
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y họ
c
174
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ THÓI QUEN ĂN UỐNG
CỦA HỌC SINH LỨA TUỔI 13-17
TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG PHỔ THÔNG NĂM 2017
Nguyễn Thị Hồng Diễm
*
, Trần Quỳnh Anh
**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lứa tuổi 13-17 là lứa tuổi vị thành viên với nhiều thay đổi trong phát triển thể chất và tinh
thần. Tình trạng dinh dưỡng tốt và thói quen ăn uống phù hợp giúp cho các em có nền tảng thể lực tốt cho quá
trình phát triển sau này.
Mục tiêu: Mô tả tình trạng dinh dưỡng và thói quen ăn uống của học sinh lứa tuổi 13-17 tại một số trường
phổ thông tại 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ năm 2017.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Địa điểm nghiên cứu: 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ
An, Kon Tum, Cần Thơ. Học sinh từ lớp 8-lớp 12 tại 24 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tổng số
có 6.407 học sinh đã tham gia vào nghiên cứu.
Kết quả: Tỷ lệ học sinh thừa cân béo phì là 11,1% (nam 15,6% và nữ 7,1%), tỷ lệ học sinh suy dinh dưỡng
là 9,5% (nam 12,5% và nữ 7,0%). Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn trái cây ≥1 lần/ngày là 79%. Tỷ lệ học
sinh ăn rau ≥1 lần/ngày là 88%. Tỷ lệ học sinh uống nước có ga ≥1 lần/ngày là 29%. Trong 7 ngày qua, tỷ lệ học
sinh ăn đồ ăn nhanh >1 lần trong tuần là 21%.
Kết luận: Mặc dù phần lớn học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường và thói quen ăn uống phù hợp,
còn một tỷ lệ đáng kể suy dinh dưỡng, thừa cân, béo phì, tiêu thụ nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh thường
xuyên. Các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng cần tiếp tục hướng đến nhóm đối tượng
này, nhất là học sinh nam
Từ khóa: học sinh tuổi 13-17, dinh dưỡng, thói quen ăn uống
ABSTRACT
NUTRITION STATUS AND EATING HABIT AMONG SCHOOL STUDENTS AGED 13-17 IN 2017
Nguyen Thi Hong Diem, Tran Quynh Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 174 - 179
Background: School students in the period of adolescent ages from 13-17 are facing with many changes in
mental health and physical health. Good nutrition status and eating habit are important factors for healthy
development in a later life.
Objectives: To describe nutrition status and eating habit among school students aged 13-17 in some schools
at four provinces of Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ in 2017.
Methods: Applying cross-sectional study design. Study sites: Hải Phòng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ.
School students grades 8-grades 12 at 24 secondary and high schools. In total 6.407 students have been
participated in the survey.
Results: The percentage of students with overweight and obese were 11.1% (male 15,6% and female 7.1%),
the percentage of students with underweight were 9.5% (male 12.5% and female 7.0%). The percentage of
*
Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế
*
*Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng-Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thị Hồng Diễm ĐT: 0905165239 Email: hongdiemmoh@gmail.com

Nghiên cứu Y họ
c
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
175
students eating fruits ≥1 time/day during past 30 days were 9%; eating vegetable were 88%. The percentage of
students consuming carbonated soft drinking ≥1 time/day during past 30 days were 29%. The percentage of
students consuming fast food ≥1 time/day during past 7 days were 21%.
Conclusion: Although majority of participants have good nutrition status and eating habit, there have been
significant number of students with bad nutrition status and eating habit including underweight, overweight,
obese, consuming carbonated soft drink and fast foods regularly. Nutrition communication program need to be
continued for this target population, especially male students.
Keywords: school students aged 13-17, nutrition status, eating habits
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu trên thế giới đều nhấn mạnh
đến sự cần thiết phải quan tâm đến sức khỏe lứa
tuổi vị thành niên. Đây là lứa tuổi phát triển
mạnh mẽ về thể chất và thường được coi là lứa
tuổi khỏe mạnh, nhưng ở tuổi này việc hình
thành các hành vi sức khỏe xấu sẽ dẫn đến ảnh
hưởng đến sức khỏe sau này, đặc biệt là nguy cơ
mắc các bệnh không lây nhiễm. Tình trạng dinh
dưỡng và thói quen ăn uống ở lứa tuổi này là
một yếu tố quan trọng đối với sức khỏe thể chất
của lứa tuổi này. Ở Việt Nam hiện nay, gánh
nặng kép của dinh dưỡng cộng đồng là vừa phải
giải quyết với tình trạng suy dinh dưỡng, vừa
phải kiểm soát tình trạng thừa cân, béo phì đang
có xu hướng gia tăng
(1)
.
