Tình hình văn học chữ Hán nửa sau thế kỉ XIX
lượt xem 5
download
Trở lên trên là tình hình thơ văn chữ Hán đứng về số đông mà nói. Nhưng thời kì nửa sau của thế kỉ XIX, chính là thời kì đã xẩy ra nhân tố chính trị quan trọng vào bậc nhất, lung lay tận gốc rễ cơ cấu của toàn xã hội phong kiến Việt Nam: đó là nhân tố đế quốc Pháp dần dần xâm chiếm Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tình hình văn học chữ Hán nửa sau thế kỉ XIX
- Tình hình văn học chữ Hán nửa sau thế kỉ XIX
- Trở lên trên là tình hình thơ văn chữ Hán đứng về số đông mà nói. Nhưng thời kì nửa sau của thế kỉ XIX, chính là thời kì đã xẩy ra nhân tố chính trị quan trọng vào bậc nhất, lung lay tận gốc rễ cơ cấu của toàn xã hội phong kiến Việt Nam: đó là nhân tố đế quốc Pháp dần dần xâm chiếm Việt Nam. Các nhà thơ chữ Hán thời kì này, dù muốn hay không, buộc lòng cũng phải chọn lấy một chỗ đứng nhất định, là chủ trương đầu hàng hay tán thành kháng chiến. Và chúng ta thấy ngọn lửa của phong trào nhân dân quật cường chống ngoại xâm đã hun đúc tim gan của một số nhà thơ phong kiến yêu nước. Cuộc kháng chiến gian khổ và anh dũng của toàn dân đã thổi một luồng tráng khí vào văn học nói chung, trong đó có văn học chữ Hán nói riêng. Thể văn nghị luận chính trị trong sáng và chặt chẽ, mang nhiều tư tưởng duy tân, ra đời với những cây bút mới đã từng tiếp xúc với tư tưởng khoa học phương Tây, như bài biểu của Nguyễn Đức Hậu, những điều trần của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) hay Thời vụ sách của Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895), v.v... N gay cả trong những bài sớ can gián vua, hoặc tr ình bày s ự cần thiết phải sửa đổi đường lối chính trị trong nước, c ủa Thân Văn Nhiếp (1803 -1871), Phạm Văn N ghị (1805-1880), Trần Bích San (1840-1877), Nguyễn Xuân Ôn (1825 -1889), v.v... c ũng bừng bừng tinh thần yêu nước, căm thù giặc. Trong một bài sớ gửi Tự Đức năm 1866, Thân Văn Nhiếp viết: “Ở chốn tôn nghiêm trong cung điện, nhà vua nên nghĩ tới nhà cửa của dân Nam Kỳ hiện đang bị giặc đốt sạch; ngắm vẻ nguy nga lộng lẫy của lăng Vạn niên cơ, nên nghĩ tới mộ địa của dân Nam Kỳ bị giặc san bằng; nếm những thức ngon vật lạ trong nội đình, nên nhớ rằng sản vật Nam Kỳ ngày nay không còn gì nữa; nhìn thấy hạng người cùng khổ ở kinh kỳ, nên tưởng tới nhân dân miền Nam không biết nhờ cậy vào ai...”, v.v... Lại trong bài sớ gửi năm 1868 sau khi đã mất hết toàn cõi Nam Kỳ, cũng chính Thân Văn Nhiếp trực tiếp vạch tội Tự Đức càng gay gắt hơn nữa: “Đất nước bị chiếm đóng, giặc Thanh tung hoành khắp nơi. Nào lụt, nào hạn, nào gió, nào bão, đâu đâu cũng báo hiệu tai ương; của hết, sức kiệt, dân không còn biết trông cậy vào đâu để sinh sống. Kinh kỳ dao động, biến loạn nổi lên, tình thế nguy cấp thật quá sức tưởng tượng. Thế mà gần đây công việc kiến trúc, hoang xa vô độ vẫn tiếp tục tiến hành. Vạn niên cơ so với
