở đời sống thực tiễn chủ quan.

19

Xét lại những hiện tƣợng hoạt động cá nhân chủ quan mà Hêgen đã mô tả, nhƣ hiện

tƣợng chủ nghĩa hƣởng lạc, mâu thuẫn trong chủ nghĩa hƣởng lạc, luật của nhân tâm

(lấy lƣơng tâm cá nhân để cải tạo xã hội), đạo đức hy sinh cá nhân nhƣng vẫn trên

lập trƣờng cá nhân... là những hiện tƣợng có thực mà Hêgen mô tả đúng đắn phần

lớn, nhƣng những hiện tƣợng đó xuất hiện trên một cơ sở xã hội thực tế, chứ không

phải xuất hiện do một biện chứng pháp tinh thần. Cơ sở thực tế đấy chính là điều

kiện hoạt động trong các giai đoạn của cách mạng tƣ sản.

Nói nhƣ Hêgen thật là trừu tƣợng. Thực tế, những hy sinh cá nhân của tƣ sản là nhằm

thỏa mãn quyền lợi cá nhân trong toàn bộ giai cấp của họ. Vì nhƣ thế ngƣời chủ

trƣơng đạo đức đó cuối cùng cũng phải thua bọn đầu cơ. Bọn chủ trƣơng đạo đức chỉ

là đặt điều kiện cho bọn đầu cơ làm giàu để rồi thắng mình. Và cuối cùng, mình cũng

không giữ đƣợc lập trƣờng đạo đức ấy nữa. Ở Pháp, Robespierre chủ trƣơng thực

hiện đạo đức thì rút cuộc cũng bị thất bại. Hêgen đã không thấy nguồn gốc thực tế đó

mà chỉ thấy bề ngoài của hiện tƣợng, do đó đi đến kết luận: cá nhân tự thấy mình

trong thời cuộc, vậy tự nó nó phủ định nó. Nói nhƣ thế là phủ định hoàn toàn phần

đạo đức chân chính mà giai cấp tƣ sản đã thực hiện đƣợc trong giai đoạn cách mạng

của nó. Vì phủ định nhƣ thế, nên khi đến mặt thứ ba của quá trình phát triển của lý

tính (lý tính trong sự thực hiện của mình), Hêgen nhận rằng lý tính không phải là cái

gì ngoài khách quan mà chính lý tính là khách quan ấy. Lập trƣờng ở đây vẫn là cá

nhân. Nó quan niệm thực chất của bản ngã là đời sống khách quan, sự nghiệp của

mỗi ngƣời. Chân lý chủ quan chính là thực tế khách quan ấy. Ở đây, Hêgen có ƣu

điểm lớn là đã mô tả đƣợc mâu thuẫn căn bản trong đời sống cá nhân của xã hội tƣ

bản. Trong lúc cá nhân chỉ nhằm quyền lợi cá nhân của nó thì thực tế nó có phục vụ

xã hội, hành động của nó vẫn có ý nghĩa đại thể. Trái lại, cái mà nó làm để phục vụ

xã hội thì lại chỉ là phục vụ cá nhân. Nhận xét của Hêgen là đúng, vì phƣơng thức

sản xuất tƣ sản dựa vào quyền lợi cá nhân. Do quyền lợi cá nhân mà nó làm phát

triển sản xuất, phát triển xã hội. Động cơ phát triển xã hội của tƣ sản là động cơ cá

nhân. Nhƣng cũng do đấy mà xuất hiện mâu thuẫn: không bao giờ chúng ta nắm

đƣợc cái giá trị tập thể của hoạt động cá nhân, vì bao giờ cũng chỉ là nhằm quyền lợi

cá nhân. Mâu thuẫn đó xuất phát từ phƣơng thức sản xuất tƣ sản. Mâu thuẫn đó chỉ

giải quyết đƣợc bằng cách đánh đổ phƣơng thức sản xuất tƣ sản, để thay vào một

20

phƣơng thức sản xuất mới là phƣơng thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Hegen vì đặt

vấn đề trong tinh thần nên không giải quyết đƣợc. Vì nếu chỉ thấy mâu thuẫn ấy

trong tinh thần, thì cũng chỉ giải quyết trong tinh thần, tức là đặt vấn đề bản ngã

trong tinh thần là bản ngã đại thể, bản ngã của mọi ngƣời. Đó là một giải pháp hoàn

toàn duy tâm. Từ đó, Hegen đã chuyển lên hiện tƣợng tinh thần, cho rằng tinh thần là

bản ngã đại thể, thực tế đã nắm đƣợc đối tƣợng khách quan, thấy rằng chủ quan là

khách quan.

TINH THẦN

Biện chứng pháp của tinh thần là biện chứng pháp duy tâm của những hiện tƣợng

tinh thần nhằm biện chính chế độ nhà nƣớc của giai cấp bóc lột. Theo Hêgen, tinh

thần tức là lý tính đã tìm thấy mình trong thực tế, thấy thực tế là mình. Nó khác với

lý tính ở trên là tin tƣởng chủ quan nhƣng chƣa thực hiện đƣợc. Ở đây, ý thức bản

ngã đã tìm thấy mình trong thực tế; thấy thực tế là mình tức là đã thông cảm đƣợc

với thế giới, thông cảm đƣợc giữa chủ quan và khách quan: tức là tinh thần. Có tinh

thần là nắm đƣợc thế giới khách quan nhƣ mình: cái mà mình thấy xung quanh mình

chính là mình, cái gì cũng là mình cả. Theo Hêgen, tinh thần ấy diễn biến nhƣ sau:

1 – Tinh thần tự nhiên

Lúc đầu, nó xuất hiện một cách trực tiếp tự nhiên, tự nhiên con ngƣời ấy có tinh thần,

con ngƣời sống một đời sống mà mình thấy mình thông cảm với thực tế khách quan.

Xã hội mà thực hiện đƣợc tinh thần tự nhiên nhƣ thế là xã hội Hy Lạp.

Hegen đã theo truyền thông văn nghệ và tƣ tƣởng cổ đại. Theo những tài liệu ấy, đời

sống của ngƣời cổ Hy Lạp không có mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể. Họ thấy một

cách tự nhiên không phải cố gắng cái ý nghĩa tập thể. Họ tự nhiên thấy mình thỏa

mãn trong đời sống tập thể. Phân tích hiện tƣợng điều hòa tự nhiên trong đó ta thấy

vẫn có mâu thuẫn, nhƣng mâu thuẫn thống nhất trực tiếp. Đó là mâu thuẫn giữa gia

đình và nhà nƣớc. Gia đình là đời sống cá thể của mọi ngƣời, nhà nƣớc là đời sống

đại thể. Gia đình cung cấp công dân cho nhà nƣớc. Trái lại, nhà nƣớc là điều kiện cho

gia đình phát triển sinh sống. Lúc nào mà gia đình phát triển mâu thuẫn đối với nhà

21

nƣớc, nghĩa là lợi ích cá thể của mình trái với lợi ích của nhà nƣớc, thì chiến tranh

xuất hiện để củng cố quyền nhà nƣớc đối với gia đình. Khi có chiến tranh, gia đình

phải hy sinh cho nhà nƣớc, và nhà nƣớc phải củng cố, nhƣng tuy thế trong đó vẫn có

những mâu thuẫn để đi đến tiêu diệt xã hội, tiêu diệt sự điều hòa của xã hội Hy Lạp.

Các thành thị tiêu diệt nhau, nhƣng lại thống nhất hình thức. Cụ thể: nó thống nhất

trong nhà nƣớc La Mã. Dân không còn là công dân. Một mặt, họ thực hiện đƣợc đời

sống cá nhân không bị ràng buộc trong đời sống tập thể, vì khi có đế quốc La Mã thì

không có đời sống tập thể nữa, nó chỉ là một đại thể hình thức, mỗi một cá nhân thực

hiện đời sống riêng biệt của mình. Nhƣng mặt khác, nó lại bị tổ chức nhà nƣớc đàn

áp, tiêu diệt mất nội dung; nó chỉ còn là đời sống riêng biệt có tính cách hình thức.

Hiện tƣợng điều hòa giữa cá nhân và tập thể một cách tự nhiên đã bị tiêu diệt. Cá

nhân có quyền sống, cụ thể là có quyền tƣ hữu, không bị ràng buộc bởi tập thể,

nhƣng quyền tƣ hữu đó chỉ là trừu tƣợng, đã bị tổ chức nhà nƣớc tiêu diệt mất nội

dung. Vì thực tế là ngƣời nào cũng bị áp bức. Do hiện tƣợng ấy, cá nhân mà xuất

hiện nhƣ thế thực ra không thực hiện đƣợc ý nghĩa chân chính trong đời sống cá nhân

của nó, mà chỉ thực hiện bên ngoài thôi. Hêgen gọi đó là hiện tƣợng tha hóa.

2 - Tâm hồn tốt đẹp.

Tâm hồn tốt đẹp là những ngƣời không xét tác dụng hành động của mình mà chỉ quy

định hành động đó sở dĩ tốt là vì phù hợp với lƣơng tâm mình. Đến lúc thấy thực tế

hành động có hại, thì họ chỉ biết nói rằng: lƣơng tâm bảo tôi làm thế, còn tác dụng tốt

hay xấu, tôi không biết đến. Tâm trạng này phát triển khá nhiều trong thế kỷ XIX, và

sau này nó phát triển trong toàn thể thế giới. Ta có thể rút ra kết luận rằng: không thể

nào tin tƣởng tuyệt đối vào lƣơng tâm chủ quan, mà phải xét tác dụng thực tế của

hành động. Nếu hành động thực tế có tác hại mà ta còn lấy lƣơng tâm để che đậy, thì

lƣơng tâm đó cũng chỉ là giả dối.

Nhƣng Hêgen lại kết luận khác hẳn. Hêgen cũng nhận thấy rằng bám vào lƣơng tâm

chủ quan để che đậy hành động xấu là đi đến giả dối. Nhƣng Hegel lại đặt vấn đề:

nếu tâm hồn tốt đẹp đó thực tế có làm nên tội lỗi, thì cái ngƣời xét xử tội ấy đứng

trên cơ sở nào mà định tội? Bên có tội thì nhận rằng mình có tội. Nhƣng bên kết án

thì cũng chỉ có thể nói rằng bên kia có tội mà thôi. Ngƣời xét xử chỉ đứng ở ngoài mà

22

xét đoán, chứ không biết rằng trong hoàn cảnh đó ngƣời ta phải hành động nhƣ vậy.

Khi ngƣời ta đã nhận tội rồi, mà mình còn kết án thì chính ngƣời kết án là ngƣời có

tội. Cuối cùng phải đi đến chỗ thông cảm với tội lỗi đó, và khoan hồng ngƣời có tội

vì tội đã nhận thì không thành tội nữa. Nhƣng khoan hồng trên cơ sở nào? Hegen

phân tích: trong lúc hai bên thông cảm với nhau nhƣ vậy thì đều có ý thức rằng cái

mình là cái mình đại thể, mình thông cảm với ngƣời khác trong cùng một ý thức bản

ngã đại thể. Cái mình đại thể đó chính là Thƣợng đế, là ông thần xuất hiện giữa hai

bên, làm cho hai bên thông cảm nhau. Đó là cái tinh thần đã có ý thức về mình, cái

tinh thần của xã hội thực tế. Biện chứng pháp của tinh thần thực tế trong xã hội đƣa

đến tôn giáo, tức là ý thức bản ngã của tinh thần. Những ông thần đƣợc thờ trong các

tôn giáo là tƣợng trƣng cho tinh thần của dân tộc, vì chỉ có ông thần mới thống nhất

đƣợc mọi cá nhân trong xã hội. Mỗi bộ tộc công nhận những ông thần riêng đã có

công xây dựng nên xã hội ấy. Điểm đó Hegel nhận xét đúng.

Vấn đề tôn giáo

Nhƣng các ông thần ấy tƣợng trƣng cho giai cấp nào trong xã hội? Hẳn không phải là

tƣợng trƣng cho nhân dân. Chính những ông thần ấy là tƣợng trƣng cụ thể cho giai

cấp thống trị, cho chính quyền thống trị. Trong chế độ quân chủ thì nó tƣợng trƣng

ông vua độc đoán. Ở đây Hêgen vẫn đứng trên lập trƣờng của tƣ tƣởng mà ông ta phê

phán. Hêgen nhận xét rằng tôn giáo ấy có chân lý vì nó tƣợng trƣng cho tinh thần của

xã hội, nhƣng Hêgen không thấy rằng tôn giáo biện chính cho chế độ thống trị, bóc

lột, và đặt tất cả những giá trị, thành tích của xã hội là do ông thần xây dựng nên, tức

là do giai cấp thống trị tạo ra. Thực tế giai cấp thống trị đã chiếm đoạt những thành

tích, những giá trị của nhân dân.

Ở đây, Hêgen bắt buộc phải bỏ cả công trình phê phán từ trƣớc (phê phán tôn giáo,

bộc lộ tính chất tha hóa của nó khi nó chuyển từ đời sống thực tế lên[13] trời, trong

giai đoạn tâm hồn gian khổ) là vì Hêgen đã rút lui trƣớc thực tế khách quan của cách

mạng tƣ sản, trƣớc chính sách khủng bố của Robespierre. Hêgen đã xóa bỏ hết cả

những thành tích phê phán trƣớc, và biện chính cho một ý thức bản ngã siêu nhiên

của tinh thần tức là tôn giáo.

23

CHƢƠNG III

ẢNH HƢỞNG TRIẾT HỌC HÊGEN ĐẾN CUỘC SỐNG THỜI ĐẠI

Marx lấy lại của Hegel phƣơng pháp biện chứng, cải biến nó từ một phƣơng pháp

biện chứng duy tâm thành phƣơng pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật. Sở dĩ

Marx thực hiện đƣợc một cuộc biến chất nhƣ vậy chính là vì trong biện chứng pháp

của Hêgen đã có một cơ sở chân lý nào đó, đấy là cái hạt nhân duy lý, tức là cái

phƣơng pháp nêu mâu thuẫn trong mọi khái niệm và suy diễn cuộc biến chuyển theo

quá trình phát triển mâu thuẫn. Hêgen đã vận dụng phƣơng pháp nêu mâu thuẫn đó

một cách lộn ngƣợc, chân cho lên trên, đầu để xuống dƣới; lẽ ra phải thấy rằng do

mâu thuẫn nội tại mà vật chất luôn luôn biến chuyển, và đến một trình độ nào đó mới

phát sinh ra tinh thần, thì Hêgen lại cho rằng nguồn gốc mâu thuẫn là hoạt động của

tinh thần.

Cái hạt nhân duy lý nói trên ở đâu mà ra? Tại sao chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của

Hêgen lại nắm đƣợc cơ sở chân lý đó? Muốn hiểu đƣợc điểm này thì cần phải xét đến

nguồn gốc lịch sử của chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hêgen.

Ảnh hưởngcủa triết học Hêghen đối với sự ra đời của triết họcMác

Triết học của Hêghen đã ảnh hƣởng rất quan trọng về mặt lý luận đến sự hình thành

thế giới quan duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen. Hai ông đã tiếp thu có phê

phán triết học của Hêghen. Công lao của Hêghen theo Mác và Ăngghen là ở chỗ phê

phán phƣơng pháp siêu hình, diễn đạt một cách hệ thống rõ ràng những quy luật và

phạm trù của phép biện chứng. Mác và Ăngghen đã vận dụng những tƣ tƣởng cách

mạng trong phép biện chứng của Hêghen để luận giải cho những khát vọng dân chủ

cách mạng của mình. Đồng thời, Mác và Ăngghen cũng đã phê phán chủ nghĩa duy

tâm của Hêghen biểu hiện trong học thuyết về “Ý niệm tuyệt đối”,

Trên cơ sở phê phán chủ nghĩa duy tâm, giải phóng phép biện chứng của Hêghen

khỏi tính thần bí, Mác và Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật và đây

chính là hình thức cao nhất của phép biện chứng.

Khi phê phán triết học pháp quyền của Hêgen, Mác chỉ ra rằng, việc đƣa cái chung

lên thành mục đích đƣợc suy diễn từ ngay định nghĩa trừu tƣợng về nhà nƣớc. Với

cách tiếp cận nhƣ vậy thì chính phủ đƣợc xem xét với tƣ cách một bộ phận thống trị

24

của cơ quan chính thể là nhà nƣớc. Theo Mác, trong trƣờng hợp này, Hêgen mới chỉ

nhìn thấy một cách trực quan trạng thái của tầng lớp công chức phù hợp với trật tự

pháp quyền chính trị của chế độ quân chủ. Các phạm trù cái toàn thể và cái bộ phận ở

Hêgen còn đƣợc truyền bá sang lĩnh vực nhận thức luận và đƣợc xem xét trong học

thuyết về bản chất. Công lao của Hêgen là ở chỗ, ông đã xem xét chân lý với tính

cách là một cái toàn thể, một hệ thống phát triển mà các bộ phận của nó nằm trong

mối liên hệ phối hợp và phụ thuộc lẫn nhau. Hơn nữa, chân lý là một quá trình và chỉ

có thể tồn tại khi đƣợc biểu hiện ở hình thức khoa học. Ông viết: "Bất kỳ sự nghiên

cứu khoa học nào cũng đều mang tính hệ thống, bồi vi hình thức chân lý chỉ có thể là

hệ thống các chân lý khoa học.

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêgen đã tiến hành xác định vị trí của các phạm

trù cái toàn thể và cái bộ phận trong hệ thống các phạm trù lôgíc chung nhất. Ông

xem xét cái toàn thể và cái bộ phận trong tam đoạn thức: bản chất - hiện tƣợng hiện

thực, trong đó cái toàn thể và cái bộ phận cùng với các khái niệm lực và sự biểu hiện,

cái bên trong và cái bên ngoài đặc trƣng cho các mức độ khác nhau của tồn tại. Theo

Hêgen, mối quan hệ cơ bản là sự thống nhất của hai nhân tố đối lập nhau: tính độc

lập trực tiếp và gián tiếp của tồn tại ở đây cái toàn thể biểu hiện tính độc lập gián

tiếp, còn cái bộ phận biểu hiện tính độc lập trực tiếp của tồn tại. Cái toàn thể và cái

bộ phận đều đặc trƣng cho quá trình biểu hiện bản chất. Sự khác biệt và mâu thuẫn

của chúng qui định tính bền vững và sự phát triển của bản chất.

Điều đó cho ta thấy, trong học thuyết về bản chất, Hêgen đã xem xét tính quy định

lẫn nhau giữa cái toàn thể và cái bộ phận. Mối quan hệ giữa chúng gắn liền với các

khái niệm lực và sự biểu hiện của nó. Hêgen cho rằng: "Danh từ thế giới thƣờng chỉ

chỉnh thể vô định hình của cái nhiều vẻ" và "quan hệ giữa toàn thể và bộ phận; quan

hệ ấy chuyển thành quan hệ sau đây quan hệ của lực đối với biểu hiện của lực; - quan

hệ của bên trong và bên ngoài - chuyển hoá sang thực chể, hiện thực... Lực là sự

thống nhất phủ định, trong đó mâu thuẫn giữa toàn thể với các bộ phận đƣợc giải

quyết, là chân lý của quan hệ đầu tiên ấy.

25

KẾT LUẬN

Triết học của Hêgen là hệ thống phong phú nhất trong lịch sử triết học trƣớc Marx.

Hêgen đã tổng kết hầu nhƣ toàn bộ tƣ tƣởng cũ ở Tây phƣơng, trình bày mọi chủ

nghĩa với ý nghĩa lịch sử của nó, bộc lộ những mâu thuẫn nội bộ xuất hiện trong tƣ

tƣởng ở mỗi giai đoạn, những mâu thuẫn ấy bắt phải thủ tiêu hình thái cũ và tiến lên

một trình độ cao hơn. Tuy nhiên, Hêgen lại diễn tả quá trình đó một cách trừu tƣợng

trong phạm vi tinh thần, và do đấy xây dựng chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Quá trình

diễn biến tƣ tƣởng trong tinh thần đƣợc coi nhƣ là một vận động hoàn toàn độc lập và

tự túc, tách rời cơ sở thực tế khách quan, thậm chí lại phủ định thực tế khách quan.

Theo quan niệm ấy, những sự vật trong tự nhiên và xã hội mất tính chất thực tại vật

chất của nó, và chỉ còn là những hiện tƣợng bề ngoài phản ánh công cuộc phát triển

thần bí của cái mà Hêgen gọi là «Ý niệm tuyệt đối». Trong cuốn Chống Dühring,

Engels viết: « Hêgen là duy tâm, nghĩa là theo ông thì những ý kiến trong đầu óc của

ông không phải là phản ánh một phần nào những thực thể và hiện tƣợng khách quan,

mà trái lại, chính những thực thể và biến chuyển của chúng, theo ý ông, chỉ là hình

ảnh thể hiện ý niệm, cái ý niệm này đã có ở đâu đâu ấy, trƣớc khi có trần gian».

Nghĩa là quá trình lịch sử có thật, đi từ tự nhiên lên xã hội, xây dựng tƣ tƣởng trên cơ

sở hoạt động thực tế, bị Hêgen đảo lộn thành một quá trình tƣ tƣởng phát sinh thực

tại, tinh thần sáng tạo vật chất: nguyên nhân biến thành kết quả, kết quả trở thành

nguyên nhân, thực chất biến thành ngoại diện, ngoại diện trở thành thực chất.

26

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Lịch sữ Triết học . NXB TỔNG HỢP TPHCM – TS. BÙI VĂN MƢA .

TS NGUYỄN NGỌC THU.

2- Kinh tế chính trị Mác – Lênin- Trƣờng Đại học Kinh Tế TPHCM

3- Lu- vích Fuerbach và Cáo Chung của Triết Học Cổ Điển Đức. NXB Sự

thật - 1976

4- Trang Web “ Triết học phƣơng tây”.com

5- Trang Web “ Cao học triết ”.com

27