Nghiên cứu của Heba A (2011)
(2)
trên 1400
học sinh từ 11-17 tuổi ở Seychelles cho biết có
khoảng 24% học sinh thừa cân không nhận thức
được mình bị thừa cân và 29% học sinh cân nặng
bình thường lại cho là mình bị gầy. Nhận thức
về cân nặng của học sinh có liên quan chặt chẽ
đến hành vi kiểm soát ăn uống. Một nghiên cứu
hệ thống hơn 2.000 bài báo trên toàn cầu nhằm
tìm hiểu tỷ lệ vị thành niên tham gia hoạt động
thể chất không đầy đủ (<60 phút/ngày theo Tổ
chức Y tế Thế giới) cho thấy tỷ lệ này là 79,7%, tỷ
lệ cao hơn ở nữ, và ở các nước đang phát triển tỷ
lệ vị thành niên tham gia hoạt động thể chất
không đầy đủ cao hơn ở các nước phát triển.
Tại Việt Nam, lứa tuổi học sinh từ 13-17 tuổi,
thường được gọi là tuổi dậy thì, là lứa tuổi có
những thay đổi lớn về thể chất và tinh thần. Các
hành vi sức khỏe ở lứa tuổi này liên quan chặt
chẽ đến tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần
của học sinh cả trong hiện tại và khi bước sang
tuổi trưởng thành, gồm có các hành vi như thói
quen ăn uống, thói quen vệ sinh, sử dụng đồ
uống có cồn hay chất gây nghiện, bạo lực và bắt
nạt học đường, hành vi tình dục. Vì thế, các
chương trình can thiệp giáo dục truyền thông
cần tập trung vào các hành vi sức khỏe của học
sinh
(3)
.
Theo kết quả sức khỏe học sinh trong độ tuổi
từ 13 đến 17 tuổi năm 2013 tại Việt Nam cho
thấy, tỉ lệ học sinh suy dinh dưỡng thể gầy còm
là 16,4%, thừa cân là 6,4%, béo phì là 1,2%; tỉ lệ
học sinh thường xuyên uống nước uống có ga từ
một đến hơn một lần một ngày là 31,1%. Năm
2016, một nghiên cứu trên 12.000 học sinh từ 11 -
14 tuổi tại 38 trường trung học cơ sở trên địa bàn
thành phố Hà Nội cho biết có 15,26% học sinh
thừa cân và 5,46% học sinh mắc béo phì
(4)
.
Năm 2017 Cục Y tế Dự phòng tiến hành một
khảo sát về hành vi sức khỏe của học sinh tại 4
tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ
nhằm cung cấp những bằng chứng cập nhật về
thực trạng hành vi sức khỏe của học sinh, giúp
cho việc đưa ra các chính sách ưu tiên trong
chăm sóc sức khỏe học sinh. Trong khuôn khổ
khảo sát này, tình trạng dinh dưỡng và thói
quen ăn uống của lứa tuổi 13-17 là một nội dung
quan trọng.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả tình trạng dinh dưỡng của học sinh
lứa tuổi 13-17 tại một số trường phổ thông tại 4
tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ
năm 2017.
Mô tả thói quen ăn uống của học sinh lứa
tuổi 13-17 tại một số trường phổ thông tại 4

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y họ
c
176
tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ
năm 2017.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh tại các trường học được lựa chọn
vào nghiên cứu. Lựa chọn chủ đích 4 tỉnh
tham gia vào nghiên cứu là Hải Phòng, Nghệ
An, Kon Tum, Cần Thơ. Đây là 4 tỉnh nằm ở
các vùng sinh thái khác nhau của đất nước và
có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tại mỗi
tỉnh, lựa chọn có chủ đích 01 quận và 02 huyện
để có được số liệu của khu vực thành thị và
nông thôn trong tỉnh.
Tiêu chí chọn quận, huyện
Là quận, huyện có điều kiện kinh tế xã hội
trung bình trong tỉnh, không chọn quận,
huyện giàu hay quận, huyện nghèo của tỉnh.
Tại mỗi quận, huyện sẽ lựa chọn 02 trường, 01
trường trung học cơ sở và 01 trường trung học
phổ thông.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu ước tính cho 1 tỉnh. Sử dụng công
thức tính cỡ mẫu ước lượng cho một tỷ lệ trong
quần thể.
Cỡ mẫu n tính được = 1.050. Số học sinh điều
tra tại mỗi tỉnh là 1.050 x 1.5 (hệ số chọn mẫu) =
1.600 học sinh. Học sinh điều tra cho 4 tỉnh là
1.600 x 4 = 6.400 học sinh. Thực tế đã điều tra
trên 6.407 học sinh.
Chọn mẫu
Tại mỗi tỉnh chọn chủ đích 6 trường: 2
trường khu vực thành thị và 4 trường khu vực
nông thôn. Trong 2 trường ở mỗi khu vực có 1
trường trung học cơ sở (THCS) và 1 trường
trung học phổ thông (THPT). Tại mỗi trường
THCS, chọn học sinh khối 8 và khối 9, mỗi khối
chọn 3 lớp. Tại mỗi trường THPT, chọn học sinh
cả ba khối 10, 11 và 12, mỗi khối chọn 2 lớp triển
khai toàn bộ học sinh trong lớp tham gia vào
nghiên cứu.
Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin
Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật phỏng vấn
gián tiếp với bộ câu hỏi tự điền khuyết danh,
chiều cao và cân nặng của học sinh được đo
bằng thước đo chiều cao gắn tường và cân
điện tử.
Bộ câu hỏi của Điều tra sức khỏe học sinh
toàn cầu (Global School-related Health Student
Survey) tại Việt Nam được sử dụng cho nghiên
cứu này. Bộ câu hỏi Điều tra sức khỏe học sinh
toàn cầu gồm 80 câu hỏi, trong đó có 05 câu hỏi
về vấn đề ăn uống: tần suất ăn các thực phẩm
như hoa quả, rau, uống nước ngọt có ga, ăn đồ
ăn nhanh.
Số liệu được thu thập tại lớp học. Học sinh
của lớp được chọn được đề nghị ở lại lớp sau giờ
học để điền phiếu. Học sinh được giải thích rõ về
mục đích của nghiên cứu. Học sinh tham gia
nghiên cứu tự nguyện. Nghiên cứu viên có mặt
tại lớp học để giải thích những thắc mắc của học
sinh trong khi điền phiếu.
Biến số nghiên cứu
Tình trạng dinh dưỡng: tỷ lệ thừa cân, béo
phì, suy dinh dưỡng được đánh giá thông qua
chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi dành cho trẻ 5
- 19 tuổi. Chuẩn dùng để so sánh các chỉ số hiện
nay đang dùng là chuẩn tăng trưởng của Tổ
chức Y tế thế giới năm 2007.
Thói quen ăn uống: Tỷ lệ học sinh có ăn
rau/hoa quả và số lần ăn rau/hoa quả trung
bình/ngày trong 30 ngày qua. Tỷ lệ học sinh
uống nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh và số
lần ăn/uống trung bình trong 30 ngày qua.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập và phân tích
bằng phần mềm EPI DATA và STATA.
Các số liệu được trình bày dưới dạng số
lượng, tỷ lệ phần trăm.
Test thống kê Chi- bình phương được sử
dụng trong phân tích đơn biến.

Nghiên cứu Y họ
c
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
177
KẾT QUẢ
Tổng số đối tượng nghiên cứu là 6.407 học
sinh, trong đó nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam
(53,9% và 46,06%). Tỷ lệ nữ cao hơn ở cả cả hai
nhóm tuổi: từ 13-15 và từ 16-17 (Bảng 1).
Khoảng 80% học sinh có tình trạng dinh
dưỡng bình thường. Tỷ lệ học sinh thừa cân béo
phì là 11,1%, suy dinh dưỡng là 9,5% (Hình 1).
Tỉ lệ học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình
thường ở nữ cao hơn nam (86% và 72%), khác
biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 2).