- lăng Thiên thọ lớn gấp mười lần. Sắt, ngói phải gửi mua từ Hạ Châu, giày hia phải gửi mua từ Trung Quốc. Gấm, vóc, trà, rượu năm nào cũng phải đi mua; đàn, địch, tranh, ảnh năm nào cũng phải thanh toán... Lầu trong nội vừa làm xong, lầu ngoài sông lại bắt đầu xây dựng. Đương lúc trời hạn mất mùa, đói kém và cũng không hề dè dặt chút nào... Chúng tôi chỉ sợ một khi lòng người tan rã, thì dù có lầu cao, gác rộng cũng không ngồi yên mà hưởng thụ được. Bệ hạ có nước mà không biết yêu nước. Chúng tôi chưa từng dám tiếc cái chết, nên đã nhiều lần tâu lên mà không thấy bệ hạ sửa chữa cho...”, v.v... Được phong trào đấu tranh quyết liệt của nhân dân tiếp sức, văn học chữ Hán có những khí sắc mới. Từ chỗ là món giải trí cho từng nhóm nhỏ người, những lúc họ gọi là “trà dư tửu hậu”, văn học dần dần trở thành công cụ tuyên truyền cổ vũ mọi người tham gia chống giặc cứu nước. Một chủ nghĩa nhân đạo mới được nhóm lên, bao gồm một tinh thần yêu nước thắm thiết và một mối căm thù giặc sâu sắc. Văn học chữ Hán dần dần trở nên thiết thực và hiện thực. Có những sĩ phu yêu nước chân chính thời kì này vừa làm thơ, làm văn, vừa trực tiếp cầm gươm, lãnh đạo nhân dân chống giặc. Đó là Phan Văn Đạt, Đỗ Trình Thoại, Nguyễn Hữu Huân, Hồ Huân Nghiệp, Trần Thiện Chánh, Phạm Văn Nghị, Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích, v.v... Có người không có cơ hội hoặc điều kiện tham gia đấu tranh trực tiếp, đã dùng ngòi bút của mình để ca ngợi cuộc kháng chiến, đề cao nghĩa cử anh hùng của các lãnh tụ nghĩa quân, và qua đó mà khích lệ, cổ vũ nhân dân tích cực chống giặc. Nếu không như thế nữa thì cũng dùng một bút pháp đã có ít nhiều nhân tố hiện thực để tố cáo sự thối nát của xã hội, sự ngột ngạt của chế độ, hoặc sự ươn hèn nhút nhát của bọn thống trị. Đó là Phạm Văn Nghị (1805-1880) với Nghĩa Trai thi văn tập, Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) với Phương Đình thi văn loại, Nguyễn Thông (1827-1894) với Ngọa du sào thi văn tập, Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) với những bài thơ chữ Hán của ông, Miên Thẩm (1819-1870) với Thương Sơn thi tập, Trần Bích San (1840-1877) với Mai Nham thi thảo, Hoàng Văn Hòe (1848-1885) với Hạc nhân tùng ngôn, v.v... Có một điều cần nói thêm là hệ thống ý thức chi phối phần lớn thơ văn của cả những người trên này, vẫn là hệ thống ý thức phong kiến. Đọc từ tác phẩm này đến
- tác phẩm khác, ta cứ bắt gặp tư tưởng tôn quân lảng vảng đi về như một thứ “con ranh con lộn” chưa có thầy phù thủy cao tay ấn nào xua đuổi. Không kể hồi sau kinh thành thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn (1805) phong trào Cần vương nổi dậy khắp nước, mà vì danh nghĩa của nó (Cần vương: tất cả vì vua), thơ văn chữ Hán mười lăm năm cuối thế kỉ đều nhuốm mùi tôn quân, cái đó đã đành. Nhưng nhìn chung, kể từ buổi đầu, tư tưởng tôn quân không phải không có sức nặng bên cạnh tư tưởng yêu nước chân chính. Danh từ đầu miệng của tất thảy các nhà thơ này là “trung quân”, là “quân ưu thần nhục” (vua mà đến phải lo, thì bầy tôi nên lấy việc đó làm nhục), v.v... Đọc ngay Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ gần nhân dân hơn ai hết, chúng ta cũng thấy điều này rất rõ. Kể ra đây cũng là một hiện tượng tất yếu. Trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, người sĩ phu phong kiến - mà cho đến cả người dân bị áp bức bóc lột cũng thế thôi - họ không còn trông cậy và tin tưởng ở ai khác ngoài vua. Nước