Tỉ lệ học sinh nam thừa cân và béo phì là
15,6%, trong đó thừa cân là 11,0% và béo phì là
4,6%. Tỷ lệ này cao hơn nhóm nữ, tỷ lệ thừa cân,
béo phì học sinh nữ là 7,1%, trong đó thừa cân là
5,9% và béo phì là 1,2%, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p <0,05).
Hình 1: Tình trạng dinh dưỡng của học sinh
Bảng 1: Thông tin về đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi
Giới
Tuổi 13-15 Tuổi từ 16 đến 17 Tổng
N % n % N %
Nam 1.594 48,79 1.357 43,22 2.951 46,06
Nữ 1.673 51,21 1.783 56,78 3.456 53,94
Tổng 3.267 100 3.140 100 6.407 100
Bảng 2: Tình trạng dinh dưỡng của học sinh theo giới
Giới
Dinh dưỡng
Nam Nữ Tổng p
n % n % n %
SDD gầy còm nặng 85 2,9 37 1,1 122 1,9 0,000
SDD gầy còm 284 9,6 205 5,9 489 7,6 0,000
Bình thường 2.119 71,9 2.970 85,9 5.089 79,4 0,000
Thừa cân 326 11,0 204 5,9 530 8,3 0,000
Béo phì 137 4,6 40 1,2 177 2,8 0,000
Tổng 2.951 100 3.456 100 6.407 100
Bảng 3: Thói quen ăn uống của học sinh theo giới
Giới
Ăn uống
Nam Nữ Tổng P
N % N % N %
Ăn trái cây (trong 30 ngày) <1 lần/ngày 649 22,0 703 20,3 1.352 21,1 0,106
≥1 lần/ngày 2.302 78,0 2.753 79,7 5.055 78,9
Ăn rau (trong 30 ngày) <1 lần/ngày 366 12,4 396 11,5 762 11,9 0,245
≥1 lần/ngày 2.585 87,6 3.060 88,5 5.645 88,1
Uống nước có ga (trong 30 ngày)
<1 lần/ngày 1.973 66,9 2.607 75,4 4.580 71,5 0,000
≥1 lần/ngày 978 33,1 849 24,6 1.827 28,5
Ăn đồ ăn nhanh (trong 7 ngày) 0-1 lần 2.396 81,2 2.659 76,9 5.055 78.9 0,000
>1 lần/tuần 555 18,8 797 23,1 1.352 21,1
Tổng 2.951 100 3.456 100 6.407 100
Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn trái cây
≥1 lần/ngày là 79%. Tỷ lệ học sinh ăn rau ≥1
lần/ngày là 88%. Tỷ lệ học sinh uống nước có ga
≥1 lần/ngày là 29% (Bảng 3).
Trong 7 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn đồ ăn
nhanh >1 lần trong tuần là 21%.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa nam và nữ về thói quen ăn rau và trái
79.4%
9.5%
11.1% Bình
thường
Suy dinh
dưỡng
Thừa cân,
béo phì

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y họ
c
178
cây. Tỷ lệ học sinh nam uống nước ngọt có ga
≥1 lần/ngày cao hơn nữ; Tỷ lệ học sinh nữ ăn
đồ ăn nhanh hơn 1 lần/tuần cao hơn nam, khác
biệt có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Đây là một điều tra khảo sát hành vi sức
khỏe học sinh lứa tuổi vị thành niên quy mô lớn
triển khai tại 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kon
Tum, Cần Thơ. Đây là 4 tỉnh nằm ở các vùng
sinh thái khác nhau của đất nước và có điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau. Tổng cộng đã có 12
trường trung học cơ sở và 12 trường trung học
phổ thông được chọn vào tham gia nghiên cứu
với số lượng học sinh tham gia trả lời phiếu lên
đến hơn 6000 em. Năm 2012 Cục Y tế Dự phòng
đã phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới triển khai
một điều tra sử dụng Bộ câu hỏi của Điều tra sức
khỏe học sinh toàn cầu (Global School-related
Health Student Survey). Do đó bộ câu hỏi này đã
được chuẩn hóa tiếng Việt và tỷ lệ của cuộc khảo
sát này có thể so sánh với điều tra năm 2012
(5,6)
.
Trong tổng số 6.407 học sinh của 24 trường
từ 4 tỉnh tham gia vào nghiên cứu, học sinh nữ
chiếm tỷ lệ cao hơn nam (53,9% và 46,06%). Tỷ
lệ nữ cao hơn ở cả hai nhóm tuổi: từ 13-15 và
từ 16-17.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 4/5 số học sinh
(80%) có tình trạng dinh dưỡng bình thường.
Trong số 20% học sinh có tình trạng dinh dưỡng
bất thường, tỷ lệ học sinh thừa cân béo phì là
11,1%, suy dinh dưỡng là 9,5%. Tỷ lệ này phản
ánh đúng tình trạng “gánh nặng kép” trong cuộc
chiến chống lại tình trạng suy dinh dưỡng và
thừa cân, béo phì ở nước ta hiện nay. Tỉ lệ thừa
cân và béo phì theo khảo sát của chúng tôi cao
hơn so với thời điểm điều tra năm 2012, tỉ lệ
thừa cân và béo phì năm 2012 là 5,6%. Như vậy
tỷ lệ thừa cân béo phì đã tăng gần gấp đôi sau 5
năm. Đây là một con số đáng báo động. Nguyên
nhân có thể là do cùng với sự phát triển của kinh
tế, thì đời sống vật chất được nâng cao giúp làm
giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng nhưng chế độ ăn giàu
đường đạm, lối sống tĩnh tại hiện đại làm tăng
nguy cơ mắc thừa cân, béo phì. Tỷ lệ học sinh
trung học phổ thông thừa cân, béo phì qua một
khảo sát năm 2016 trên 12000 học sinh ở thành
phố Hà Nội cho biết tỷ lệ học sinh thừa cân béo
phì là 21,72%. Như vậy tỷ lệ thừa cân béo phì ở
học sinh Hà Nội cao gấp đôi so với nghiên cứu
của chúng tôi
(7)
.
Xem xét tình trạng dinh dưỡng của học sinh
theo giới, kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học
sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường ở nữ
cao hơn nam (86% và 72%). Như vậy, học sinh
nam là nhóm có tình trạng dinh dưỡng bất
thường cao hơn nữ, cụ thể tỷ lệ suy dinh dưỡng
ở nam là 12,5% nữ 7%; tỉ lệ học sinh nam thừa
cân và béo phì là 15,6%, cao gấp đôi học sinh nữ
(tỷ lệ này ở nữ là 7%). Điều tra năm 2012 cũng
cho kết quả tỷ lệ suy dinh dưỡng và thừa cân,
béo phì ở học sinh nam cao hơn học sinh nữ.
Về thói quen ăn uống, khảo sát thói quen ăn
uống trong 30 ngày qua cho thấy tỷ lệ học sinh
ăn trái cây ≥1 lần/ngày chiếm gần 80%, tỷ lệ học
sinh ăn rau ≥1 lần/ngày chiếm gần 90%. Sự khác
biệt giữa nam và nữ về thói quen ăn trái cây và
ăn rau không có ý nghĩa thống kê. Như vậy kết
quả nghiên cứu cho thấy một tỷ lệ lớn học sinh
có thói quen ăn rau, hoa quả hàng ngày. Mặc dù
tỷ lệ học sinh ăn rau, trái cây dưới 1 lần 1 ngày
nằm trong khoảng 10-20%, nhưng tương ứng
với con số khoảng 600-1200 học sinh cũng là một
con số đáng để chúng ta lưu tâm. Các chương
trình tuyên truyền về dinh dưỡng và thói quen
ăn uống vẫn cần tiếp tục được triển khai trong
học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Tiêu thụ nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh
đang là xu hướng thịnh hành trong giới trẻ. Hiện
nay số lượng các cửa hàng bán đồ ăn nhanh như
KFC hay Lotteria đang gia tăng ở nước ta, không
chỉ xuất hiện nhiều ở các thành phố trực thuộc
trung ương mà cả ở các thành phố trực thuộc
tỉnh. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ
học sinh uống nước có ga thường xuyên trong 30
ngày qua (≥1 lần/ngày) là gần 30% (tương đương
gần 1800 học sinh); tỷ lệ học sinh cho biết đã ăn
đồ ăn nhanh trên 1 lần trong 7 tuần qua là
khoảng 20% (tương đương 1200 học sinh). Tỷ lệ