với vua, trung quân với ái quốc lúc bấy giờ là hai khái niệm gắn liền làm một. Mặt khác nữa, không thể n ào tìm thấy lại ở đây ý chí quật c ường, tinh thần tự hào dân tộc, như đã từng thấy trong các b ài thơ Lý Thường Kiệt, Trần Quang Khải, P hạm Ngũ Lão, trong H ịch tướng sĩ văn c ủa Trần Quốc Tuấn, trong Phú Bạch Đằng giang c ủa Tr ương Hán Siêu, đặc biệt trong Bình Ngô đ ại cáo và Phú núi Chí Linh c ủa Nguyễn Trãi. Đ ến cả cái hơi nóng c ủa thơ ca dân gian yêu nước đ ương t hời, tiếng dội của một H ịch đánh Pháp, một Hịch L ãnh C ồ c hẳng hạn, cái khí t hế c ủa con người đang tạm thời bị thua trận nhưng vẫn nắm chắc phần thắng lợi cuối c ùng, cái hào hùng c ủa những tâm hồn dũng cảm, cái lạc quan tin t ưởng của những bản lĩnh kiên cường, đều không thể có đ ược trong những thơ văn này. Thơ văn chữ Hán của thời kì cuối thế kỷ này cũng chỉ là những thơ văn cuối mùa! Trong lúc nó ca ngợi những chiến công oanh liệt của bao anh h ùng nghĩa sĩ, hoặc kêu gọi nhân dân chiến đấu chống xâm lăng một cách chân thành nhất, chúng ta vẫn thấy trong đó có cái gì u buồn, bạc nhược héo hon, có cái gì như những tiếng thở dài được ngăn chặn lại một cách vụng về!
- Kể cũng dễ hiểu. Tất cả những nhà thơ nhà văn này đều thuộc giai cấp phong kiến. Giai cấp đó, đến lúc này đã tàn lụn quá mất rồi. Nó đang ốm liệt, và rồi đây nếu có trỗi dậy một lần cuối cùng, cũng là nhờ có đế quốc xâm lược đỡ lấy đằng lưng, và nếu có cử động được tí nào lại là do bọn cướp giật giây. Những nhà thơ, nhà văn phong kiến tiến bộ thời kì này, là tiến bộ trong cái chừng mực họ tiếp thụ ảnh h ưởng tốt đẹp của cuộc đấu tranh của nhân dân. V à chúng ta yêu quí thơ văn họ cũng là yêu quí ở cái phần ảnh hưởng ấy. N hìn lại phần thơ văn này không phải không thấy những tác dụng tích cực của nó. Tính chất chủ yếu của văn học chữ Hán thời k ì này mà đ ồng thời cũng là tính c hất c hủ yếu của văn học Việt Nam thời k ì này nói chung - là tính chất trữ t ình. Trước cảnh nhà tan nước mất, bao nhiêu tình cảm chân thực, thiêng liêng b ị kích động: t ình thương cha nhớ mẹ, t ình yêu vợ tiếc con, t ình anh em bè bạn, xóm làng, và trên tất cả, ba o trùm tất cả, t ình yêu nước thương nòi, và căm thù giặc c ướp nước! Máu đổ xương rơi, chia lìa tang tóc, hỏi trong số những người lương thiện đã sống thời k ì đ en t ối này, mấy ai là không nếm ít nhiều mùi t ổn thất, đau thương? Văn học chữ Hán đã đảm nhiệm một phần trong việc phản ánh thực tế ấy. Thơ văn c ủa Nguyễn Xuân Ôn (1825-1889) trong Ngọc Đư ờng thi văn tập, c ủa Nguyễn Q uang Bích (1832 -1889) trong Ngư Phong thi tập, hoặc các bài thơ và câu đ ối tuyệt mệnh của khá nhiều lãnh t ụ nghĩa quân như Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Hữu Huân, P han Đ ình Phùng, Nguyễn Duy Hiệu, Tống Duy Tân, v.v... là những thơ văn sáng ngời tiết tháo Đông phương, nói lên tinh thần bất khuất của dân tộc ta. Bên cạnh yếu tố trữ t ình, văn học chữ Hán thời k ì này còn có hai khía c ạnh mới mẻ và cũng rất có giá trị, ấy là yếu tố hiện thực và châm biếm, trào phúng. Về mặt này, chúng ta thấy có những thơ của Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) trong Tĩnh Trai thi sao, Nguyễn Văn Siêu trong Phương Đình thi loại, Hoàng Văn Hòe trong Hạc nhân trung ngôn, và Miên Thẩm trongThương Sơn thi tập. Yếu tố hiện thực phê phán trong thơ Miên Thẩm, với những bài như Hô gia hử (Dô ta hò), Mại trúc(Bán tre), Phù lưu tiền (Tiền cau trầu), Bổ hổ (Bắt cọp), Sát hổ (Diệt cọp), Cùng cư (Cảnh nghèo đói), Lưu dân than (Lời than của những người đi lưu vong), Kim hộ thán (Lời
- than của những người đi mò vàng), v.v... đã lên đến mức độ của những lời tố cáo đanh thép. Phần thơ văn chữ Hán tiến bộ nửa sau thế kỉ XIX sẽ đ ược kế tục và phát huy vào những năm đầu thế kỉ sau với các phong trào Duy tân, Đông du, Đông kinh ngh ĩa thục, v.v... Về mặt hình thức nghệ thuật, thì vì nó sử dụng một thứ chữ ngày nay không còn được phổ cập trong nhân dân ta nữa, nên chúng ta bất tất phải phân tích ở đây. Nhưng về mặt nội dung mà nói thì nó vẫn có những giá tr ị lớn. Đó là những bài học về tinh thần dân tộc chống đế quốc xâm lược, chống thỏa hiệp đầu hàng, chống bè lũ bán nước hại dân. Đó là những bản cáo trạng vạch trần c ơ cấu thối nát của xã hội phong kiến cuối mùa, chế độ ngột ngạt của nhà Nguyễn. Tác dụng của nó ngày nay vẫn còn nguyên vẹn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Quyển 3 Câu đố - Tinh hoa văn học dân gian người Việt
180 p | 332 | 152
-
Giáo án sinh hoạt chủ nhiệm tuần 10 - Hóa học 10 - GV.P.T.Sâm
5 p | 850 | 147
-
Ôn tập văn học 10 part 1
31 p | 672 | 132
-
Giáo án sinh hoạt chủ nhiệm tuần 11 - Hóa học 10 - GV.P.T.Sâm
5 p | 367 | 53
-
Giáo án sinh hoạt chủ nhiệm tuần 9 - Hóa học 10 - GV.P.T.Sâm
5 p | 320 | 50
-
Bài giảng Tức nước vỡ bờ - Ngữ văn 8
29 p | 1017 | 35
-
Giáo án sinh hoạt chủ nhiệm tuần 7 - Hóa học 10 - GV.P.T.Sâm
5 p | 172 | 22
-
Giáo án bài 9: Cách lập ý của bài văn biểu cảm - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
6 p | 214 | 11
-
Giáo án bài 9: Từ đồng Nghĩa - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
6 p | 185 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Sử dụng phiếu học tập kết hợp với một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực nhằm làm tăng hứng thú và nâng cao chất lượng dạy học bài Đọc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du cho học sinh lớp 10 tại trường THPT Yên Dũng số 3
72 p | 63 | 7
-
Tình hình văn học chữ Hán nửa sau thế kỉ XIX .
5 p | 80 | 6
-
Hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế qua bài Đây thôn Vĩ Dạ
4 p | 86 | 6
-
Cảm nhận về nhân vật bà Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội
4 p | 50 | 5
-
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu
3 p | 63 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Rèn kĩ năng giải toán có lời văn dạng tính chu vi và diện tích hình vuông, hình chữ nhật cho học sinh lớp 4A3 Trường Tiểu học Thị trấn Tam Đường.
30 p | 48 | 5
-
Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân trong đoạn trích "Đất Nước" của trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm
5 p | 153 | 4
-
Phân tích vẻ đẹp ngôn ngữ của đoạn thơ sau: "Tôi đâu biết…. Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn" ("Đò Lèn” - Nguyễn Duy)
2 p | 45 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn