TÓM TẮT BÀI GIẢNG: XÃ HỘI HỌC ĐẠI CƯƠNG ThS. Phạm Thị Hương
CHƯƠNG 1: ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA XHH 1.1. Các quan niệm về xã hội học
Thuật ngữ:
“Xã hội học”
(sociology) = “socius”/ “societas” thuyết/nghiên cứu) Học (xã hội) thuyết về
+“ology”/“logos” (học XH/Nghiên cứu về XH.
Lịch sử:
Auguste Comte đưa ra đầu tiên năm 1838. Nhiều quan niệm về XHH khác nhau:
A.Comte: XHH là khoa học về các quy luật của tổ chức xã hội E.Durkheim: XHH là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội. M.Weber: XHH là khoa học về hành động xã hội của con người. XHH châu Âu: nghiên cứu về hệ thống xã hội XHH Mỹ: Nghiên cứu về con người V.A. Jadov: khoa học về sự hình thành, phát triển và sự vận hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội và các quá trình xã hội với tính cách là các hình thức tồn tại của chúng; là khoa học về các quan hệ xã hội với tính cách là các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa các cá nhân và cộng đồng; là khoa học về quy luật của các hành động xã hội và các hành vi của quần chúng.
Những quan niệm khác nhau do NC những thực tiễn xã hội khác nhau, và
do tính chất “nước đôi” của tri thức XHH. Tuy vậy, vẫn có nhiều điểm tương đồng, những khái quát lý luận giống nhau. Khái niệm: Xã hội học là khoa học nghiên cứu các qui luật hình thành, vận động và
- 1
phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội. 1.2. Đối tượng nghiên cứu của XHH (1). Cách tiếp cận thiên về xã hội (tiếp cận vĩ mô) đối tượng XHH là cả xã hội loài người, đó là tính chỉnh thể của tổ chức xã hội, tính hệ thống của xã hội.
(2). Cách tiếp cận thiên về con người (tiếp cận vi mô) đối tượng nghiên cứu của XHH là hành vi xã hội hay hành động xã hội của con người. (3). Cách tiếp cận tổng hợp cả xã hội và con người XHH vừa nghiên cứu hành vi con người vừa nghiên cứu hệ thống xã hội. 3 cách tiếp cận trên đều có ưu điểm riêng, và có chung nhược điểm: con người và xã hội đều là những khách thể nghiên cứu của nhiều khoa học, do đó, người ta cho rằng: XHH không có đối tượng cụ thể rõ ràng.
Tiếp cận “tích hợp” của Osipov – đại diện XHH Mac-xit: (Xã hội học và chủ nghĩa xã hội, 1992): nhấn mạnh yếu tố vĩ mô - tính toàn vẹn của xã hội + yếu tố vi mô - hành vi và hoạt động xã hội của con người Xã hội học là khoa học về các quy luật xã hội chung và đặc thù về sự phát triển, vận hành của các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhận, nhóm xã hội, các giai cấp và dân tộc.
Theo cách tiếp cận này, đối tượng nghiên cứu của XHH không chỉ con người hay xã hội hoặc cả xã hội lẫn con người mà XHH nghiên cứu mối quan hệ hữu cơ, mối quan hệ biện chứng, ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau giữa một bên là con người với tư cách là cá nhân, nhóm và một bên là xã hội với tư cách là hệ thống xã hội, là cơ cấu xã hội hay cấu trúc xã hội. 1.3. Chức năng, nhiệm vụ của xã hội học 1.3.1. Chức năng của xã hội học - Chức năng nhận thức
Chức năng nhận thức của xã hội học thể hiện trên ba điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, xã hội học cung cấp tri thức khoa học về bản chất của hiện thực xã
hội và con người.
Thứ hai, xã hội học phát hiện các qui luật, tính qui luật và cơ chế nảy sinh vận động và phát triển của các quá trình, hiện tượng xã hội, của mối tác động qua lại giữa con người và xã hội.
Thứ ba, xã hội học xây dựng và phát triển hệ thống các phạm trù, khái niệm,
lý thuyết và phương pháp luận nghiên cứu xã hội.
- 2
Có quan niệm cho rằng đây là chức năng khoa học thuần túy, quan niệm khác lại rằng chức năng nhận thức của xã hội học thể hiện ở việc giải nghĩa, hiểu biết các hiện tượng và các quá trình xã hội. Tuy nhiên, theo xã hội học
mácxit, chúng là hiểu rằng: xã hội học cung cấp tri thức, phương pháp luận khoa học, thế giới quan khoa học duy vật biện chứng, từ đó, giúp con người nhận thức được bản chất của hiện tượng, quá trình, các mối quan hệ xã hội, nhận ra những điều phải - trái; đúng - sai, từ đó có hành động hữu ích, phù hợp. - Chức năng thực tiễn
Chức năng thực tiễn của xã hội học có mối quan hệ biện chứng với chức năng nhận thức và là một trong những mục tiêu cao cả của xã hội học thể hiện ở sự nỗ lực cải thiện xã hội và cuộc sống của con người.
Chức năng thực tiễn của xã hội học thể hiện trước hết ở sự vận dụng các qui luật xã hội học trong hoạt động thực tiễn. Trên cơ sở đó, xã hội học góp phần giải quyết đúng đắn kịp thời những vấn đề nảy sinh trong xã hội. Nghiên cứu xã hội học hướng tới dự báo những vấn đề sẽ xảy ra và đề xuất các kiến nghị, giải pháp để kiểm soát các hiện tượng, quá trình xã hội tiến tới cải tạo được thực trạng xã hội. Dự báo của xã hội học có thể được sử dụng để đề ra mục tiêu, giải pháp, hoạch định đường lối, chính sách và ra quyết định hành động khoa học. (Trên thực tế ở nước ta, rất nhiều những nghiên cứu xã hội học đã đưa ra những chỉ báo và cung cấp thông tin vô cùng quan trọng và cần thiết làm nền tảng cho các quyết sách mang tầm vĩ mô)
Trong quá trình thực hiện chức năng thực tiễn, các khái niệm, các lý thuyết và các phương pháp nghiên cứu của xã hội học cũng được cọ sát, kiểm chứng để từ đó sửa đổi, phát triển. - Chức năng tư tưởng
Ngoài chức năng nhận thức và chức năng thực tiễn chung cho mọi khoa học,
cũng như các khoa học xã hội khác, xã hội học có chức năng tư tưởng.
- 3
Chức năng tư tưởng thể hiện ở chỗ, xã hội học góp phần trang bị thế giới quan của Chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa duy vật lịch sử, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao lý tưởng XHCN và tinh thần cách mạng, phấn đấu để đạt được mục tiêu CNXH. Xã hội học Mác Lênin còn góp phần vào việc bồi dưỡng tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc; giáo dục vai trò, trách nhiệm công dân cho mỗi người trong sự phát triển xã hội theo phương châm: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên cạnh đó,
xã hội học còn hình thành và phát triển phương pháp tư duy nghiên cứu khoa học và khả năng suy xét phê phán. Từ đó, vận dụng quy luật duy vật biện chứng trong việc nhận thức tư tưởng, đấu tranh, phê phán các trào lưu, tư tưởng sai trái, không lành mạnh trong xã hội, công khai bảo vệ lợi ích chân chính của các cá nhân, tập thể, cộng đồng và lợi ích quốc gia. 1.3.2. Nhiệm vụ của xã hội học Xã hội học có ba nhiệm vụ cơ bản để thực hiện ba chức năng cơ bản của nó, bao gồm : - Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận
Nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống các khái niệm, phạm trù, lý thuyết khoa học đặc thù của xã hội học. Vì là khoa học non trẻ so với một số khoa học khác nên xã hội học có thể và cần phải xây dựng vừa kế thừa và sử dụng các khái niệm hay thuật ngữ của các khoa học khác. Cần hướng tới hình thành và phát triển hệ thống lí luận, phương pháp luận nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. - Nhiệm vụ nghiên cứu thực nghiệm
Thông qua nghiên cứu thực nghiệm để một mặt, kiểm nghiệm, chứng minh giả thuyết khoa học (thực chứng) ; mặt khác, để phát hiện những vấn đề mới nảy sinh làm cơ sở cho việc sửa đổi, phát triển và hoàn thiện khái niệm, đồng thời, thúc đẩy tư duy xã hội học. - Nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng
Xã hội học có nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học vào cuộc sống. Nghiên cứu ứng dụng hướng tới việc đề ra các giải pháp, vận dụng những phát hiện của nghiên cứu lý luận vào nghiên cứu thực nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước, xã hội học Việt Nam đã và đang tích cực nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh, góp phần đề ra các biện pháp thực tiễn khả thi.
- 4
Căn cứ vào đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, nhất là sự định hướng chiến lược phát triển khoa học công nghệ; giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xã hội học vạch ra một số nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên CNXH của Việt Nam; + Sự nghiệp CN hóa, hiện đại hóa đất nước; + Biến đổi các giai cấp, tầng lớp xã hội; + Các chính sách bảo đảm tiến độ và công bằng xã hội; + Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; + Vai trò lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng;
1.4. Cơ cấu và phân loại xã hội học
- Căn cứ mức độ trừu tượng, khái quát của tri thức xã hội học, có xã hội học lí thuyết, xã hội học thực nghiệm và xã hội học ứng dụng. - Căn cứ vào cấp độ riêng – chung, bộ phận – chỉnh thể của tri thức và lĩnh vực nghiên cứu, có xã hội học đại cương và xã hội học chuyên ngành. - Căn cứ vào quy mô, kích cỡ lớn nhỏ của hệ thống xã hội, có xã hội học vĩ
mô và xã hội học vi mô. Xã hội học lí thuyết nghiên cứu một cách khách quan, khoa học về hiện tượng và quá trình xã hội nhằm phát hiện những vấn đề lí luận mới : các khái niệm, phạm trù hay lí thuyết mới.
Xã hội học thực nghiệm nghiên cứu các hiện tượng và quá trình xã hội bằng việc vận dụng lí luận và thực chứng với những quan sát, đo lường, thí nghiệm để kiểm nghiệm các giả thuyết khoa học.
Xã hội học ứng dụng vận dụng lí luận vào việc phân tích, tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết các hiện tượng và quá trình xã hội, các tình huống, các sự kiện của thực tiễn đời sống xã hội hay nói cách khác, chính là đưa tri thức xã hội vào cuộc sống.
Xã hội học đại cương nghiên cứu các quy luật, tính quy luật, thuộc tính và
các đặc điểm chung nhất của các hiện tượng và quá trình xã hội.
Xã hội học chuyên ngành (chuyên biệt) là sự vận dụng lí luận xã hội học đại cương vào các nghiên cứu các quan hệ xã hội và các lĩnh vực đời sống xã hội ở tầm vĩ mô. Mỗi ngành xã hội học chuyên biệt lại có một hệ thống lí luận riêng để nghiên cứu các lĩnh vực đời sống xã hội: (xã hội học nông thôn; xã hội học đô thị; xã hội học gia đình; xã hội học giáo dục…)
- 5
Xã hội học vĩ mô nghiên cứu cơ cấu xã hội, thiết chế xã hội, tương tác xã hội giữa các (hệ thống) xã hội và của xã hội có quy mô lớn (một quốc gia,
một dân tộc, một chế độ xã hội, một khu vực trên thế giới...) XHH vĩ mô nghiên cứu hiện tượng, quá trình xã hội với tư cách là chỉnh thể trọn vẹn. Xã hội học vi mô chủ yếu nghiên cứu các quy luật phát sinh, vận động và phát triển của nhóm xã hội có quy mô nhỏ. XHH vi mô còn nghiên cứu các quá trình, các hiện tượng xảy ra trong nhóm nhỏ, cũng như hành động xã hội và tương tác xã hội giữa các cá nhân.
1.5. Mối quan hệ giữa xã hội học với các ngành khoa học khác
1.5.1. Xã hội học và Triết học
Triết học là khoa học nghiên cứu quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Xã hội học là một khoa học cụ thể. Triết học Mác – Lênin là nền tảng thế giới quan, là cơ sở nghiên cứu của xã hội học Mácxít. Quan hệ giữa xã hội học và triết học là quan hệ giữa khoa học cụ thể và thế giới quan khoa học. Các nhà xã hội học mácxít vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật làm công cụ lý luận sắc bén để nghiên cứu và cải thiện mối quan hệ giữa con người và xã hội.
Trong quan hệ với triết học, các nhà Xã hội học tránh hai quan niệm cản trở
sự phát triển của Xã hội học.
Quan niệm 1 cho rằng xã hội học là một bộ phận của triết học.Thực tế, quan niệm này đã làm ngưng trệ quá trình hình thành xã hội học như là một khoa học độc lập ở một số nước vào những năm 1930 – 1960.
Quan niệm 2 cho rằng xã hội học biệt lập hay đối lập với triết học. Những người theo quan niệm này lập luận rằng, xã hội học ra đời với tư cách là một khoa học cụ thể, đối lập với triết học tư biện, kinh viện, giáo điều, bất lực trước các vấn đề mới mẻ nảy sinh từ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội châu Âu thế kỉ XIX. Nói cách khác, xã hội học không có mối liên hệ gì đáng kể so với triết học. Thực tế quan niệm này cố tình làm ngơ trước một thực tế là xã hội học bao giờ cũng có tính triết học và tính tư tưởng. Tính triết học của xã hội học thể hiện ở chổ xã hội học tìm hiểu bản chất của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội và nhận thức qui luật chung của sự vận động và phát triển của con người và xã hội.
- 6
Tính triết học trong xã hội học gắn liền với thế giới quan, hệ tư tưởng và tính giai cấp. Các nhà xã hội học mácxít xây dựng học thuyết xã hội học trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng về lịch sử, xã hội và con người và luôn
coi triết học Mác-Lênin là thế giới quan, phương pháp luận và vũ khí tư tưởng của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng, văn minh.
Mối quan hệ giữa xã hội học và triết học có tính biện chứng. Các nghiên cứu xã hội học cung cấp những thông tin và phát hiện các vấn đề, bằng chứng mới làm phong phú kho tàng tri thức và phương pháp luận triết học. Trên cơ sở nắm vững tri thức xã hội học ta có thể vận dụng một các sáng tạo tri thức triết học vào thực tiễn. 1.5.2. Xã hội học với tâm lý học và lịch sử học
Lịch sử phát triển xã hội học cho thấy xã hội học luôn xác định rõ ràng mối quan hệ giữa một bên là sử học và một bên là tâm lý học. Đó là mối quan hệ liên quan đến những cặp chủ đề cơ bản của xã hội học như con người – xã hội, hành động xã hội-cơ cấu xã hội.
Có hai quan niệm khác nhau trong lịch sử. Trong giai đoạn đầu phát triển, xã hội học châu Âu cự tuyệt với vai trò của tâm lý học trong việc giải quyết các vấn đề xã hội học. Weber cho rằng có thể hiểu hành động xã hội thông qua việc giải nghĩa hoàn cảnh xã hội bao gồm các yếu tố như văn hóa, lịch sử… như vậy sử học có vai trò đặc biệt trong nghiên cứu xã hội học. Trong khi đó ở xã hội học Mỹ, một số tác giả như G.Homans cho rằng cần sử dụng tâm lý học để giải thích các hiện tượng xã hội học, bởi hành động con người, tương tác giữa các cá nhân là nền tảng của các quá trình xã hội, cơ cấu xã hội. Mà hành động cá nhân được coi là kết quả của tâm lý cá nhân. Do vậy, các qui luật tâm lý cá nhân phải là những nguyên lý nghiên cứu cơ bản của xã hội học.
Cuộc giằng co lý luận giữa xã hội học, tâm lý học và sử học vẫn còn tiếp diễn, không phân thắng bại. Kết quả là tâm lý học xã hội trở thành một chuyên ngành của cả tâm lý và xã hội. Mặt khác, nghiên cứu so sánh lịch sử xã hội trở thành một chuyên ngành ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều nhà xã hội học. Các phương pháp, khái niệm và những phát hiện của lịch sử ngày càng xuất hiện nhiều trong xã hội học.
- 7
Xã hội học là khoa học tương đối độc lập vì có đối tượng nghiên cứu riêng: đó là nghiên cứu mối liên hệ giữa con người và xã hội, tức là nghiên cứu sự ảnh hưởng sự ảnh hưởng của xã hội tới con người và tác động của con người
tới xã hội. (Xã hội học không nghiên cứu con người hoặc xã hội hay cả con người và xã hội theo kiểu “nửa nọ nửa kia”)
Xã hội học có mối liên hệ chặt chẽ với tâm lý học và sử học. Các nhà xã hội học có thể vận dụng cách tiếp cận của tâm lý học để xem xét hành động xã hội với tư cách là hoạt động cảm tính, có đối tượng, có mục đích. Xã hội học có thể quán triệt quan điểm lịch sử trong việc đánh giá tác động của hòan cảnh, điều kiện xã hội tới con người. 1.5.3. Xã hội học và kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu quy trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ; Xã hội học nghiên cứu bối cảnh, văn hóa, cách tổ chức. Xã hội học và kinh tế học có mối quan hệ lâu đời. (Khi phân tích và tổ chức và thiết chế kinh tế, các nhà xã hội học tiền bối như Marx, Durkheim hay Weber đều đưa ra những tư tưởng và lí thuyết xã hội học quan trọng về kinh tế).
Tác động qua lại của xã hội học và kinh tế học biểu hiện ở chỗ: Cả hai khoa học này đều vận dụng một số khái niệm, phạm trù và lí thuyết cho đối tượng nghiên cứu của mình như lý thuyết trao đổi; lý thuyết “vốn con người”; khái niệm “thị trường”; “mạng lưới xã hội”; “vị thế xã hội”; “hành động xã hội”…
Mối quan hệ của xã hội học và kinh tế học phát triển thành 3 xu hướng, tạo thành 3 lĩnh vực khoa học liên ngành, đó là, Kinh tế học xã hội (Gần với Kinh tế học chính trị); Xã hội học kinh tế; Kinh tế và xã hội. 1.5.4. Xã hội học và nhân chủng học
Nhân chủng học nghiên cứu xã hội loài người từ lúc xuất hiện cho đến nay. Trong các ngành của nhân chủng học thì nhân chủng học xã hội (nhân chủng học văn hóa) liên quan gần gũi, chặt chẽ với XHH.
Nhân chủng học xã hội nghiên cứu về văn hóa, cơ cấu xã hội của các xã hội từ nguyên thủy đến hiện đại. Trong khi đó XHH chủ yếu nghiên cứu về xã hội hiện đại.
- 8
Về phương pháp: Các nhà khoa học nhân chủng học thường vận dụng phương pháp tiếp cận tổng hợp để thu thập số liệu, miêu tả, so sánh, phân tích bối cảnh, tình huống và đặc điểm chung của xã hội với tư cách là một chỉnh thể trọn vẹn. Các nhà xã hội học nghiên cứu các sự kiện, bằng chứng trong chỉnh thể xã hội hiện có.
Nhiều khái niệm và phương pháp nghiên cứu quan trọng của xã hội học bắt nguồn từ nhân chủng học. Khái niệm “văn hóa” (nhà nhân chủng học người Anh, Edward Tylor); khái niệm “cơ cấu xã hội” (nhà nhân chủng học người Pháp, Claude Levi-Strauss). Các phương pháp tham dự, phỏng vấn sâu được sử dụng nhiều trong nghiên cứu xã hội học hiện nay vốn là những phương pháp đặc trưng của nhân chủng học xã hội.
Xã hội học tác động trở lại nhân chủng học về mặt phương pháp luận nghiên cứu. Chẳng hạn quan điểm cơ cấu, chức năng của Durkheim đã ảnh hưởng tới các công trình nghiên cứu của nhà nhân chủng học người Anh, Radcliffe- Brown 1.5.5. Xã hội học và luật
Luật là hệ thống các chuẩn mực và quy tắc hành động do cơ quan có thẩm quyền chính thức đưa ra. Luật có tác dụng quy định và kiểm soát xã hội đối với hành động và quan hệ xã hội nên từ lâu các nhà xã hội học rất quan tâm nghiên cứu luật.
Các nhà xã hội học đều chú ý đến phân tích xã hội học về các tổ chức và thiết chế pháp luật; vai trò xã hội của luật sư, tòa án, các vấn đề liên quan đến an ninh xã hội, tội phạm,… Các cơ quan nhà nước có thể vận dụng lý thuyết xã hội học để phân tích sự phát triển của hệ thống pháp luật cũng như mối liên hệ giữa pháp luật với cơ cấu, hệ thống xã hội.
Ngày nay các nhà xã hội học thường quan tâm xem xét, đánh giá ảnh hưởng
qua lại giữa hệ thống luật pháp và hệ thống xã hội. 1.5.6. Xã hội học và chính trị học
Khoa học chính trị chủ yếu nghiên cứu về quyền lực, sự phân chia quyền lực trong xã hội. Phạm vi nghiên cứu của chính trị học khá rộng: từ hành vi, thái độ của cá nhân đối với hoạt động chính trị của các nhóm, tổ chức và lực lượng xã hội.
Trong khi chính trị học chú trọng phân tích cơ chế hoạt động và bộ máy quyền lực thì xã hội học tập trung nghiên cứu mối liên hệ giữa các tổ chức, thiết chế và cơ cấu xã hội.
- 9
Mối quan hệ chặt chẽ giữa xã hội học và chính trị học thể hiện trước hết ở việc vận dụng các lí thuyết, khái niệm và phương pháp chung. Ví dụ các
phương pháp phỏng vấn, điều tra dư luận xã hội; phân tích nội dung đang được sử dụng rộng rãi trong hai khoa học này.
Hiện nay, ngành xã hội học chính trị khá phổ biến và phát triển ở một số nước trên thế giới chính là kết quả của công lao tích cực nghiên cứu về chính trị học của các nhà xã hội học.
Tóm lại: Với tư cách là một khoa học độc lập trong hệ thống các khoa học, xã hội học có mối quan hệ với nhiều ngành khoa học xã hội khác. Xã hội học không ngừng tiếp thu thành tựu của các khoa học khác cả về nội dung và phương pháp luận nghiên cứu. Trên cơ sở đó, xã hội học phát triển và hoàn thiện hệ thống khái niệm, phạm trù và phương pháp luận nghiên cứu của mình.
CHƯƠNG 2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC 2.1. Sự ra đời XHH 2.1.1. Sự ra đời XHH là nhu cầu khách quan
- Khát vọng tìm hiểu về đời sống xã hội của loài người đã hình thành nên các
lý giải xã hội khác nhau qua các thời kì.
- Những biến động ở châu Âu TK XVIII & XIX đã đặt ra hàng loạt nhu cầu
mới đối với nhận thức xã hội, tổ chức, quản lý và phát triển xã hội
- XHH xuất hiện ở châu Âu thế kỉ XIX như một tất yếu lịch sử xã hội
thể hiện nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện, tiền đề.
2.1.2. Những điều kiện và tiền đề ra đời xã hội học
- Những biến đổi về kinh tế - xã hội
+ Cách mạng công nghiệp ở châu Âu đánh dấu bước chuyển từ xã hội nông nghiệp truyền thống xã hội công nghiệp hiện đại. + Biến đổi kinh tế kéo theo những biến đổi sâu sắc về xã hội. + Trật tự xã hội phong kiến thực sự bị phá vỡ. Nhu cầu giải thích các hiện tượng mới trong xã hội, lập lại trật tự và ổn định xã hội, là cơ sở để XHH ra đời.
- Những biến đổi về chính trị - xã hội
- 10
+ Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 (biến đổi quan trọng nhất).
+ Những biến động chính trị theo kiểu “tiến hóa” ở Anh, Đức, Ý,.. – quyền lực chính trị vào tay giai cấp tư sản.
- Những biến đổi về tư tưởng - lí luận - khoa học
* Sự ra đời của XHH đã làm thay đổi nhận thức, thay đổi thế giới quan và
+ Sự phát triển vượt bậc của các khoa học tự nhiên cơ sở của nhiều ngành KH khác. + Bước phát triển đáng kể của các khoa hoc xã hội: kinh tế chính trị, pháp luật, sử học + Triết học khá lúng túng và tỏ ra tụt hậu trong nhìn nhận các vấn đề xã hội. Để có một cái nhìn mới về xã hội, nghiên cứu các hiện tượng - quá trình xã hội một cách khoa học, XHH đã tách khỏi triết học, trở thành một ngành khoa học cụ thể, dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. 2.1.3. Ý nghĩa của sự ra đời xã hội học phương pháp luận của con người về sự biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội. * Với những tri thức mới do XHH đem lại, con người có thể hoàn toàn hiểu được, giải thích được những hiện tượng xã hội bằng các khái niệm, phạm trù và phương pháp nghiên cứu khoa học. 2.2. Các giai đoạn phát triển xã hội hoc 2.2.1. Sự ra đời của XHH với tư cách là một khoa học độc lập
- Áp lực mạnh mẽ của XH Tây âu những năm 30 – TK XIX + Sự ra đời
của CN Tư bản + cuộc cách mạng khoa học công nghệ
- 1839 - Auguste Comte - Sau Comte, XHH đã xác định ngày càng rõ đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu và các vấn đề cơ bản khác từng bước xây dựng hệ thống, khái niệm, phạm trù quy luật khoa học XHH
2.2.2. XHH ở TK XIX
- 11
Đánh dấu những bước phát triển và hoàn thiện của XHH
Xuất hiện nhiều nhà XHH danh tiếng : Auguste Comte (1798 - 1857); Karl Marx (1818-1883); Herbert Spencer (1820-1903); Emile Durkheim (1857- 1917); Max Weber (1864 - 1920)
Vai trò tiên phong của XHH Pháp XHH châu Âu phát triển mạnh
mẽ
Hướng nghiên cứu: cấu trúc xã hội
2.2.3. XHH ở TK XX
Hướng tiếp cận XHH hành vi xuất phát từ thực tiễn xã hội Mỹ
nhanh chóng chiếm ưu thế với cách tiếp cận vi mô
XHH trờ thành môn khoa học được giảng dạy chính thức ở các
trường đại học
Sự ra đời và phát triển của lý luận XHH Marsxist Lấy triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm cơ sở PPL; NC cả hai nình diện cấu trúc XH và hành vi xã hội; Sự đóng góp quan trọng của Lênin…
Những đóng góp buổi đầu của các nhà sáng lập xã hội học: Auguste Comte (1798 - 1857); Karl Marx (1818-1883); Herbert Spencer (1820-1903); Emile Durkheim (1857- 1917); Max Weber (1864 - 1920); Auguste Comte (1798 - 1857)
Auguste Comte (1798 - 1857)
Quan sát Thực nghiệm So sánh Phân tích lịch sử
- 12
- Nhà thực chứng luận, Nhà xã hội học, Giáo viên Triết học. - Người đầu tiên đưa ra thuật ngữ "XÃ HỘI HỌC" vào năm 1838. - Tác phẩm chính: Triết học thực chứng" (1830 - 1842) và "Hệ thống chính trị học thực chứng" (1851 - 1854). Về phương pháp luận XHH Gọi XHH là vật lý học xã hội (Social Physics); đề ra yêu cầu phải sử dụng phương pháp thực chứng trong nghiên cứu XHH: Về cơ cấu XHH
XHH gồm 2 bộ phận:
- Tĩnh học xã hội: nghiên cứu về trật tự xã hội, cơ cấu xã hội, các thành phần
- Động học xã hội: nghiên cứu các qui luật biến đổi xã hội trong quá trình
Theo Comte, lịch sử loài người phát triển theo ba giai đoạn: - Giai đoạn thần học (từ khi loài người xuất hiện đến trước thế kỷ XIII) - Giai đoạn siêu hình (TK XIII -XIX) - Giai đoạn thực chứng (TK XIX trở đi)
và các mối liên hệ của chúng (Gia đình, nhà nước...). lịch sử xã hội. Về quy luật phát triển của xã hội Khái quát đóng góp XHH của Comte: (1) Người đầu tiên coi XHH là một khoa học độc lập, có nhiệm vụ đáp ứng được nhu cầu nhận thức, nhu cầu giải thích những biến đổi xã hội, góp phần vào việc lập lại trật tự ổn định xã hội. (2) Cho rằng bản chất của XHH là sử dụng các phương pháp khoa học để xây dựng lý thuyết và kiểm chứng giả thuyết. (3) Mặc dù quan niệm của Comte về phương pháp luận, về cơ cấu của XHH và về qui luật ba giai đoạn còn sơ lược, nhưng Comte đã chỉ ra các nhiệm vụ và vấn đề cơ bản của XHH. XHH có nhiệm vụ phát hiện ra các quy luật, xây dựng lý thuyết, nghiên cứu cơ cấu xã hội (tĩnh học xã hội) và nghiên cứu quá trình xã hội (động học xã hội), trả lời câu hỏi: “trật tự xã hội được thiết lập, duy trì và biến đổi như thế nào”
triển XHH ở Việt Nam 2.2.4. Sự du nhập và phát - XHH được nhắc đến trong văn kiện chính thức của ĐH Đảng toàn quốc lần 4 (1976) XHH chính thức trở thành một môn khoa học được nghiên cứu, giảng dạy trong các trường đại học và viện nghiên cứu ở Việt Nam. - Năm 1977 Ban XHH được thành lập; Năm 1983, Viện XHH thuộc
- Các Khoa, bộ môn XHH cũng được thành lập trong các trường ĐH từ
UBKHXH VN được thành lập Tạp chí Xã hội học ra đời sau đó. 1991.
- 13
XHH Việt Nam tập trung vào hai nhiệm vụ chính:
- Đầu tư cho việc nghiên cứu lí luận để xây dựng hệ thống tri thức XHH phù hợp với bối cảnh Việt Nam.
- Cùng với các lĩnh vực khoa học khác tham gia vào việc giải quyết, làm sáng tỏ những vấn đề mới nảy sinh và góp phần đề ra những biện pháp thực tiễn có tính khả thi cao của đời sống xã hội trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước.
Khuynh hướng: XHH Việt Nam chịu ảnh hưởng các khuynh hướng của XHH thế giới, tuy nhiên XHH Marx - xít là khuynh hướng phát triển chủ yếu, cơ bản.
Trước đổi mới (1983 – 1986):
XHH VN tập trung NC các vấn đề xã hội học đô thị (nổi bật là vấn đề nhà ở). Các nghiên cứu xã hội học nông thôn, vấn đề lao động và việc làm, vấn đề xã hội học gia đình... cũng đã nghiên cứu và công bố kết quả.
những biến đổi xã hội đang đặt ra yêu cầu cấp thiết cần đối với công cuộc đổi mới đất nước, đổi mới các hoạt động kinh tế, xã hội theo các mục tiêu phát triển của Đảng và Nhà nước đề ra.
Từ 1986 - nay:
- NC XHH VN tập trung làm sáng tỏ cơ sở lý luận của đường lối Đổi mới do Đảng và Nhà nước khởi xướng, phân tích các biến đổi xã hội dưới tác động của đường lối Đổi mới tới các tổ chức thiết chế xã hội, các giai cấp và tầng lớp xã hội, các quan hệ xã hội và đề xuất các phương hướng cho hoạt động tổ chức, quản lý xã hội theo mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cụ thể: + Mô tả và phân tích thực trạng cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo trong thời kỳ đổi mới; Các vấn đề xã hội học của đời sống kinh tế và nguồn nhân lực; Biến đổi hệ thống phúc lợi xã hội; Nghiên cứu động thái dân số; Xã hội học về sức khỏe dân cư và hệ thống chăm sóc sức khỏe. + Các lĩnh vực nghiên cứu xã hội học chuyên biệt gắn với cơ cấu xã hội như xã hội học đô thị, xã hội học nông thôn, xã hội học trẻ em, xã hội học thanh niên, xã hội học gia đình, quan hệ thân tộc, hoặc các chuyên ngành khác của xã hội học như xã hội học truyền thông đại chúng và dư luận xã hội, xã hội học văn hóa...
- 14
Ý nghĩa
Ra đời muộn (>30 năm) nhưng XHH VN đã có một vị trí xứng đáng và quan
trọng trong khoa học xã hội.
- Trường phái XHH theo thuyết hữu cơ thực chứng. - Trường phái XHH theo thuyết cấu trúc lịch sử. - Trường phái hành động xã hội.
Sự tương quan lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau giữa các bộ phận cấu thành
Lý giải các sự kiện, hiện tượng XH đều phải dựa trên cơ sở cứ liệu thực tế
Lý giải sự phát triển xã hội thông qua việc tìm hiểu các giai đoạn phát triển
Phải lý giải, xác định ý nghĩa hành động xã hội trong bối cảnh xã hội của nó
+ Trường phái tâm lý học + Trường phái máy móc và sinh vật học + Trường phái kinh tế học + Trường phái nhân học và dân tộc học + Chủ nghĩa cấu trúc + Chủ nghĩa chức năng
- 15
XHH VN đã và đang thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, với tư cách là một khoa học lý luận + một khoa học ứng dụng. Góp phần giải quyết hàng loạt vấn đề nảy sinh trong quá trình đổi mới và xây dựng đất nước. 2.3. Những trường phái xã hội học Do những khác biệt về quan điểm, phương pháp luận nghiên cứu, những hoàn cảnh thực tiễn đặc thù nên trong nghiên cứu thường có những trường phái khác nhau. XHH TK XIX - Trường phái XHH theo thuyết hữu cơ thực chứng (E.Durkheim) cái toàn thể - Trường phái XHH theo thuyết cấu trúc lịch sử (A.Comte và M.Weber) trong lịch sử Cơ sở cho các nghiên cứu XH của CN Mác-Lênin - Trường phái hành động xã hội Những trường phái XHH hiện đại 2.4. Các lý thuyết XHH cơ bản 2.4.1. Lý thuyết chức năng (chức năng – cấu trúc)
- Các đại biểu chủ yếu: August Comte, Herbert Spencer, Emile Durkhiem, Talcott Parsons (1902 - 1979), Robert Merton,…, Peter Blau (1918 -2002) XHH Mỹ.
- Tư tưởng chủ đạo: Nhấn mạnh tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thể mà mỗi bộ phận đều có chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của chính thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định, bền vững.
- Nguồn gốc: Truyền thống KHXH Pháp và Anh. - Là một cách tiếp cận quan trọng của XHH nhưng gần đây bị phê phán gay
gắt do:
+ Phản ánh một ý thức hệ bảo thủ, biện minh cho hiện trạng xã hội khi quan niệm rằng mọi kết cấu xã hội đều hữu ích; + Quá đề cao sự thống nhất xã hội, giảm thiểu những khác biệt do các yếu tố bất bình đẳng như giai cấp, chủng tộc, giới tính; không giải thích được những xung đột xã hội hoặc chuyển biến xã hội. 2.4.2. Thuyết mâu thuẫn
- Đại biểu chính: của thuyết mâu thuẫn: K.Marx, F. Engels, Vilfredo Pareto (1848 -1923),.. Ralf Dahrendorf (1929-) Pierre Bourdieu (1930), Randall Collins (1941-)...
- Tư tưởng chủ đạo: nhấn mạnh sự mâu thuẫn, xung đột và sự biến đổi xã
hội.
- Luận điểm gốc: quan hệ giữa các cá nhân, các nhóm xã hội luôn nằm trong tình trạng mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau vì lợi ích (do có sự khan hiếm các nguồn lực - đất đai, nguyên vật liệu, tiền tài, địa vị... - và do sự phân công lao động và sự bất bình đẳng trong phân bổ nguồn lực, quyền lực nên)
- 16
Dường như tất cả các nhà XHH hiện đại khi giải thích xã hội đều tiếp cận bằng lý thuyết mâu thuẫn và xung đột của Marx. Các nhà XHH "đều vay mượn của Marx các lý giải về giai cấp, ngay cho dù nhà xã hội học đó kết thúc bằng cách bài bác Marx.
- Các nhà XHH chủ trương giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh (không phải bằng thỏa hiệp), trong đó, hệ các giá trị và các chuẩn mực văn hóa được coi là vũ khí, phương tiện đấu tranh lợi hại.
- Về phương pháp luận, thuyết mâu thuẫn cho rằng cần phải tập trung vào phân tích động cơ và đặc điểm xã hội của các bên tham gia mâu thuẫn và bản chất của mối quan hệ mâu thuẫn.
2.4.3. Thuyết tương tác biểu trưng
- Đại biểu chính: Charles Horton Cooley (1863 - 1929), George Herbert Mead (1863 -1931), Herbert Blumer (1900 - 1987), Erving Goffman (1922 - 1982).
- Tư tưởng chủ đạo: Xã hội được tạo thành từ sự tương tác của vô số các cá nhân, bất kỳ hành vi và cử chỉ nào của con người đều có vô số các ý nghĩa khác nhau, hành vi và hoạt động của con người không những phụ thuộc mà còn thay đổi cùng với các ý nghĩa biểu trưng.
để hiểu được tương tác xã hội, cần nghiên cứu, lý giải được ý nghĩa của các biểu hiện của mối tương tác đó.
-
Nguồn gốc của thuyết tương tác biểu trưng là các quan niệm XHH của Max Weber, Georg Simel, Robert Park và một số trường phái triết học, sinh vật học và các lý thuyết tâm lý học ý thức, tâm lý học hành vi và tâm lý học xã hội.
2.4.4. Thuyết lựa chọn duy lý
- 17
- Đại biểu chính: George Hommans (1910 - 1989) và Peter Blau. - Tư tưởng chủ yếu: con người luôn hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa với chi phí tối thiểu.
(Ban đầu: mục tiêu lợi ích kinh tế + lợi ích xã hội, tinh thần)
- Thuyết lựa chọn duy lý có hai biến thể: + Thuyết trò chơi (Game theory) hành động duy lý cá nhân chỉ có thể đem lại kết quả tốt đẹp cho các bên tham gia khi cùng nhất trí những "luật chơi. + Thuyết trao đổi (exchange theory) coi tương tác xã hội như là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các bên tham gia Xem xét được mất trước khi quyết định trao đổi.
CHƯƠNG 3 CÁC PHẠM TRÙ CƠ BẢN CỦA XÃ HỘI HỌC
3.1. HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI, TƯƠNG TÁC XÃ HỘI 3.1.1. HÀNH ĐỘNG XÃ HỘI a. Khái niệm
• HĐXH = một bộ phận trong hoạt động sống của mỗi cá nhân. • Hành vi: sự biểu hiện của mối liên hệ giữa kích thích và phản ứng mà chúng
ta quan sát được.
Hành vi của con người chỉ là những phản ứng (máy móc) quan sát
được sau các tác nhân.
•
Ví dụ: nóng - rụt tay lại; chua quá – nhăn mặt; bị đánh – chạy đi; bị chê – buồn/tức; khen – vui cười,… Hành vi xã hội là một chỉnh thể thống nhất gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
• Giữa các tác nhân và các phản ứng phải có các yếu tố trung gian: hệ thống
nhu cầu, hệ thống giá trị và tình huống thực hiện hành vi.
• Như vậy, các cá nhân sẽ phải suy nghĩ, đối chiếu, cân nhắc trước mỗi tác
nhân, chứ không phải là phản ứng một cách máy móc.
• Hành vi # Hành vi xã hội. • Hành động xã hội (định nghĩa của Max Weber) là một hành vi mà chủ thể
gán cho một ý nghĩa chủ quan nhất định.
Hành động bao giờ cũng có động cơ nhất định.
[không phải hành động nào của con người đều là HĐXH khó phân biệt]
- 18
• Phân biệt hành động xã hội và hành vi
• * Phân biệt hành vi xã hội và hành động xã hội:
Hành vi Xuất phát từ mô hình kích thích - phản ứng Không có động cơ
Không có
Hành vi thì không có tính chuẩn mực
Hành động xã hội Diễn ra theo nguyên tắc phản ứng có suy nghĩ Luôn được xác định bởi những động cơ đằng sau nó, người ta thực hiện hành động khi muốn một cái gì đó, để đạt một cái gì đó. Các chủ thể có khả năng giám sát hành động của chính họ một cách có phản ứng Hành động luôn được quy chiếu theo những giá trị, chuẩn mực của xã hội như đúng - sai, tốt - xấu...
b. Cấu trúc hành động xã hội - Động cơ và mục đích của hành động: Mọi hành động đều được các động cơ thúc đẩy, dẫn dắt, tạo ra các định hướng nhất định để đạt mục đích - tức là kết quả đã được hình dung trước. Các động cơ cơ bản không phải bao giờ cũng chỉ liên quan đến các nhu cầu vật chất mà có khi bao gồm giá trị, lợi ích, lý tưởng cao đẹp đã được các chủ thể tiếp nhận.
- Chủ thể hành động: Là các cá nhân, nhóm, cộng đồng. Tương ứng với từng chủ thể hành động ấy có những mục tiêu, mục đích khác nhau. Mục đích của cá nhân không thể giống mục đích của nhóm, của cộng đồng hay của xã hội, cho dù nhóm, cộng đồng hay xã hội là do những cá nhân liên kết lại với nhau. Trong đó, nếu hành động của chủ thể là một cá nhân thì thường có tính duy ý chí cao, tức là tính chủ quan. Khi chủ thể hành động là nhóm, cộng đồng hay cả một xã hội hành động thì hành động xã hội là kết quả do một tập hợp cá nhân tiến hành (míttinh, biểu tình, hội họp, làm việc...)
- 19
- Hoàn cảnh hoặc môi trường hành động: Bao gồm những điều kiện về thời gian, không gian vật chất và tinh thần của hành động. Nó sẽ quyết định hành động sẽ diễn ra vào thời gian nào, địa điểm nào và trong bối cảnh xã hội ra sao? Hoàn cảnh, môi trường hành động tác động rõ đến mức các nhà XHH gọi đó là "sự kiềm chế thực tế". (Ví dụ: chuyện cô dâu mới về nhà chồng…)
- Công cụ, phương tiện hành động: Tùy theo hoàn cảnh của hành động, các chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án sử dụng công cụ, phương tiện tối ưu nhất đối với họ
Các thành phần của hành động xã hội không tồn tại một cách độc lập mà có mối liên quan hữu cơ với nhau và có ý nghĩa quan trọng quyết định kết quả của hành động xã hội. Hành động xã hội luôn có những động cơ thúc đẩy và ý thức về kết quả có thể xảy ra (có chủ định) nhưng đôi khi, chúng vẫn đem lại những kết quả hành động không theo ý muốn. c. Phân loại hành động xã hội
- Phân loại theo mức độ ý thức của hành động (Pareto - Italia), có: + Hành động lôgic: là những hành động có mục đích và được ý thức rõ ràng. + Hành động không lôgic: những hành động bản năng, không được ý thức.
(Do bản năng, ham muốn, lợi ích thúc đẩy).
Chủ thể nào khi hành động đều có cả hành động lôgic và hành động không lôgic. Nhưng theo Pareto, hành động không lôgic là cốt lõi và là cơ sở của mọi quá trình xã hội.
- Phân loại theo động cơ (Max Weber - Đức), có: + Hành động duy lý - công cụ: thực hiện có cân nhắc, tính toán, lựa chọn
công cụ, phương tiện, mục đích sao cho hiệu quả nhất (hành động kinh tế).
+ Hành động duy lý giá trị: được thực hiện vì bản thân hành động (mục đích tự thân). Loại hành động này có thể nhằm vào những mục đích phi lý nhưng lại được thực hiện bằng những công cụ, phương tiện duy lý như hành vi tín ngưỡng.
+ Hành động duy cảm (xúc cảm): do các trạng thái xúc cảm hay tình cảm bột phát gây ra, không có sự cân nhắc, xem xét, phân tích. Ví dụ: hành động của một đám đông quá khích, hành động do tức giận gây ra.
+ Hành động duy lý - truyền thống: tuân thủ theo những thói quen, nghi lễ,
phong tục tập quán.
Trong các loại hành động trên, hành động duy lý - công cụ được Weber coi
trọng nhất.
- Phân loại theo định hướng giá trị (Parsons - Mỹ), có: + Toàn thể - bộ phận: chủ thể tuân thủ theo những quy tắc chung hoặc theo
- 20
những tình huống đặc thù của hoàn cảnh khi hành động.
+ Đạt tới - có sẵn: chủ thể hành động có định hướng, liên quan đến những đặc điểm xã hội của các cá nhân khác như nghề nghiệp, học vấn, địa vị, giới tính, tuổi, màu da....
+ Cảm xúc - trung lập: thoả mãn các nhu cầu trực tiếp cấp bách hoặc những
nhu cầu nào đó xa vời nhưng quan trọng.
+ Đặc thù - phân tán: định hướng đến các đặc thù hay những đặc điểm chung
của hoàn cảnh.
+ Định hướng cá nhân - định hướng nhóm: chủ thể hành động vì lợi ích của
bản thân hay có tính đến lợi ích của nhóm. 3.1.2. TƯƠNG TÁC XÃ HỘI a. Khái niệm
• Hành động xã hội là cơ sở, tiền đề của tương tác xã hội. Hành động vật lí Tương tác vật lí; Hành động xã hội thể hiện trong các loại tương tác xã hội khác nhau.
• Tương tác xã hội có thể được coi là quá trình hành động và hành động đáp
lại của một chủ thể này với một chủ thể khác.
• Là khái niệm mang tính chung nhất, khái niệm TTXH đã có mặt trong sự tác động qua lại của các hiện tượng, các quá trình, các hệ thống hoạt động, những mối liên hệ, quan hệ của các mối liên kết mang tính ràng buộc khác nữa của con người trong hiện thực xã hội.
3.3. TƯƠNG TÁC XÃ HỘI
• 2 cấp độ nghiên cứu TTXH của XHH:
vi mô:những đơn vị tương tác nhỏ nhất. vĩ mô: sự tương tác của các cơ cấu xã hội, hệ thống xã hội hay giữa
các thiết chế như gia đình, nhà trường, chính trị, tôn giáo…
Với tư cách là thành viên của nhóm xã hội, các cá nhân thực hiện tương tác của mình đồng thời trên hai cấp độ vĩ mô và vi mô (vd)
Hiểu TTXH theo nghĩa rộng: TTXH không phải là hành động và phản ứng. Đó là một hình thức thông tin và giao tiếp xã hội của ít nhất hai chủ thể hành động tạo sự hiểu biết, mối quan hệ (hoặc không).
• Chủ thể xã hội - trong hệ thống tương tác xã hội:
- 21
• Là cá chân/ nhóm/ cộng đồng, mang tương tác, thực hiện tương tác.
• Chủ thể XH mang tương tác vừa là chủ thể tương tác vừa là khách thể
tương tác.
• Chủ thể XH mang tương tác bao giờ cũng có mục đích xác định (phù
hợp hoặc xung đột lẫn nhau)
• TTXH là quá trình cá nhân xác lập mối quan hệ xã hội và đóng vai trò xã hội
của mình.
• Tương tác xã hội là là một tổng thể cấu thành từ chủ thể xã hội, hoạt động xã hội và quan hệ xã hội. Đó là một cơ cấu thống nhất và không thể chia cắt được. Thiếu một trong những yếu tố đó thì không thể có tương tác xã hội. • TTXH là một khái niệm quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với nhiều khái niệm
khác, đặc biệt là hành động xã hội và quan hệ xã hội. b. Các lý thuyết tương tác xã hội
• Lý thuyết tương tác biểu trưng
Luận điểm chính: cá nhân trong quá trình tương tác qua lại với nhau không phản ứng đối với các hành động trực tiếp của người khác, mà “đọc“ và lí giải chúng.
Mỗi hành động được gắn với một ý nghĩa nào đó (= biểu tượng) Cần phải nhập vào vai/đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu
hành động (giảm sự xung đột)
• Các loại biểu tượng
+ Biểu tượng của hành động và cử chỉ cá nhân (được phân tích kỹ) chia thành hai loại: không có hàm ý ( phản ứng tự nhiên) và có hàm ý (phải qua một giai đoạn phân tích và lí giải trước khi có phản ứng). + Biểu tượng của ngôn ngữ nói và viết là một hệ thống biểu tượng phổ quát và đặc thù cho từng cộng đồng. Thông qua hệ thống biểu tượng này, các cá nhân dễ dàng hiểu biết lẫn nhau khi tương tác. Hạn chế: Chỉ tập trung phân tích những tương tác mà chủ thể là ở cấp độ cá nhân được sự chi phối của một nền văn hóa chung, không đề cập đến cấp độ nhóm và cộng đồng xã hội cũng như các cá nhân tồn tại trong các nền văn hóa khác nhau. Đóng góp của thuyết tương tác biểu trưng: đặt mình vào vị trí người khác cũng như xem phản ứng của người khác để hiểu hành động của mình
- 22
• Lý thuyết trao đổi về TTXH
Luận điểm chính: Các cá nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi các giá trị vật chất và tinh thần như sự ủng hộ, tán thưởng hay danh dự,… theo các nguyên tắc:
Nếu một dạng hành vi được thưởng, hay có lợi thì hành vi đó có xu
hướng lặp lại.
Hành vi được thưởng, được lợi trong hoàn cảnh nào thì cá nhân sẽ có
xu hướng lặp lại trong hoàn cảnh như vậy.
Nếu phần thưởng và mối lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ bỏ ra nhiều chi phí
vật chất và tinh thần để đạt được nó.
Khi các nhu cầu của cá nhân hầu như hoàn toàn thoả mãn thì họ ít cố
gắng hơn trong việc thoả mãn chúng.
• Lý thuyết kịch:
Tương tác xã hội của cá nhân giống như một màn kịch trên sân khấu, ở đó cá nhân trổ hết tài nghệ của mình nhằm làm hài lòng người khác để đem lại lợi ích cho mình.
Lí thuyết kịch dùng những thuật ngữ của kịch trường như mặt nạ, sân
khấu, vai trò, kịch bản, cảnh diễn.
Luận điểm then chốt trong lý thuyết này là sự kiềm chế biểu cảm cá nhân khi xuất hiện trước người khác cố gắng tạo và duy trì một hiệu cảm phù hợp nhất trong một tình huống cụ thể.
Trước khi cá nhân thực hiện tương tác xã hội thì sẽ tìm hiểu, xem xét
kĩ về đối tượng để có thể “diễn xuất” phù hợp.
Quá trình tương tác xã hội theo lí thuyết này là một chuỗi vô tận gồm các bước: Mang mặt nạ - Tháo bỏ mặt nạ - Sự chân thành giả tạo – Tháo bỏ mặt nạ.
Đánh giá:
• Phương pháp dân tộc học về tương tác xã hội
Nghiên cứu những quy tắc hiển nhiên điều khiển sự tương tác của
người này với người khác.
- 23
Là những qui ước ngầm về sự nhận thức những tình huống tương tác - dùng thường xuyên đối với những người biết rõ nhau như: trong gia đình/bạn bè thân thiết/ những người cùng một nền văn hoá.
Mỗi cộng đồng có một hệ thống qui ước riêng mà những cá nhân ở
cộng đồng khác không thể hiểu được.
- 24
c. Phân loại tương tác xã hội - Phân loại dựa vào mối liên hệ xã hội giữa các chủ thể hành động (J.Sepaski - nhà XHH Ba Lan) có 5 mức độ như sau: Sự tiếp xúc không gian - các cá nhân chỉ có vị trí không gian quan sát gần nhau mà chưa có mối liên hệ xã hội; Sự tiếp xúc tâm lí - chủ thể đã quan tâm, để ý lẫn nhau; Sự tiếp xúc xã hội - giữa các chủ thể đã có những hoạt động chung; Sự tương tác - các chủ thể đã thực hiện hành động một cách ổn định và có hệ thống, các hành động này có mục đích tạo ra những phản ứng tương tác phía khách thể; Quan hệ xã hội - đó là những hệ thống phối hợp hành động với nhau. - Phân loại theo các dạng hoạt động chung, có: Hoạt động cá nhân - cùng nhau - các cá nhân được phân công cùng làm những công việc trong một môi trường chung nhưng công việc của họ tương đối độc lập nhau; Hoạt động tiếp nối - cùng nhau - ở dạng này, các cá nhân được giao những công việc có quan hệ với nhau, do đó, việc thực hiện tốt hay không tốt trong một công việc nào đó đều ảnh hưởng trực tiếp đến cá nhân khác, có khi ảnh hưởng đến cả một dây chuyền sản xuất. Hoạt động tương hỗ - cùng nhau - các cá nhân thường xuyên phối hợp hài hòa, nhịp nhàng, ăn ý nhau, do đó tính hợp tác, tính đồng đội rất cao. - Phân loại theo chủ thể hành động trong tương tác, có: Tương tác liên cá nhân - là tương tác giữa các cá nhân với nhau; Tương tác cá nhân - xã hội - là dạng tương tác mà chủ thể thường là các cá nhân có khuynh hướng chống lại xã hội; Tương tác nhóm – nhóm ; Tương tác giữa các cá nhân với tư cách là đại diện các nhóm. - Phân loại theo mục tiêu, ý nghĩa xã hội của tương tác, có hai nhóm: Nhóm thứ nhất, bao gồm những biểu hiện tương tác mang tính tích cực, xác định, nhờ đó các cá nhân dễ dàng thích ứng và hợp tác lâu dài với nhau; Nhóm thứ hai, bao gồm những biểu hiện tương tác mang tính chất tiêu cực, chia rẽ, bất đồng. Đây là kiểu tương tác cạnh tranh hay phủ định nhau. Hình thức trung gian giữa hai nhóm trên là hình thức thi đua, trong thi đua, các cá nhân vừa hợp tác, vừa cạnh tranh tích cực với nhau, thúc đẩy cả hai bên cùng phát triển.
3.2. QUAN HỆ XÃ HỘI, MẠNG LƯỚI XÃ HỘI 3.2.1. QUAN HỆ XÃ HỘI
• a. Khái niệm quan hệ xã hội • Triết học: mọi sự vật và hiện tượng trong xã hội đều có mối liên hệ với
nhau.
Chỉ những liên hệ giữa người với người = liên hệ xã hội Chỉ những mỗi liên hệ nào diễn ra tương đối ổn định, bền vững =
quan hệ xã hội NGHĨA RỘNG
• Xã hội học Quan hệ xã hội được hình thành từ tương tác xã hội – những tương tác có mục đích, có hoạch định, có sự lặp lại, ổn định và tạo lập một mô hình tương tác. NGHĨA HẸP
• KHÁI NiỆM
Quan hệ xã hội là các quan hệ bền vững, ổn định, lặp lại, có mục đích, có hoạch định, có sự phối hợp hành động của các chủ thể hoạt động xã hội, được hình thành trên cơ sở những tương tác xã hội.
• Một số đặc trưng cơ bản của QHXH
Tính ổn định và bền vững tương đối Tính chuẩn mực và khuôn mẫu Tình cảm và tính hợp lý tương đối
• b. Chủ thể quan hệ xã hội • Chủ thể quan hệ xã hội được xét ở hai cấp độ:
- Cấp độ vĩ mô: Chủ thể quan hệ xã hội là các nhóm, các tập đoàn hay toàn thể xã hội thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. - Cấp độ vi mô: Chủ thể quan hệ xã hội là các cá nhân. Quan hệ giữa các các nhân cũng là một phần của quan hệ xã hội.
- 25
• Các quan hệ xã hội có thể thể hiện tính hợp tác hoặc sự xung đột. Điều này xuất phát từ sự hài lòng hay không hài lòng của các chủ thể. Nếu hài lòng về lợi ích thì sẽ dẫn đến quan hệ hợp tác, nếu không thì sẽ là quan hệ xung đột.
• Quan hệ xã hội còn thể hiện sự khác biệt về địa vị xã hội của các cá nhân và các cộng đồng trong xã hội. Sự khác biệt này bao gồm yếu tố tự nhiên (nằm ngoài sự chủ quan của mình, không thể quyết định mình sinh ra giàu hay nghèo) và yếu tố xã hội (do cá nhân phấn đấu, vươn lên, có thể quyết định được). c. Phân loại quan hệ xã hội - Phân loại theo nội dung: quan hệ tình cảm thuần tuý (quan hệ sơ cấp) và quan hệ xã hội (quan hệ thứ cấp). Quan hệ tình cảm dựa trên những đặc điểm sinh học hoặc tâm lý có sẵn ở các cá nhân như giới tính, vẻ bề ngoài, quan hệ huyết thống, sở thích... Quan hệ xã hội dựa trên những đặc điểm xã hội đạt được của cá nhân như nghề nghiệp, học vấn, địa vị, quyền lực... Quan hệ tình cảm có thể trở thành quan hệ xã hội và chính quan hệ xã hội có thể tạo ra quan hệ tình cảm. - Phân loại theo vị thế: quan hệ xã hội theo chiều ngang (những chủ thể có vị thế xã hội ngang nhau = bình đẳng) và quan hệ xã hội theo chiều dọc (những chủ thể có vị thế xã hội cao thấp khác nhau = bất bình đẳng). - Phân loại theo chủ thể: quan hệ xã hội giữa các tập đoàn lớn, giữa các nhóm xã hội nhỏ, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữa các cá nhân. Quan hệ xã hội, tương tác xã hội và hành động xã hội là những thành tố quan trọng cấu thành nên đời sống xã hội. Phân tích hành động xã hội và tương tác xã hội là để hiểu quan hệ xã hội và ngược lại. Đây cũng là những khái niệm quan trọng của XHH.
3.3. VỊ THẾ XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI 3.3.1. VỊ THẾ XÃ HỘI
- 26
• Khái niệm: • Vị trí xã hội: là một vị trí trong cấu trúc xã hội. Mỗi vị trí quyết định chỗ đứng của một cá nhân hay một nhóm xã hội và phương pháp ứng xử của cá nhân, nhóm xã hội đó đối với xã hội xung quanh. [= vị thế tự nhiên – một số quan niệm] Khái niệm này không phải dành riêng để gọi cho những người có chức vụ cao, uy tín lớn, mà dùng cho tất thảy mọi người tham gia vào đời sống xã hội. Hễ là con người xã hội ai cũng có vị thế xã hội.
•
công nhân, nông dân, trưởng phòng, giám đốc, người giàu, người nghèo, giáo viên, bác sĩ, kỹ sư... = những vị thế xã hội.
Vị thế xã hội = địa vị, thứ bậc của chủ thể xã hội, được hình thành trong cơ cấu tổ chức xã hội, tuỳ thuộc vào sự thẩm định và đánh giá của xã hội đối với vị thế đó.
Mỗi vị thế của cá nhân được xác lập qua các tiêu chuẩn mang tính phổ biến trong xã hội như: dòng dõi xuất thân, của cải tài sản, chức vụ, nghề nghiệp, trình độ giáo dục, giới tính, khả năng, quyền lực và quyền uy...
Về mặt tâm lý xã hội, ai cũng muốn vươn lên cải thiện vị thế xã hội của
mình.
Lí do? Những cách thức nâng cao vị thế: Cá nhân/nhóm/quốc gia??? Yếu tố nào quyết định vị thế? Những con đường để mỗi cá nhân giành lấy vị thế cho mình?
Một số tiêu chuẩn phổ quát tạo nên vị thế xã hội: của cải, chức vụ; nghề nghiệp; thành phần xuất thân, học vấn; đặc điểm sinh lí (đẹp/xấu, cao/thấp, nam/nữ, năng khiếu bẩm sinh,..)
• Phân loại vị thế xã hội • Theo hệ thống tổ chức xã hội
TC nhà nước Tổ chức đoàn thể Tổ chức kinh tế & dịch vụ XH
Các chức danh cụ thể
• Theo quyền lực
- 27
VTXH lãnh đạo VTXH bị lãnh đạo • Theo tài sản thu nhập và tri thức Tầng lớp thượng lưu Tầng lớp trung lưu Tầng lớp lao động Tầng lớp nghèo
• Mỗi các nhân có nhiều vị thế XH nhưng bao giờ cũng có một vị thế giữ vai
trò chủ đạo
• Phân loại vị thế xã hội - Vị thế tự nhiên (có sẵn, được gán cho)
[VD: vị thế giới tính – nam hay nữ, vị thế nguồn gốc xuất thân, vị thế lứa tuổi – già hay trẻ, vị thế chủng tộc, màu da, vị thế thứ bậc trong gia đình và dòng họ... ]
- Vị thế xã hội (vị thế đạt được): phụ thuộc vào nỗ lực phấn đấu và sự cố gắng
vươn lên của bản thân. [Ví dụ: Vị thế nghề nghiệp, vị thế trình độ học vấn, vị thế chức vụ xã hội, vị thế phụ thuộc vào mức độ cống hiến cho xã hội...]
• 3 cơ chế cơ bản tạo/sắp đặt vị thế xã hội: Cơ chế tiến cử, Cơ chế bầu cử,
Cơ chế thi cử 3.3.2. VAI TRÒ XÃ HỘI Khái niệm
• Khái niệm vai trò được bắt nguồn từ nghệ thuật sân khấu mỗi cá nhân
đóng một vai trên “sân khấu cuộc đời”
• XHH quan niệm: Vai trò xã hội là một tập hợp những chuẩn mực, hành vi,
nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. [Nhiệm vụ phải làm ứng với những vị thế nhất định]
• Thực hiện vai trò
Khi tiếp nhận một vị thế xã hội nào đó, cá nhân phải thực hiện những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội (= thể hiện vai trò)
Bao giờ cũng có độ chệch nhất định giữa việc thực hiện vai trò với sự kỳ vọng của xã hội dành cho vai trò = trong thực tế, thường tồn tại một khoảng cách giữa cái mà con người sẽ làm và cái mà họ thực sự làm.
Sự chênh lệch lớn chứng tỏ cá nhân không đáp ứng được đòi hỏi của
xã hội Bị chê trách, lên án.
- 28
• Vai trò XH chỉ được thực hiện khi có sự hợp tác của nhóm XH mà cá nhân tham gia vào. VD: không có giáo viên nếu không có học sinh, không có bán
hàng nếu không có khách hàng, sẽ không có người vợ nếu không có người chồng…
• Một cá nhân có nhiều vị thế thì có nhiều vai trò khác nhau Khi thực hiện vai trò, cá nhân không được nhầm lẫn trong việc thực hiện vai trò phù hợp với vị thế xã hội của mình ở từng thời điểm.
• Khi thực hiện vai trò trên thực tế, cá nhân có thể gặp xung đột vai trò hay
căng thẳng vai trò.
• Xung đột vai trò:
Xảy ra khi cá nhân cùng lúc chiếm giữ hai hay nhiều vị thế. Vì cá nhân tham gia nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ phải đáp ứng những mong đợi của các nhóm xã hội đó mà nhiều khi, những trông đợi đó xung đột với nhau về lợi ích.
• Căng thẳng vai trò:
Khi cá nhân thấy những trông đợi của một vai trò không thích hợp với mình. Vì vậy, họ tỏ ra khó khăn trong việc thực hiện vai trò đó, đặc biệt, cá nhân luôn ở trong trạng thái căng thẳng, phải nỗ lực cao để thực hiện vai trò khi vai trò đó được nhiều người có liên quan mong đợi, kỳ vọng, đòi hỏi quá nhiều.
3.3.3. QUAN HỆ GIỮA VỊ THẾ XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI
• Khái niệm vị thế và vai trò không tách rời nhau trong thực tế. [Sự phân biệt
hai khái niệm này chỉ ở trong nhận thức khoa học].
• Vị thế là chỗ đứng của cá nhân trong xã hội. Còn vai trò là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ quyền hạn và nghĩa vụ gắn liền với mỗi vị thế. Không thể có vai trò mà không có vị thế và ngược lại.
3.4. CƠ CẤU XÃ HỘI, PHÂN TẦNG XÃ HỘI 3.4.1. CƠ CẤU XÃ HỘI a. Khái niệm cơ cấu xã hội
- 29
• Xã hội là một tổ chức phức tạp, thể hiện mối liên hệ của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội. khái niệm cơ cấu xã hội để chỉ cách thức tổ chức của một xã hội trong một giai đoạn nhất định của lịch sử.
• KN tiêu biểu: Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội, là mối liên hệ vững chắc của các thành tố xã hội trong hệ thống xã hội. • CCXH = 2 yếu tố:
• (1) các thành phần xã hội tạo thành cơ cấu xã hội (giai cấp, dân tộc,
các nhóm, thiết chế, vị trí, vai trò...).
• (2) mối liên hệ, chi phối lẫn nhau của các thành tố xã hội (quan hệ xã
hội).
• Cơ cấu xã hội (Social structure) là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội. Các cộng đồng xã hội (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội,...) là những thành tố cơ bản. Về phần mình, mỗi cộng đồng xã hội lại có cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong và những mối liên hệ giữa chúng.
(Từ điển BKTT mở) b. Các phân hệ cơ cấu xã hội • Cơ cấu xã hội - giai cấp • Cơ cấu xã hội - học vấn, nghề nghiệp • Cơ cấu xã hội - dân số (nhân khẩu) • Cơ cấu xã hội - lãnh thổ • Cơ cấu xã hội - dân tộc • Cơ cấu xã hội - giai cấp: là hệ thống các giai cấp, tầng lớp, tập đoàn xã hội
và các mối liên hệ giữa chúng.
Là hạt nhân của cơ cấu XH Sự phân chia cơ cấu giai cấp tuỳ thuộc vào mỗi một chế độ xã hội
khác nhau.
Chế độ tư hữu về TLSX được chú trọng khi xem xét cơ cấu giai cấp.
XHH NC cơ cấu giai cấp, nhấn mạnh đến nghiên cứu những tập đoàn người tạo thành các giai cấp cơ bản, chiếm vị trí quyết định đến sự phát triển xã hội.
• Cơ cấu xã hội - học vấn, nghề nghiệp:
- 30
+ Trình độ học vấn phản ánh trình độ phát triển văn hoá kinh tế, mức độ tiến bộ xã hội, quyết định tốc độ phát triển của mỗi quốc gia. + Nghề nghiệp trong xã hội là hệ quả của sự phân công lao động xã hội. Đặc trưng của phân công lao động xã hội là sự phân công lao động theo ngành nghề.
Liên hệ thực tế ở VN!!!
• Cơ cấu xã hội - dân số (nhân khẩu) :
Tìm hiểu quá trình tái sản xuất dân cư (sinh sản, tử vong...), mật độ dân số và cơ cấu dân cư, sự biến động của dân cư (di dân), độ tuổi, tỷ lệ giới tính và cấu trúc thế hệ...
dự báo được quy mô biến đổi và những đặc trưng xu hướng xã hội của dân số, sự tương tác của cơ cấu dân số đến những vấn đề liên quan trực tiếp đến số lượng và chất lượng cuộc sống con người.
• Cơ cấu xã hội - lãnh thổ được nhận diện theo từng vùng lãnh thổ, với địa bàn
cư trú, bản sắc riêng về truyền thống và di sản văn hoá
Cơ cấu khu vực: Nông thôn & Thành thị Cơ cấu theo vùng miền (ví dụ ở VN)
• Nghiên cứu cơ cấu lãnh thổ để đề ra những giải pháp phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền, nhằm phát huy lợi thế, tạo thành động lực trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển xã hội.
• Cơ cấu xã hội - dân tộc (Bao gồm cơ cấu quốc gia dân tộc và thành phần dân tộc) hình thành chủ yếu trên sự khác biệt các dấu hiệu dân tộc như ngôn ngữ, trang phục, phong tục tập quán, tín ngưỡng, nhà ở...
• XHH nghiên cứu phạm vi lãnh thổ, đời sống kinh tế, ngôn ngữ, đời sống văn hoá, tâm lý của các dân tộc, mối quan hệ giữa các thành phần dân tộc trong một quốc gia dân tộc, quan hệ giữa các quốc gia dân tộc với các thành phần dân tộc.
- 31
• THỰC TRẠNG BiẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI VIỆT NAM • Xu hướng? Thảo luận Tác động tích cực/tiêu cực? c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội Nghiên cứu cơ cấu xã hội giúp chúng ta: - Nhận thức được các đặc trưng của một xã hội trong từng giai đoạn phát triển lịch sử, qua đó, phân biệt, so sánh sự khác nhau của xã hội này với xã hội khác.
- Hiểu được các thành phần cơ cấu xã hội, vai trò - chức năng của mỗi thành phần đó trong cơ cấu để đảm bảo tính hệ thống của cơ cấu và nghiên cứu động lực phát triển xã hội. - Thấy được quan hệ tương tác giữa các thành phần của cơ cấu xã hội, hiểu rõ bản chất của các quan hệ đó dưới dạng các quy luật xã hội, từ đó giải thích được hành vi của các cá nhân, các nhóm và toàn bộ xã hội trong những thời gian và không gian cụ thể. Nhìn rõ bức tranh tổng quát về xã hội, từ đó có thể hoạch định chiến lược, xây dựng mô hình cơ cấu xã hội tối ưu đảm bảo sự vận hành hiệu quả, thực hiện tốt các vai trò xã hội theo chiều hướng tiến bộ. - Có cơ sở khoa học để vạch ra một chính sách xã hội đúng đắn, nhằm phát huy những nhân tố tích cực, điều chỉnh và khắc phục những hiện tượng lệch chuẩn, những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động xã hội.
3.4.2. PHÂN TẦNG XÃ HỘI • Khái niệm: Phân tầng xã hội là trạng thái phân chia xã hội ra thành các tầng xã hội khác nhau theo những đặc điểm tương đồng về các địa vị chính trị, địa vị kinh tế, uy tín xã hội (về trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách ứng xử trong giao tiếp và thị hiếu...)
• Tầng xã hội > giai cấp trong xã hội. • Nguồn gốc của sự phân tầng xã hội:
- Sự phân chia giai cấp và xung đột giai cấp - Quá trình phân công lao động xã hội.
• Phân tầng xã hội thể hiện thực tế của bất bình đẳng xã hội trong quan hệ của
các nhóm xã hội khác nhau.
- 32
• Phân tầng xã hội diễn ra sớm trong xã hội cổ đại Trung Hoa [Quân tử/ tiểu nhân; Sĩ/ Nông/ Công/ Thương], Ấn Độ (tăng lữ - chiến binh – thợ thủ công, người làm ruộng, thương nhân – nộ lệ, đầy tớ) Sự phân tầng thường được mô tả dưới dạng các tháp phân tầng với những hình dáng khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi loại xã hội. Có 5 kiểu thường gặp: (1)-Tháp hình nón: phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội. Ở đó, nhóm người giàu, có quyền lực (đỉnh tháp) chiếm tỷ lệ rất thấp, trong khi đa số nghèo khổ (Đáy tháp) lại chiếm tỷ lệ cao ; (2)- Tháp hình nón cụt: tầng
lớp giàu có tăng lên nhưng tầng lớp nghèo vẫn chiếm đa số; (3)- Tháp hình thoi (quả trám): cả hai nhóm giàu và nghèo chiếm tỷ lệ nhỏ, nhóm trung lưu chiếm đa số nằm ở phần thân tháp. Tuy nhiên, khoảng cách giữa hai nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa. Việt Nam thuộc loại tháp này; (4)- Tháp hình trụ: tỷ lệ các nhóm giàu có, trung lưu và nghèo tương đối đồng đều. Tuỳ vào chiều cao của tháp để nói về mức độ bình đẳng xã hội; (5)- Tháp hình đĩa bay, thấp dẹt: có thể có hai trạng thái, bình quân nghèo khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân với tuyệt đại bộ phận các thành viên trong xã hội có mức sống trung lưu và khá giả.
Các hệ thống phân tầng xã hội: Dựa vào tính cơ động xã hội và kiểu xã hội,
các nhà XHH chia thành hai hệ thống phân tầng xã hội điển hình:
+ Hệ thống phân tầng trong xã hội đẳng cấp (hệ thống phân tầng đóng): ranh giới giữa các tầng xã hội hết sức rõ rệt và được duy trì một cách nghiêm ngặt. Địa vị của mỗi người được quy định ngay lúc mới sinh ra bởi nguồn gốc, dòng dõi của cha mẹ mình. Như vậy, những thành viên trong cùng đẳng cấp đều có chung một địa vị được gán cho sẵn, chứ không phải địa vị đạt được, do vậy tính cơ động xã hội thấp. Hệ thống này duy trì việc nội giao và cấm các thành viên thuộc các đẳng cấp khác nhau xây dựng hôn nhân với nhau. Xã hội điển hình cho hệ thống đóng là xã hội Ấn Độ thời phong kiến, chia các cá nhân trong xã hội thành 4 đẳng cấp: tăng lữ, quý tộc, bình dân và nô lệ.
- 33
+ Hệ thống phân tầng trong xã hội có giai cấp (hệ thống phân tầng mở): ranh giới giữa các tầng xã hội không quá cứng nhắc và cách biệt như trong xã hội đẳng cấp mà mềm dẻo hơn; địa vị của cá nhân thường phụ thuộc vào nghề nghiệp và thu nhập của họ, đồng thời, pháp luật đã chính thức huỷ bỏ sự cấm kỵ hôn nhân giữa các tầng xã hội. Trong hệ thống này, tính cơ động xã hội cao, cá nhân thường chiếm giữ những địa vị đạt được (xã hội càng phát triển thì địa vị đạt được càng nổi trội, địa vị gán cho sẽ mờ dần). Cá nhân thay đổi địa vị của mình phụ thuộc vào nỗ lực của bản thân họ. b. Các lý thuyết về bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội (tự nghiên cứu sgk) - Lý thuyết chức năng - Lý thuyết xung đột - Quan niệm của Marx về phân tầng xã hội - Lý thuyết dung hoà
c. Phân tầng xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay (nghiên cứu các tài liệu liên quan) 3.5. XÃ HỘI HÓA, VĂN HÓA 3.5.1. XÃ HỘI HÓA a. Khái niệm xã hội hóa Hiện nay, khái niệm xã hội hoá được hiểu trên hai nội dung:
o Thứ nhất, xã hội hoá chỉ sự tăng cường chú ý quan tâm của xã hội đến những vấn đề, sự kiện cụ thể nào đó của xã hội mà trước đây chỉ có một nhóm, một bộ phận của xã hội quan tâm như xã hội hoá giáo dục, xã hội hoá y tế... (quá trình xã hội hoá các vấn đề, sự kiện xã hội). o Thứ hai, xã hội hoá dùng để chỉ quá trình chuyển biến từ chỉnh thể sinh vật với đầy đủ các tiền đề tự nhiên đến một chỉnh thể đại diện của xã hội loài người. Đây chính là quá trình xã hội hóa cá nhân và chính là nội dung quan tâm của XHH.
Nhờ quá trình xã hội hoá, chúng ta có khả năng giao tiếp với nhau, nắm vững các vai trò xã hội nhất định của mình và thậm chí xã hội tạo điều kiện cho sự duy trì bản thân xã hội.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về xã hội hoá. Căn cứ vào tính chủ động của cá nhân trong quá trình xã hội hoá, ta nhìn nhận xã hội hóa trên hai phương diện: Thứ nhất: Cá nhân thu nhận kinh ngiệm từ xã hội và học các chuẩn mực, khuôn mẫu một cách tự nhiên mà không thể chống đối lại được (cá nhân ít tính chủ động trong quá trình xã hội hoá). Nói cách khác, ở phương diện này, xã hội truyền cho cá nhân, hướng đến cá nhân, ảnh hưởng đến cá nhân. Ví dụ cách nuôi dạy một đứa trẻ, những lời chỉ bảo của cha mẹ phải được đứa trẻ làm đúng theo, nếu không sẽ bị trách mắng. Những kinh nghiệm, khuôn mẫu trên tùy thuộc vào cách nhìn của xã hội ở từng nơi, từng thời điểm, từng giai đoạn của cuộc sống và cá nhân không có quyền tự lựa chọn.
Thứ hai: Cá nhân không chỉ tiếp thu những kinh nghiệm xã hội mà còn tham gia vào quá trình tạo ra các kinh nghiệm xã hội (khẳng định tính tích cực, sáng tạo của cá nhân trong quá trình xã hội hoá).
- 34
Từ hai cách hiểu này mà có nhiều khái niệm xã hội hoá khác nhau:
- Xã hội hoá là quá trình, trong đó các cá nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình để phục vụ tốt cho việc thực hiện các mô hình hành vi tương ứng với hệ thống vai trò mà cá nhân phải đóng trong cuộc đời mình. (Neil Smelser - Mỹ)
- Xã hội hoá là một quá trình tương tác giữa người này và người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và sự thích nghi với những khuôn mẫu. (Fichter - Mỹ)
- Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt, cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập vào xã hội, vào hệ thống xã hội; mặt khác, cá nhân tái sản xuất một cách có chủ động các mối quan hệ thông qua việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các quan hệ xã hội. (Andreeva - Nga)
- Xã hội hoá là quá trình thích ứng và cọ sát với các giá trị, chuẩn mực và hình mẫu hành vi xã hội mà trong quá trình đó, một thành viên xã hội tiếp nhận và duy trì khả năng hoạt động xã hội (Từ điển XHH)
Mặc dù có nhiều quan điểm, nhưng các nhà khoa học đều thống nhất ở điểm chung: xã hội hóa là một quá trình, tức có mở đầu, có diễn biến và kết thúc. Xã hội hoá trước hết là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó cá nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hoá của xã hội như khuôn mẫu tác phong xã hội, chuẩn mực giá trị văn hoá xã hội để hoà nhập vào xã hội cũng như đáp ứng các kỳ vọng của xã hội Như vậy, thực chất của quá trình xã hội hóa là tạo ra nhân cách cho mỗi con người trong xã hội.b. b. Quá trình xã hội hóa
Khi bàn về các giai đoạn của quá trình xã hội hoá, có nhiều quan điểm, nhiều trường phái và họ đều có sự đánh giá khác nhau về tầm quan trọng của từng giai đoạn. Sau đây là phân đoạn của một số tác giả:
- Phân đoạn quá trình xã hội hóa của G.Mead (Nhà XHH người Mỹ). Theo
Mead, quá trình xã hội hóa trải qua ba giai đoạn chính:
+ Bắt chước: Đây là giai đoạn mà con người sao chép hành vi của người
khác một cách bị động hoặc chủ động
+ Đóng vai: Đây là giai đoạn mà con người đã nhận thức được những hành vi tương ứng với vai trò xã hội nhất định, đặc biệt là các vai trò trong phạm vi quan sát được...
- 35
+ Trò chơi: Giai đoạn này con người cần phải biết được sự đòi hỏi không phải chỉ một cá nhân nào đó mà là của xã hội nói chung. Giai đoạn này đã giúp cho
con người thấy rõ được cái tôi chủ động, cái tôi bị động và cái chúng ta, phân biệt rõ mình, người khác và cộng đồng. Đây là cơ sở để con người hòa chung vào cuộc sống cộng đồng.
- Phân đoạn quá trình xã hội hóa của G. Andreeva (Nhà XHH người Nga)
3 giai đoạn:
+ Giai đoạn trước lao động: Giai đoạn này gồm hai giai đoạn nhỏ là: Giai đoạn trẻ thơ (từ lúc trẻ sơ sinh đến lúc đi học) - đứa trẻ tiếp thu một cách thụ động và máy móc các hành vi và là giai đoạn vui chơi ở nhà hoặc vườn trẻ, nhà mẫu giáo. Giai đoạn học hành là giai đoạn đứa trẻ tiếp nhận trí thức và kỹ năng lao động.
+ Giai đoạn lao động: Bắt đầu từ khi cá nhân tham gia lao động và kết thúc khi không tham gia lao động (về hưu). Giai đoạn này, cá nhân vừa tiếp thu kinh nghiệm xã hội, vừa tích lũy kinh nghiệm cá nhân, vừa bộc lộ năng lực hành vi trong các hoạt động hàng ngày.
+ Giai đoạn sau lao động: Đó là khi cá nhân kết thúc quá trình lao động của
Giai đoạn này được đánh giá là vô cùng quan trọng trong quá trình xã hội hóa vì một số lý do: Con người tiếp thu, củng cố, phát triển các tri thức, kinh nghiệm xã hội để nâng cao năng lực hành vi cá nhân; Lao động đã giúp cho con người hiểu rõ được cái tôi và cái chúng ta để sống hòa đồng vào cộng đồng xã hội; Lao động là quá trình thể hiện năng lực hành vi cá nhân có ích cho xã hội và tham gia đóng góp, xây dựng xã hội phát triển; Lao động thể hiện rõ vai trò của cá nhân trong xã hội, là cơ sở để đánh giá và củng cố năng lực hành vi cá nhân. mình, về nghỉ hưu.
Tuy còn tồn tại nhiều cách phân đoạn khác nhau dựa trên nhiều căn cứ khác nhau nhưng các nhà XHH gần như thống nhất với nhau về ba giai đoạn của quá trình xã hội hoá.
* Giai đoạn xã hội hoá ban đầu của trẻ trong gia đình. * Giai đoạn xã hội hoá diễn ra trong nhà trường. * Giai đoạn con người thực sự bước vào đời để đảm nhận vai trò mà hai giai
đoạn trước đã được chuẩn bị đầy đủ.
- 36
Ranh giới giữa các giai đoạn này không phải lúc nào cũng rõ ràng. Vì trong thực tế, cá nhân có thể đã đi làm, đã có gia đình nhưng vẫn tiếp tục học tập và có nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh ở cơ quan hay trong quan hệ vợ chồng, họ vẫn tìm
đến cha mẹ để tìm một lời khuyên. Như vậy, quá trình xã hội hoá chỉ chấm dứt khi cuộc sống của chúng ta chấm dứt mà thôi. c. Môi trường xã hội hóa
Môi trường xã hội hóa là nơi cá nhân có thể thực hiện thuận lợi các tương tác xã hội của mình, nhằm mục đích thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội. Dù có bản chất xã hội và tiền đề tự nhiên phù hợp, con người có thể không trở thành một nhân cách hoàn thiện, nếu không được đặt trong môi trường thích hợp.
- 37
Có các môi trường xã hội hóa cơ bản sau: - Gia đình: Gia đình là môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai đoạn xã hội hóa ban đầu. Bởi vì quá trình xã hội hoá của một người từ những năm tháng đầu tiên của cuộc đời có ảnh hưởng quyết định tới những thái độ và hành vi khi đã lớn. Cho nên gia đình được coi là nhóm người đầu tiên mà mỗi cá nhân xã hội phải phụ thuộc vào. Gia đình là khuôn khổ cần thiết cho sự phát triển của đứa trẻ, làm cho sự trưởng thành sinh học và những mối liên hệ của nó phù hợp với môi trường. Với tư cách là một quá trình liên tục, xã hội hóa của gia đình diễn ra suốt cả cuộc đời con người. Gia đình tham gia vào tất cả các giai đoạn xã hội hoá trong chu trình sống của con người từ giai đoạn tuổi ấu thơ cho đến giai đoạn cuối cùng của chu trình sống là chuẩn bị đón nhận cái chết. Ở giai đoạn nào, vai trò của gia đình cũng thể hiện rất rõ. Trong môi trường gia đình, xã hội hóa thể hiện tính chất hai chiều: Xã hội hóa không chỉ cần thiết đối với con cái, đối với trẻ em mà còn cần thiết đối với bố mẹ và người lớn tuổi. Xã hội hóa không chỉ gồm những điều cha mẹ truyền cho con cái mà còn cả những điều con cái mang lại cho cha mẹ mình. Quá trình tương tác giữa cha mẹ và con cái có thể làm thay đổi những chuẩn mực ứng xử, cách thức, phương thức quan hệ do lớp trẻ tiếp cận nhanh chóng hơn với sự đổi mới về văn hóa và hệ thống giá trị, không dừng lại ở tiếp thu những chuẩn mực và giá trị của những thế hệ trước đây. - Trường học: Trong các trường học, hoạt động chủ đạo của cá nhân là học tập, các cá nhân thu nhận những kiến thức khoa học cơ bản về tự nhiên và xã hội, các kiến thức văn hoá chủ yếu làm nền tảng cho cuộc sống sau này. Những kiến thức này, sẽ phục vụ đắc lực cho việc thực hiện vai trò mà cá nhân cần phải đóng trong tương lai.
Nhưng dưới sự nhìn nhận của các nhà XHH, khi trẻ đến trường, nó không chỉ học các kiến thức mà còn học cả những quy tắc và những cách thức xác định hành vi. Như học cách làm sao có quan hệ tốt hơn với bạn bè, thầy cô giáo, sao cho mọi người đều yêu mến và chấp nhận mình. Vì vậy, trong giai đoạn này, cá nhân thực hiện rất nhiều tương tác và nhiều quan hệ xã hội của họ cũng được thiết lập. Xã hội hoá trong môi trường trường học đặc biệt chú trọng đến vai trò của sự giao tiếp giữa thầy và trò ở trường vì đó là cơ sở của những trao đổi làm phong phú tri thức và nhân cách của đứa trẻ, trong đó người thầy giáo giữ vị trí chủ đạo không phải như một quyền uy độc đoán mà như một người hướng dẫn các giá trị xã hội.
- Các nhóm xã hội: Đó là các nhóm mà cá nhân là thành viên. Các nhóm này có ý nghĩa quan trọng trong việc cá nhân thu nhận các kinh nghiệm xã hội theo con đường chính thức và không chính thức, đặc biệt là nhóm bạn bè có chức năng là thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, nhu cầu giải trí giữa các cá nhân. Tuy nhiên, trong thực tế, quan hệ giữa các nhóm xã hội cũng là tác nhân quan trọng ảnh hưởng nhiều đến quá trình xã hội hóa
Quan hệ bạn bè là quan hệ bình đẳng, cùng vị thế xã hội nên các cá nhân thường dễ dàng chia sẽ thái độ, tâm tư và cảm xúc với nhau. Quan hệ đồng nghiệp giúp các thành viên chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm hoặc những quan hệ cạnh tranh như là động lực giúp cá nhân tiến bộ hơn trong công việc. Quan hệ đồng sở thích giúp mọi người tìm được hứng thú trong hoạt động và sự đồng cảm trong cuộc sống…
- Thông tin đại chúng: Các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình xã hội hoá vì hiện nay, đây là phương tiện cung cấp thông tin chủ yếu của các cá nhân. Qua đó, chúng phổ biến tư tưởng, giá trị và niềm tin mà xã hội mong muốn.
- 38
Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông cũng có thể làm méo mó, lệch lạc việc tiếp nhận các giá trị qua các chương trình không lành mạnh do tính thương mại hoá hoặc thiếu thận trọng của các nhà truyền thông (tin tức giật gân, câu khách: lối sống hưởng thụ, bạo lực,…)
Mặt khác, nhiều nhà XHH cho rằng truyền thông thể hiện ý thức hệ chủ đạo, nó có khuynh hướng thể hiện quyền lợi của phần tử ưu tú. Thông qua thời lượng cũng như cách thức những gì được chuyển tải qua các phương tiện truyền thông, xã hội bị ảnh hưởng bởi những khuôn mẫu giá trị, cũng như quyền lợi của những nhóm thứ yếu bị xem nhẹ vì họ không nắm giữ các phương tiện truyền thông. Như vậy, môi trường xã hội hoá có thể chia thành môi trường chính thức và phi chính thức: cá nhân thu nhận và tái tạo kinh nghiệm xã hội nhằm thực hiện tốt vai trò của mình thông qua con đường giáo dục (chính thức) và toàn bộ sự dạy dỗ của xã hội đến cá nhân (phi chính thức).
Có thể nói, xã hội hoá là một khái niệm có tính quyết định trong XHH, vì nó quan tâm tới quá trình cá nhân hoà nhập vào xã hội và có được những phẩm chất xã hội mong muốn. Thực chất, đây là quá trình cá nhân dần dần nhập tâm những giá trị và chuẩn mực xã hội đề ra để biến chúng thành giá trị, chuẩn mực của mình. Quá trình xã hội hoá được thực hiện thông qua "cá nhân hoá" các giá trị, chân lý, các quy tắc ứng xử. Vì vậy, xã hội hoá là cần thiết cho sự hình thành cá nhân của con người, để cho con người phát triển chủ thể của xã hội.
3.5.2. VĂN HÓA a. Khái niệm văn hóa
Văn hoá là một khái niệm hết sức đa nghĩa, phức tạp và khó xác định, bởi nó thể hiện trong toàn bộ mọi hoạt động, mọi lĩnh vực của xã hội, của cộng đồng, của mỗi gia đình cho tới từng cá nhân. Cho đến nay, người ta đã thống kê có tới hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Có thể nói, có bao nhiêu nhà nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa văn hóa Về mặt thuật ngữ, văn hoá bắt nguồn từ tiếng latinh: "Cultus" - Gieo trồng. Nếu là Cultus Agri thì có nghĩa là gieo trồng ruộng đất, còn nếu là Cultus Animi thì có nghĩa là gieo trồng tinh thần hoặc sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người và văn hoá được dùng theo nghĩa này. Cụ thể như nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): "Lao động giành cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần".
- 39
Từ ý nghĩa văn hoá là sự gieo trồng tinh thần mà các nhà khoa học đã đưa ra những khái niệm khác nhau về văn hoá, có thể kể ra một số khái niệm như: Văn
hoá là toàn bộ cách sống của một dân tộc; Văn hoá là một tập hợp những quan niệm, giá trị, chuẩn mực và những mục tiêu mọi người trong xã hội cùng nhau chia sẻ trong đời sống hoạt động hàng ngày của họ; Văn hoá là một tổng thể phức tạp, bao gồm các hiểu biết, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, thói quen và bất kỳ một năng lực nào khác mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội (theo Dân tộc học); Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội và đặc trưng cho trình độ đạt được trong sự phát triển lịch sử của xã hội. Điều đó có nghĩa là, những gì không phải là tự nhiên, do con người sáng tạo ra thì là văn hoá, như Marx nói, văn hoá là thế giới tự nhiên thứ hai của con người (theo Triết học).
Đối với các nhà XHH: Văn hoá là sản phẩm của con người, là cách quan niệm về cuộc sống, tổ chức cuộc sống và sống cuộc sống ấy. XHH nhìn văn hóa là những chân lý, những giá trị, những chuẩn mực, những mục đích mà con người chia sẻ với nhau trong tương tác trải qua thời gian.
Tóm lại, văn hoá là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội. Nó bao gồm một hệ thống các giá trị, cơ cấu, kỹ thuật, thể chế, các hệ tư tưởng... được hình thành trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, được bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ sau. Vì vậy, văn hoá có chức năng như là một khuôn mẫu chuẩn mực quy định các hành vi xã hội của cá nhân. Mỗi cá nhân, muốn trở thành con người xã hội, muốn hoà nhập vào cộng đồng thì phải tiếp thu, tuân thủ các chuẩn mực của văn hoá.
Nền văn hóa của một dân tộc bao gồm hai bộ phận. Văn hóa vật thể (văn hóa vật chất) và văn hóa phi vật thể (văn hóa tinh thần). Văn hóa vật thể là một bộ phận quan trọng cấu thành nên nền văn hóa, bao gồm những đồ dùng trong đời sống, nhà cửa, phương tiện đi lại, công cụ lao động, những sản phẩm nghệ thuật... Văn hóa vật thể thường gắn chặt với giá trị tinh thần, là biểu hiện của giá trị tinh thần. Ngược lại, văn hóa phi vật thể bao gồm những lĩnh vực văn hóa mà ta không sờ mó được, như các khuôn mẫu hành vi, các qui tắc, giá trị, thói quen, tập quán, phong tục ... Văn hóa tinh thần được hình thành trong một thời gian lâu dài và khi đã ổn định thì ít có sự thay đổi. b. Cơ cấu văn hóa
- 40
Dưới góc độ XHH, cơ cấu văn hoá là những thành tố mà các thành viên của cộng đồng cùng chia xẻ với nhau. Như trên đã trình bày, XHH nhìn văn hóa là
những chân lí, những giá trị, những chuẩn mực, những mục tiêu mà con người cùng chia sẻ với nhau trong tương tác trải qua thời gian.
- Chân lí Văn hóa là chân lí, không có chân lí của cá nhân, mà chỉ có chân lí của một tập thể, nhóm, cộng đồng ... Có rất nhiều quan niệm khác nhau về chân lí, có người thì cho rằng “chân lí là những nguyên lí được nhiều người tán thành và thừa nhận”. Dưới góc độ XHH, chân lí “là những quan niệm về cái thật và cái đúng”. Mỗi nền văn hóa đều có quan niệm về cái thật, cái đúng khác nhau nên có những cái mà nền văn hóa này gọi là chân lí nhưng nền văn hóa khác cho không phải là chân lí.
Chân lý hình thành thông qua nhóm người. Qua tiếp xúc, tương tác, hình thành nên những ý kiến cho là đúng, là thật, ngày càng có tính khách quan hơn, gần với hiện thực hơn. Vì vậy, hiện thực khách quan, những sự vật, hiện tượng, những quá trình cụ thể của xã hội là nguồn gốc của chân lý. Đồng thời, do chân lý gắn liền với những điều kiện khách quan lịch sử cụ thể nên khi những điều kiện này thay đổi thì chân lý khách quan cũng thay đổi theo. Chân lý là những xuất phát điểm để cho các thành viên nhìn nhận, đánh giá những hành vi, ứng xử, để cùng nhau chia sẻ trong hoạt động chung. Nhờ vào chân lý mà các thành viên hợp tác được với nhau, phân biệt được cái gì là đúng, cái gì là sai. Từ đó, họ điều chỉnh hành vi trong hoạt động cùng với những người khác. - Giá trị Rất khó đưa ra một khái niệm xác định, mô tả đầy đủ phạm vi và tính đa dạng của những hiện tượng giá trị. Tuy nhiên, trong khoa học xã hội, người ta coi giá trị là cái đáng có, đáng khâm phục, đáng noi theo và ảnh hưởng tới hành vi hoạt động của cá nhân, là cái mà những người khác căn cứ để đánh giá các hành vi, khuôn mẫu tác phong của các thành viên trong một nhóm, một xã hội.
Giá trị luôn gắn liền với nhận thức và tình cảm của chủ thể. Khi đã nhận thức được, chúng trở thành tiêu chuẩn để lựa chọn, để hướng tới và dùng nó để phán xét. Vì vậy, giá trị luôn chi phối và hướng dẫn hành động của con người. Nhờ vào giá trị mà xã hội có được sự hoạt động ăn khớp và các thành viên của chúng có thể đồng cảm và chia sẻ quan niệm để cùng hoạt động.
- 41
Các cá nhân đều tiếp nhận giá trị ngay từ khi còn nhỏ, thông qua gia đình, quan hệ xã hội (bạn bè, nhóm xã hội....), các phương tiện thông tin đại chúng và
các nguồn khác. Từ đó, nó trở thành một phần nhân cách của cá nhân. Nhưng do nhận thức, điều kiện, môi trường hoàn cảnh sống... mà giữa mọi người thường có những hệ giá trị khác nhau, có thể phù hợp với hệ giá trị chung của toàn xã hội, hoặc mâu thuẫn, xung đột với hệ giá trị của các cá nhân khác, của cả xã hội. Ví dụ, có người coi sự ổn định của gia đình là quan trọng, nhưng có những thành viên không coi trọng điều này. Vì thế mà có những gia đình chấm dứt sự tồn tại của mình bằng sự ly hôn....
Giá trị cũng luôn luôn thay đổi, tuỳ theo hoàn cảnh. Như có người đang coi trọng sự trung thực, chung thuỷ, ái quốc, tình bạn, tình người....nhưng vì một lý do nào đấy lại quay sang các giá trị như lừa dối, phản bạn, sát nhân, loạn luân... Nhưng nhìn chung, các giá trị mang tính tích cực giúp cá nhân định hướng hoạt động phù hợp với quan niệm của xã hội mà anh ta đang sống. Khi đó, anh ta mới được coi là một con người có văn hoá. Trong một nền văn hoá, giá trị biểu hiện qua những khuôn mẫu tác phong, mô hình hành vi được coi là có giá, đáng trọng và được các thành viên noi theo. Vì vậy, nó có chức năng điều chỉnh các cá nhân để họ có những hành động phù hợp. Từ đó, duy trì được trật tự xã hội.
- Mục tiêu Văn hóa là một bộ các mục tiêu. Mục tiêu được xem như là cái đích thực tế mà chúng ta cần phải hoàn thành, và chúng ta tổ chức mọi hành động của mình xoay quanh những cái đích thực tế đó. Mục tiêu là là bộ phận của văn hóa và phản ánh văn hóa của một dân tộc.
Mục tiêu được coi là một trong những yếu tố cơ bản của hành vi và hành động có ý thức của con người. Mục tiêu là sự dự đoán trước kết quả hành động, là cái đích thực tế cần phải hoàn thành. Trong cuộc sống, con người tổ chức mọi hành động của mình xoay quanh những cái đích thực tế.
Mục tiêu có hai loại: mục tiêu cá nhân và mục tiêu chung (cộng đồng, xã hội). Mục tiêu chung được tạo thành do sự đồng ý, thống nhất của các mục tiêu cá nhân hay có sự trùng hợp giữa một vài mục tiêu cá nhân của các thành viên trong nhóm với mục tiêu chung. Mục tiêu là một bộ phận của văn hoá và phản ánh văn hoá của một dân tộc.
- 42
Mục tiêu chịu ảnh hưởng của giá trị. Tuy nhiên, mục tiêu khác với giá trị. Giá trị nhằm vào một cái gì đó nặng về tư tưởng, có hướng dẫn thì mục tiêu nhằm
vào một cái gì đó cụ thể mà con người tổ chức hành động. Ví dụ trong việc thi cử, đề ra giá trị trung thực thì mục tiêu sẽ là không sử dụng tài liệu trong khi thi; hay giá trị là muốn có điểm cao thì mục tiêu sẽ là bao nhiêu điểm để phấn đấu.
Các tổ chức xã hội tồn tại được là do sự tương tác của các thành viên khi cùng nhau chia sẻ những mục tiêu và giá trị chung. Vì vậy, muốn củng cố tổ chức xã hội thì phải củng cố giá trị và mục tiêu. - Chuẩn mực: Chuẩn mực là các qui tắc ứng xử, chúng qui định con người là tốt hay xấu, là thích hợp hay không thích hợp. Chuẩn mực xác định rõ cho mọi người những việc nào nên làm, những việc nào không nên làm và cần phải xử sự như thế nào cho đúng trong các tình huống khác nhau.
Mỗi nền văn hóa đều có một hệ thống các chuẩn mực riêng, chúng tạo thành một hệ thống tham gia vào sự kiểm soát xã hội và điều tiết các hành vi, các ứng xử của cá nhân và của đoàn thể trong nền văn hóa. Đối với các thành viên trong một nền văn hóa chuẩn mực được coi như là một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến, nhờ đó mà xã hội được ổn định. Với chức năng là điểm tựa cho hành vi, chuẩn mực điều chỉnh toàn bộ lĩnh vực quan hệ của con người, chỉ ra và quy định mỗi người cần phải xử sự như thế nào trong những tình huống cụ thể. Chuẩn mực gồm một số loại sau:
+ Căn cứ vào mức độ cộng đồng, có: chuẩn mực của toàn xã hội (chuẩn mực chung), chuẩn mực cuả các hệ thống xã hội nhỏ (chuẩn mực nhóm) và chuẩn mực của từng địa vị xã hội (chuẩn mực riêng).
+ Căn cứ vào mức độ thiết chế hoá, có: chuẩn mực được thiết chế hoá và
chuẩn mực không được thiết chế hoá.
+ Căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của sự trừng phạt đối với sự vi phạm, có: lề thói và phép tắc. Trong đó, lề thói là thói quen xã hội từ lâu đã thành nếp, là những tục lệ, quy ước, quy tắc xử sự đối với hành vi của con người trong nhóm, trong xã hội. Còn phép tắc là những quy tắc, lề lối phải tuân theo (luật pháp).
- 43
Trong mọi nền văn hóa đều có những chuẩn mực mang tính phổ quát như phải hiếu thảo với cha mẹ, phải kính trọng người già, phải giúp người khi gặp hoạn nạn, không được trộm cắp, không được giết người ... Chuẩn mực quan trọng nhất đối với mọi xã hội là pháp luật, pháp luật là những chuẩn mực có tính pháp chế. Pháp luật qui định cụ thể hành vi nào không nên làm và có kèm theo
hình phạt đối với những ai vi phạm pháp luật.
Trong thực tế, chuẩn mực xã hội không bao giờ có tính tuyệt đối, chúng thay đổi tùy nền văn hóa. Ở nền văn hóa này quy định điều này không nên làm, trong khi ở nền văn hóa khác thì người ta được phép làm. Chuẩn mực còn thay đổi theo hoàn cảnh và thời gian.
* Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (sinh
- 44
Tóm lại, chuẩn mực là cơ sở để đánh giá, là hình thức tối cao và hoàn hảo để chọn lựa. Nó là khuôn mẫu văn hoá, được đem so sánh với các hiện tượng hay sự kiện khác đang tồn tại trong một bối cảnh cụ thể. viên tìm hiểu). CHƯƠNG 4. MỘT SỐ KIẾN THỨC XÃ HỘI HỌC CHUYÊN NGÀNH 4.1. XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH 4.1.1. Gia đình và xã hội học gia đình Các cách tiếp cận về gia đình Đối tượng nghiên cứu của xã hội học gia đình Nhiệm vụ của xã hội học gia đình 4.1.2. Chức năng, cơ cấu, quy mô gia đình Chức năng chủ yếu của gia đình Cơ cấu gia đình Gia đình kép mở rộng, gia đình đơn, Gia đình mẫu hệ - thế hệ mới, gia đình thiếu, gia đình pha trộn. Quy mô gia đình Gia đình truyền thống, gia đình hiện đại. 4.1.3. Vấn đề hôn nhân và li hôn Khái niệm hôn nhân [ thiết chế XH nhỏ] Những đặc điểm cơ bản của hôn nhân trong xã hội Việt Nam ngày nay Ly hôn vấn đề hậu li hôn 4.1.4. Một số vấn đề về gia đình Việt Nam hiện nay Đặc điểm của gia đình truyền thống Việt Nam Một số vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa hiện nay Những đặc điểm cơ bản của hôn nhân trong xã hội Việt Nam hiện nay
Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà, đó là hôn nhân một vợ một chồng. Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Cơ sở của sự tự nguyện là tình yêu chân chính của nam và nữ. Hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa người đàn ông và người đàn bà, về địa vị xã hội, về kinh tế và về văn hóa. Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà theo quy định của pháp luật. Đặc điểm gia đình truyền thống VN Gia đình truyền thống Việt Nam là gia đình phong kiến gia trưởng, đông con, sống theo truyền thống nho giáo, vì vậy, ổn định hơn các gia đình ở Phương Tây và có đặc điểm cơ bản sau: Kinh tế gắn liền với nông thôn, nông nghiệp, quy mô sản xuất nhỏ, tiểu nông; Là gia đình hạt nhân hay nữa hạt nhân; Có truyền thống chia ruộng đất, gia sản cho con cái (khi lập gia đình). Một số vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam dưới tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa hiện nay
- Về quy mô gia đình: Giảm dần, chuyển từ GĐ truyền thống sang GĐ hạt
nhân hiện đại VĐ đặt ra?
- Về vai trò người phụ nữ trong gia đình đã bình đẳng với nam giới hoàn
toàn chưa?
- Về giáo dục gia đình sự tác động/vai trò của gia đình đối với việc nuôi
dạy con cái hiện nay?
- Vấn đề dân số - kế hoạch hóa gia đình
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên gắn kết với nhau bởi quan hệ hôn nhân, huyết thống; có tính cộng đồng về sinh hoạt, có chức năng xã hội hoá và tái sản xuất con người. Gia đình là hạt nhân, là tế bào quan cơ bản của XH. 4.2. XÃ HỘI HỌC NÔNG THÔN 4. 2.1. Khái quát chung về nông thôn và xã hội học nông thôn
- 45
• Khái niệm nông thôn; XHH nông thôn • Đối tượng nghiên cứu của xã hội học nông thôn
• Vài nét về sự hình thành và phát triển của nông thôn • Những đặc trưng cơ bản của xã hội nông thôn
4.2.2. Một số nội dung nghiên cứu của xã hội học nông thôn
• Nhóm nghiên cứu tính chỉnh thể • Nhóm nghiên cứu tính phức thể
4.2.3 Xã hội nông thôn Việt Nam
• Đặc trưng của xã hội nông thôn Việt Nam • Sự hình thành và phát triển của xã hội nông thôn Việt Nam • Phương hướng xây dựng và phát triển của xã hội nông thôn nước ta hiện nay • Khái niệm
Nông thôn: Hiểu theo cách thông thường, đơn giản nhất: Nông thôn là những vùng dân cư sống bằng nông nghiệp, dựa vào tiềm năng tự nhiên của môi trường để sinh sống và tạo ra của cải tự nhiên sẵn có, dần dần tiến đến canh tác, tái tạo ra của cải để nuôi sống mình. Xã hội học nông thôn là một môn khoa học nghiên cứu các vấn đề, các sự kiện và những quy luật đặc thù của hệ thống xã hội nông thôn, xét trong toàn bộ tính chỉnh thể và phức thể phức tạp, đa dạng, phong phú của nó trong hiện thực.
• Đối tượng nghiên cứu XHH NT
- Nghiên cứu tính quy luật của xã hội nông thôn: các quy luật chung, quy luật đặc thù, quy luật chức năng, quy luật vận động lịch sử xã hội nông thôn, quy luật nhân quả xã hội nông thôn…
- Nghiên cứu những hiện tượng xã hội nông thôn, những vấn đề liên quan đến sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội nông thôn, mối quan hệ của nông thôn với các lĩnh vực khác.
- Nghiên cứu các chính sách kinh tế xã hội đối với nông thôn, cơ sở, pháp luận khoa học xã hội của chiến lược và sách lược cải tạo nông thôn cũ, xây dựng nông thôn mới.
• Sự hình thành và phát triển nông thôn
- 46
- Thời kỳ công xã thị tộc: Đây là thời kỳ đầu, con người sông thành bầy, đàn, dựa vào thiên nhiên để săn bắt, hái lượm. - Thời kỳ công xã nông thôn: Dần dần do sự phát triển các quan hệ xã hội và hoạt động xã hội, đã xuất hiện hình thức công xã nông thôn (chủ yếu là quan hệ giữa địa chủ và nông dân).
- Thời kỳ văn minh nông thôn (từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp) hiện tại
• Những đặc trưng cơ bản của xã hội nông thôn • Môi trường gần gũi với tự nhiên • Kinh tế nông thôn: nông nghiệp +… • Chính trị nông thôn: Hệ thống chính trị nông thôn là hệ thống tự quản, chủ yếu là xóm làng, lệ làng; các thành viên vào bộ máy lãnh đạo ở xã như bí thư, chủ tịch… Ngoài ra, còn có hoạt động khác như: bầu cử, hội họp (trong họ, tộc);
• Văn hóa nông thôn: Các cơ sở chủ yếu là văn hóa dân gian • Con người nông thôn chất phác, thật thà, tình cảm, quan hệ xóm làng sâu
nặng,… nhưng ít giao thiệp, nhận thức hạn chế.
• Gia đình nông thôn là gia đình nhiều thế hệ, vai trò người đàn ông được đề
cao.
• Tôn giáo ở nông thôn phát triển mạnh, tính ngưỡng thường hay gắn với mê
tính dị đoan.
• Dịch vụ ở nông thôn: ngày càng phát triển nhưng còn rất nhỏ (thuê cày, cấy),
chủ yếu là ở các làng nghề. Một số nội dung NC của XHH nông thôn •
Nhóm nghiên cứu tính chỉnh thể: NT & môi trường + NC hệ thống quan hệ xã hội nông thôn với các xã hội bên ngoài nông thôn (xã hội đô thị). + NC quá trình xã hội hóa nông thôn. + Nghiên cứu quá trình đô thị hóa nông thôn. + NC lịch sử hình thành và phát triển của nông thôn. + NC vai trò vị trí của nông thôn đối với xã hội. + Đảm bảo công bằng sinh thái nhân văn ở nông thôn và cả địa bàn đô thị.
• Một số nội dung NC của XHH nông thôn
- 47
Nhóm nghiên cứu tính phức thể: NC con người và các quan hệ cụ thể: + Vị trí vai trò của các nhân vật trong xã hội nông thôn (nông dân, thợ thủ công, thương nhân, trí thức), nhân quyền, nhân văn và nhân đạo. + Các cơ cấu nhân khẩu, lao động, nghề nghiệp, phân tầng xã hội của các nhóm xã hội nông thôn, thực trạng và xu hướng biến đổi
+ Các thiết chế xã hội nông thôn: chính trị, kinh tế, gia đình, y tế, tôn giáo, giáo dục, khoa học, thể thao, … + NC các vấn đề khác: lối sống nông thôn, văn hóa nông thôn và văn minh nông nghiệp, tổ chức và quản lý xã hội nông thôn. Tìm hiểu XH nông thôn Việt Nam:
• Đặc trưng (Kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội); • Yếu tố truyền thống của nông thôn VN • Phương hướng xây dựng và phát triển của xã hội nông thôn nước ta hiện nay
http://www.vca.org.vn/Default.aspx?tabid=82&CategoryID=2&News=144 4.3. XÃ HỘI HỌC ĐÔ THỊ
• Đô thị và xã hội học đô thị • Đô thị: là một điểm dân cư hiện đại, là nơi tập trung các dân cư có hoạt động phi nông nghiệp (chiếm 80%), thực hiện các chức năng sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ và là nơi tập trung chức năng quản lý hành chính của một địa phương. Đó còn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học của một vùng lãnh thổ nhất định.
• Đô thị và xã hội học đô thị • Xã hội học đô thị: nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất và các quy luật phát triển và hoạt động của đô thị. Vì vậy, nghiên cứu xã hội học đô thị là một bộ phận cần thiết trong sự phát triển kinh tế - xã hội, không chỉ quan trọng với chính đô thị ấy, mà còn với cả một quốc gia.
• Sự ra đời và phát triển của đô thị • Trải qua 3 thời kỳ:
– (1) Được bắt đầu từ thời kỳ công xã nông thôn đến xã hội có sự phân chia giai cấp đô thị là một bộ phận của văn minh nông nghiệp, nông thôn và đô thị chưa tách khỏi nhau, nếp sống còn hòa hợp
– (2) Đây là thời kỳ của các thành phố trung cổ (từ thế kỷ XV - XVII) đô thị đã có một vai trò to lớn đối với nông thôn. Quy mô thành phố cũng được mở rộng, dân số tăng nhanh đã thu hút được quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị
- 48
– (3) Khoảng TK XI cho đến ngày nay các đô thị đã phát triển đồng đều trên toàn lãnh thổ các quốc gia, thời kỳ của khoa học công nghệ
tin học, đời sống kinh tế xã hội ngày càng cao, dịch vụ phát triển mạnh - đó kéo theo sự thay đổi về cấu trúc đô thị
• Đô thị hóa và quá trình đô thị hóa trên thế giới
Quá trình đô thị hóa là sự di dân từ nông thôn ra thành thị, là sự tập trung ngày càng nhiều những cư dân sống trong các vùng lãnh thổ, địa lý hạn chế được gọi là các đô thị, đó cũng là quá trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân cư của một quốc gia.
• - Thời kỳ đô thị hóa tiền công nghiệp, với chiếc xa quay, biểu trưng của nền văn minh nông nghiệp ứng với cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất (cách mạng thủ công nghiệp).
• - Thời kỳ đô thị hóa công nghiệp với chiếc máy hơi nước biểu trưng của nền văn minh công nghiệp - tương ứng với thời kỳ cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai (cách mạng công nghiệp).
• - Thời kỳ đô đô thị hóa hậu công nghiệp với chiếc máy điện tử biểu trưng của nền văn minh khoa học công nghệ - văn minh tin học, tương ứng với thời kỳ cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba (cách mạng khoa học kỹ thuật)
• Đối tượng và các lĩnh vực nghiên cứu của XHH đô thị • Phạm vi nghiên cứu của xã hội học đô thị là xã hội đô thị, trong đó, yếu tố
phi nông nghiệp là cơ bản nhất.
XHH đô thị có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật hình thành và phát triển của đô thị và những cộng đồng dân cư sinh sống trên lãnh thổ đô thị, từ đó đưa ra những dự báo về tương lai phát triển của đô thị và kiến nghị các biện pháp khắc phục những mặt hạn chế để xây dựng đô thị trong thế ổn định và phát triển.
• Đối tượng và các lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học đô thị • Một số nội dung nghiên cứu của xã hội học đô thị - Nghiên cứu quá trình đô thị hóa (sự hình thành và phát triển – chất/lượng;
mặt định lượng và định tính; mô hình thành phố siêu đô thị)
- Nghiên cứu về cơ cấu đô thị (không gian vật chất đô thị; cơ cấu nông
nghiệp, phân bố dân cư xã hội trên địa bàn đô thị; tính cư học xã hội)
- 49
- Nghiên cứu về văn hóa, lối sống đô thị - Nghiên cứu về quản lý và điều khiển đô thị - Nghiên cứu về mô hình các đô thị…
• Ý nghĩa việc nghiên cứu XHH đô thị Về mặt lý luận: Hoàn thiện tri thức xã hội học Về mặt thực tiễn: Đô thị là bộ mặt của một quốc gia, sự phát triển ổn định hay không của đô thị sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ quốc gia Nghiên cứu xã hội học đô thị:
rút ra được những qui luật phát triển của đô thị cập nhật được những thay đổi cùng những thông tin mới lạ xuất hiện trong
đời sống xã hội đô thị
dự báo một hiện tượng nào đó có khả năng xẩy ra hay không xẩy ra
• ĐÔ THỊ VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển
- Thời kỳ phong kiến (từ năm 1858 trở về trước) sự hòa đồng của thành thị
vào nông thôn
- Thời kỳ thuộc địa (1858-1954): phát triển một số thương cảng, là trung tâm
hành chính của PK và nhà nước thực dân
- Thời kỳ 1955-1975: Miền Bắc xây dựng CNXH, tiến hành công nghiệp hóa,
phát triển đô thị; Miền Nam là quá trình đô thị hóa “cưỡng bức”
- Thời kỳ 1975 đến nay: Thời kỳ này quá trình đô thị hóa đã lấy lại nhịp độ
phát triển bình thường trong điều kiện hòa bình.
• Bức tranh đời sống đô thị Việt Nam hiện nay
- Sự biến đổi cơ cấu xã hội dân cư đô thị - Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội trong cư dân đô thị - Sự chuyển đổi các định hướng của các giá trị trong xã hội - Sự thay đổi chức năng, vai trò trong guồng máy điều hành và quản lý đô thị - Dân số đông, mật độ cư trú cao và sự hỗn tạp về mặt xã hội phức tạp và đa dạng Vấn đề quản lý và phát triển đô thị nước ta hiện nay 4.4. XÃ HỘI HỌC TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
Truyền thông (Communication)
- 50
Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình cảm, kỹ năng nhằm tạo sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi và nhận thức.
Dựa vào số lượng người tham gia, người ta thường phân biệt ba loại truyền thông như sau: - Truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác). - Truyền thông tập thể (trong nội bộ một cơ quan, một công ty, một tổ chức đoàn thể, hay một nhóm xã hội nào đó). - Truyền thông đại chúng.
Truyền thông đại chúng: Truyền thông đại chúng (TTĐC) là quá trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Các phương tiện truyền thông đại chúng (còn có thể gọi là các phương tiện thông tin đại chúng - mass media) chính là những công cụ kỹ thuật (hay những kênh truyền, phương tiện trung gian) mà nhờ đó, người ta có thể thực hiện quá trình truyền thông đại chúng.
Xã hội học Truyền thông đại chúng Thiết chế/ Định chế Truyền thông đại chúng
Là một thiết chế mới – nằm trong thiết chế văn hóa, thiết chế TTĐC có các đặc trưng căn bản: + Các PTTTĐC chỉ hoạt động trong lĩnh vực công cộng là thiết chế mở rộng cửa cho tất cả mọi người, chỉ quan tâm đề cập tới những vấn đề, sự kiện đại chúng. + Hoàn toàn không mang tính chất cưỡng bách + TTĐC là một ngành công nghiệp thực sự trong xã hội + Hoạt động của các PTTTĐC luôn luôn chịu sự chi phối và ràng buộc bởi một số chuẩn mực và qui tắc nhất định ít nhiều chặt chẽ hay lỏng lẻo tùy theo từng quốc gia, bao gồm những qui tắc thuộc về hệ thống pháp luật nhà nước lẫn những qui tắc thuộc về nghề nghiệp và đạo đức nghề nghiệp.
Ý nghĩa sâu xa của thiết chế TTĐC xét về mặt xã hội học: thiết chế này tạo ra một không gian công cộng trong xã hội dân sự, trong đó mỗi công dân, về nguyên tắc, được xác lập quyền thông tin và quyền được thông tin về bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội có liên quan đến quyền lợi và vận mệnh của mình.
- 51
Như vậy, theo ý nghĩa này, thiết chế truyền thông đại chúng là một thiết chế độc đáo của một xã hội dân chủ đặt cơ sở trên một nhà nước pháp quyền, vốn là những đặc trưng chỉ có trong các xã hội hiện đại.
Những lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học TTĐC - NC công chúng: nghiên cứu đặc điểm, ứng xử của công chúng đối các phương tiện TTĐC (họ là ai, thuộc những tầng lớp nào, họ theo dõi các phương tiện TTĐC nào nhiều nhất, hoặc phản ứng và thái độ của họ đối với TTĐC ra sao,…)
- Nghiên cứu tổ chức truyền thông và các nhà truyền thông: về nguồn gốc xã hội cũng như những đặc điểm xã hội khác của các nhà TT ảnh hưởng đến phương thức và nội dung truyền thông; phân tích các vai trò của các tổ chức truyền thông; nghiên cứu tính chất hoạt động truyền thông và cơ cấu tổ chức của các hoạt động này.
Những lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học TTĐC - Nghiên cứu nội dung truyền thông: phân tích nội dung các thông điệp
truyền thông.
- Nghiên cứu hiệu quả truyền thông (tức nghiên cứu về ảnh hưởng hay tác
TTĐC và quá trình hình thành
động xã hội của các PTTTĐC). dư luận xã hội
Khái niệm dư luận xã hội: DLXH là hiện tượng xã hội đặc thù – là phương thức đặc biệt của ý thức quần chúng – dạng thức biểu hiện thực tế và sinh động hàng ngày của ý thức xã hội; dư luận xã hội là biểu thị nhận thức và tình cảm, ý chí và nguyện vọng, ý kiến phán xét, đánh giá, thái độ, là sự phản ánh tâm lí và tâm trạng xã hội,... của các nhóm xã hội lớn hoặc của cộng đồng xã hội nói chung. Ở Việt Nam, DLXH đồng nghĩa với công luận hay chính kiến xã hội
(Ng. Quý Thanh)
TTĐC và quá trình hình thành dư luận xã hội Cơ cấu dư luận xã hội:
Chủ thể của dư luận xã hội có thể là ý kiến của các nhóm xã hội, hay
là ý kiến của cộng đồng;
Khách thể của dư luận xã hội có thể là những vấn đề ở tầm vĩ mô (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… ) hay chỉ một vấn đề thuộc về cá nhân nào đó (ví dụ: đời tư của một người nổi tiếng,...)
- 52
TTĐC và quá trình hình thành dư luận xã hội
Chức năng của DLXH
Chức năng vĩ mô (ở cấp độ hệ thống xã hội): DLXH đo mức độ liên kết, đoàn kết trong xã hội – trong một hệ thống xã hội hoặc các hệ thống xã hội khác nhau với nhau; DLXH cung cấp thông tin tư vấn cho quản lí xã hội và tạo sức ép với những hành vi sai lệch; DLXH giải tỏa sự căng thẳng xã hội.
Chức năng vi mô (cấp độ sự kiện, hiện tượng xã hội): DLXH đánh giá, phán xét hành vi, sự kiện; DLXH kiểm soát, giám sát hành vi xã hội; DLXH điều chỉnh các mối quan hệ xã hội; DLXH giáo dục, khuyến khích các hành vi tốt, ngăn chặn hành vi xấu; DLXH cố vấn, đề ra các kiến nghị, các lời khuyên,...
Phân biệt Dư luận xã hội và Tin đồn
- 53
Quá trình hình thành dư luận xã hội
DLXH có sự phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong quá trình biện
chứng.
- 54
DLXH là sản phẩm của quá trình giao tiếp xã hội. Trong đó, truyền thông đại chúng là cơ chế hữu hiệu đảm bảo sự hình thành DLXH trên phạm vi rộng lớn và trong giới hạn thời gian phù hợp để đảm bảo tính thời sự.
Tác động hai chiều giữa TTĐC và DLXH
Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có mối quan hệ hai chiều. Dư luận xã hội tích cực là một điều kiện dẫn đến ổn định chính trị xã hội. Từ dư luận xã hội sẽ dẫn đến các hành vi xã hội rộng lớn, tạo sức ép thúc đẩy, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết tốt các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Bởi truyền thông là phương tiện chủ yếu tuyên truyền hệ tư tưởng chính trị, truyền thông đại chúng thiết lập và củng cố thông tin trong công chúng, hợp pháp hoá các thể chế quyền lực. Truyền thông đại chúng là một nhân tố của sự kiểm soát xã hội, được giới cầm quyền sử dụng để hợp pháp hoá các chính sách, ổn định hoá hệ thống chính trị và kinh tế. CHƯƠNG 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU XÃ HỘI HỌC 5.1. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu xã hội học 5.1.1. Phương pháp luận Phương pháp Nghĩa gốc:
Phương = lối, cách thức / Pháp = phép Phương pháp là những cách thức đã trở thành phép tắc phải tuân
- 55
thủ khi tiến hành một công việc
Nghĩa chung nhất:
Phương pháp là con đường, cách thức đạt được mục tiêu, là hoạt
động được sắp xếp theo một trật tự nhất định
Phương pháp nghiên cứu là sự cụ thể hóa nội hàm kn phương pháp, đó là những cách thức, kỹ thuật, biện pháp, thao tác mà nhà khoa học sử dụng để chiếm lĩnh đối tượng một cách hiệu quả nhất.
Phương pháp luận - PPL là lý luận về phương pháp, là khoa học nghiên cứu về phương pháp nghiên cứu; đồng thời, cũng là phương pháp thực hành cụ thể trong một lĩnh vực khoa học.
- PPL sẽ xem xét, nghiên cứu để tìm ra phương pháp tối ưu. Mục đích của nó là xác định giá trị của phương pháp nghiên cứu, giúp các nhà nghiên cứu làm việc một cách có phương pháp.
Phương pháp và phương pháp luận liên quan trực tiếp với nhau: Đối tượng của phương pháp luận chính là phương pháp. Phương pháp luận chỉ có thể ra đời và phát triển trên cơ sở sự phát
triển đến một mức độ cao của phương pháp. Phương pháp NC XHH là một thể thống nhất của 3 cấp độ:
Phương pháp luận (được rút ra từ các lý luận chung) Phương pháp điều tra (dùng để thu thập, xử lý, phân tích thông tin) Kỹ thuật nghiên cứu (các kỹ năng, thao tác cụ thể trong các giai đoạn của hoạt động nghiên cứu. VD: kỹ thuật lập bảng hỏi, kỹ thuật xử lý số liệu,…)
Khách thể NC của các NC XHH là thực tại XH nói chung do đó, các PPNC XHH cũng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu xã hội học
PPNC XHH là sự thống nhất biện chứng giữa nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng.
- 56
PP nghiên cứu định lượng: là tập hợp các quy tắc, phương pháp, kĩ thuật hướng đến phân tích, xem xét khía cạnh lượng của các hiện tượng, các quá trình và các mối quan hệ xã hội được nghiên cứu
PP nghiên cứu định tính: là nghiên cứu có tính khoa học nhằm tìm hiểu ý nghĩa riêng tư của kinh nghiệm và hành động của cá nhân trong bối cảnh môi trường xã hội
Những PP định lượng tiêu biểu
An-ket (điều tra bằng bảng hỏi) Phân tích nội dung Thực nghiệm
Những PP định tính tiêu biểu
Phỏng vấn (sâu) Nhóm trọng điểm (làm việc nhóm/phỏng vấn nhóm) Quan sát (tham dự)
- 57
5.2. Các bước tiến hành một cuộc điều tra xã hội học Cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm hay nói cách khác là cuộc điều tra xã hội học là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình xã hội trong phạm vi không gian và thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Điều tra xã hội học có thể sử dụng các phương pháp khác nhau. Điều tra xã hội học có có thể tiến hành toàn diện (toàn bộ đối tượng trong diện nghiên cứu) hoặc điều tra chọn mẫu (chỉ điều tra trong các đối tượng được chọn một cách khoa học). Thực tế người ta hay dùng cách chọn mẫu và ít tốn thời gian và chi phí, kết quả suy rộng ra toàn diện. Có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau về một cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Các ý kiến dù có khác nhau chăng nữa thì bất kỳ một cuộc nghiên cứu xã hội học nào cũng trải qua những bước cơ bản sau: - Xác định đề tài và mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng giả thuyết và thao tác hóa khái niệm - Xác định phương pháp thu thập thông tin - Xây dựng bảng hỏi - Lựa chọn mẫu điều tra - Lựa chọn và tập huấn điều tra viên, tiến hành điều tra ở địa bàn - Xử lý thông tin - Đánh giá, phân tích và báo cáo kết quả
Các bước trên có thể xếp vào ba giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn
Như vậy, việc xác định đề tài là cần phải thấy được sự tồn tại thật sự của
- 58
thu thập thông tin và giai đoạn xử lý thông tin. 5.2.1. Giai đoạn chuẩn bị a. Xác định đề tài, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định đề tài nghiên cứu Xác định đề tài nghiên cứu là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định cho bất kỳ một nghiên cứu khoa học nào và không ngoại trừ cuộc nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Để xác định được đề tài phù hợp, người nghiên cứu phải trả lời được các câu hỏi: Nghiên cứu gì (đối tượng nghiên cứu; khách thể nghiên cứu)? Nghiên cứu trong phạm vi nào (quy mô về thời gian và không gian)? Đối tượng nghiên cứu xã hội học thường là các vấn đề xã hội nghiên cứu và nhà xã hội học quan tâm, có nhu cầu tìm hiểu và hướng tìm cách giải quyết chúng. Thực tế đời sống xã hội chúng ta gặp những sự không phù hợp hay sự khác biệt giữa cái đang xảy ra với cái cần phải là. Sự không phù hợp hay sự khác biệt này có thể được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Chính sự không phù hợp hay sự khác biệt đó được nêu ra để nghiên cứu, để tìm hiểu được gọi là vấn đề nghiên cứu. Vấn đề nghiên cứu chỉ trở thành đề tài khi nó được chấp nhận và coi như đối tượng nghiên cứu. Lĩnh vực của thực tiễn xã hội chứa đựng các vấn đề nghiên cứu đó thì được gọi là khách thể nghiên cứu. vấn đề xã hội, cũng như phạm vi, lĩnh vực xác định vấn đề đó. Tên đề tài cần được trình bày một cách ngắn gọn, khoa học với câu chữ rõ rang, chính xác. Không cho phép tên đề tài có những từ ngữ câu chữ không xác định hoặc đa nghĩa. - Xác định mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là các vấn đề, cái đích mà cuộc nghiên cứu phải đạt đến, tức là cuộc nghiên cứu giải quyết được những gì có ích cho quá trình nhận thức và cải tạo xã hội theo đề tài đã chọn. Thường thì người nghiên cứu phải chỉ ra được các yếu tố, các khía cạnh, các mặt của đối tượng nghiên cứu cần được làm rõ, cần được chứng minh. Như vậy, mục đích nghiên cứu là giải thích thêm cho đề tài, cụ thể hóa đề tài, loại bỏ đi những yếu tố chưa xác định trong đề tài và trong
- Nhiệm vụ nghiên cứu là chi tiết hóa mục đích nghiên cứu, nêu ra những
- 59
chừng mực nào đó mục tiêu được xem xét như tiêu chuẩn cho đề tài. Mỗi đề tài có thể xác định mục tiêu cơ bản và các mục tiêu cụ thể. bộ phận của mục đích phải hoàn thành. b. Xây dựng giả thuyết và thao tác hóa khái niệm - Xây dựng giả thuyết: Giả thuyết trong nghiên cứu xã hội học là sự giả định có căn cứ khoa học về cơ cấu các đối tượng, về tính chất của các yếu tố và các liên hệ tạo nên các đối tượng đó, về cơ chế hoạt động và phát triển của chúng. Cũng có thể hiểu giả thuyết như là những giả định về vấn đề cần nghiên cứu mà chúng ta thu được qua cuộc điều tra. Nó là những nhận thức sơ bộ về vấn đề được nghiên cứu cho ta biết những ý niệm về đặc trưng, xu hướng và tính quy luật của các quá trình xã hội mà chúng ta tiến hành khảo sát. Thông thường, giả thuyết được biểu hiện dưới các mệnh đề có dạng như: vì thế này thì thế kia, nếu vấn đề này….thì thế kia, càng thế này…thì thế kia, trong điều kiện này…..thì thế kia..v..v Trong quá trình xây dựng các giả thuyết, cần lưu ý những vấn đề sau đây: + Những giả thuyết đưa ra không được mâu thuẫn với những quy luật đã được xác định hoặc những kết quả đã được kiểm nghiệm là đúng trước đó. Trong trường hợp đặc biệt, giả thuyết đưa ra có thể mâu thuẫn với kết quả xã hội xác nhận trước đó. Lúc này người lập giả thuyết phải đưa ra các điều kiện mới hoặc phải giải thích… - Giả thuyết đưa ra phải phù hợp với những nguyên lý xuất phát của chủ nghĩa duy vật lịch sử (mục đích của nó là dễ sàng lọc các giả thuyết lệch lạc, lựa chọn những giả thuyết đáng tin cậy, phù hợp với cuộc nghiên cứu). + Giả thuyết phải kiểm tra trong quá trình nghiên cứu hay trong thực tiễn. Xây dựng giả thuyết cần chú ý hai mặt: Tập hợp các nguyên nhân dẫn đến một hiện tượng nào đó và các nguyên nhân đó có thể kiểm tra được. + Việc phân tích lôgíc của các giả thuyết phải khẳng định được tính không mâu thuẫn của nó, cho phép trả lời các câu hỏi về một số mệnh đề của giả thuyết xem có phải là giả tạo hay không (ở đây bao hàm các thao tác lôgíc, các định nghĩa thao tác và quy tắc ký hiệu).
Ngoài hai loại giả thuyết chính và bổ trợ ra, người ta còn chia giả thuyết ra
Thao tác hoá các khái niệm là những thao tác lôgíc nhằm chuyển những
- 60
Giả thuyết đưa ra có thể sẽ được kết quả của cuộc điều tra xác nhận là đúng song cũng có thể bác bỏ nó trong trường hợp bị phủ nhận, chúng ta cần xây dựng lại giả thuyết. Tuỳ thuộc vào vấn đề nghiên cứu mà số lượng giả thuyết được đưa ra nhiều hay ít. Song trong mỗi cuộc nghiên cứu thường là có một giả thuyết chính và một giả thuyết bổ trợ - các giả thuyết hỗ trợ có nhiệm vụ bổ sung và giải thích cho giả thuyết chính . làm 3 loại sau: Giả thuyết mô tả, nhằm chỉ ra những đặc trưng và thực trạng của đối tượng; Giả thuyết giải thích nhằm chỉ ra những nguyên nhân của một hiện tượng xã hội; Giả thuyết xu hướng nhằm chỉ ra xu hướng sẽ diễn ra trong tương lai của một hiện tượng hay một quá thình xã hội nào đó. - Thao tác hóa khái niệm Đây là khâu quan trọng của một công trình nghiên cứu thực nghiệm, nó cho phép chúng ta có thể tái tạo được vấn đề nghiên cứu và đo lường trực tiếp các vấn đề được nêu ra. Trong các đề tài nghiên cứu xã hội học, chúng ta thường gặp những khái niệm trừa tượng. Mức độ trừu tượng của các khái niệm có thể nhiều ít khác nhau. Song tất cả các khái niệm đó không thể trực tiếp sử dụng để thu thập thông tin, bởi những khái niệm đó thường gây ra sự khó hiểu. Vì lý do đó, người ta cần thao tác hóa khái niệm để tạo ra các khái niệm dễ hiểu. khái niệm trừu tượng, phức tạp thành khái niệm đơn giản, dễ hiểu. Muốn thao tác hóa khái niệm phải dùng hệ thống các chỉ báo. Nói cách khác, quá trình thao tác hóa khái niệm chính là quá trình xác định hệ thống các chỉ báo. Có hai loại chỉ báo thường dùng, đó là chỉ báo khái niệm và chỉ báo thực nghiệm. Chỉ báo khái niệm (chỉ báo trung gian) tức là các khái niệm có mức độ trừu tượng nhỏ hơn và cụ thể hơn so với khái niệm của đề tài. Nhiệm vụ của các chỉ báo này là nhằm làm sang tỏ, đầy đủ hơn các khái niệm của đề tài. Chỉ báo thực nghiệm là những khái niệm ở mức độ cụ thể nhất , cụ thể tới mức có thể đo lường, quan sát được và hoàn toàn thích hợp cho việc điều tra thực
Khái niệm của đề tài > Chỉ báo khái niệm (chỉ báo trung gian) > Chỉ báo
nghiệm. Nhiệm vụ của các chỉ báo thực nghiệm là làm sáng tỏ các chỉ báo trung gian. thực nghiệm Như vậy, nhiệm vụ của nhà xã hội học là phải chuyển những khái niệm trừu tượng sang những khái niệm thực nghiệm ít trừu tượng hơn (chỉ báo trung gian), sau đó là chuyển từ các chỉ báo trung gian sang các chỉ báo thực nghiệm. Nhờ có quá trình thao tác hoá các khái niệm và xác định các chỉ báo mà chúng ta có cơ sở để thu thập thông tin thực tế, sử dụng được các phương pháp định lượng để đo lường những hiện tượng và các dấu hiệu biểu hiện ra bên ngoài của một đối tượng hoặc một nhóm xã hội nào đó, từ đó mà có thể hiểu được nội dung và bản chất ẩn dấu bên trong của đối tượng. c. Lựa chọn phương pháp điều tra
Bảng câu hỏi thường dùng trong các trường hợp sử dụng các phương pháp
- 61
Trong điều tra xã hội học, để thu thập thông tin cá biệt (sơ cấp) và các thông tin khác, người ta sử dụng một số phương thông dụng như sau: phân tích tài liệu, quan sát, phát vấn (phỏng vấn, ankét, mêtric xã hội), thực nghiệm (đã trình bày ở chương 1). Thông thường, trong mỗi cuộc điều tra, nhà nghiên cứu thường sử dụng một nhóm các phương pháp có ý nghĩa bổ sung cho nhau. Trrong mỗi nhóm, lại chọn một hoặc hai phương pháp làm phương pháp chính (có ý nghĩa chủ đạo) trong cuộc nghiên cứu, còn các phương pháp khác chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Việc lựa chọn một nhóm các phương pháp (hay một phương pháp nào đó làm chính) là tuỳ thuộc vào mục đích, yêu cầu của cuộc nghiên cứu cũng như khả năng tài chính, trang thiết bị kỹ thuật và các thông tin có sẵn. 5.2.2. Giai đoạn thu thập thông tin a. Xây dựng bảng hỏi * Bảng hỏi và vai trò của bảng hỏi Bảng câu hỏi là công cụ cơ bản trong việc thu thập thông tin xã hội, là một tập hợp các câu hỏi được sắp xếp có hệ thống trên cơ sở các nguyên tắc tâm lý và logic, nhằm thu được các nội dung cần thiết cho đề tài nghiên cứu, là sự thể hiện bên ngoài của giả thuyết đã nêu ở phần quá trình nghiên cứu. phỏng vấn, ankét, mêtric xã hội.
Cơ sở chủ yếu để tạo nên bảng hỏi là các câu hỏi. * Các loại câu hỏi Căn cứ vào nội dung câu hỏi, có: + Các câu hỏi đặc trưng cho một sự kiện, sự thật nào đó, trong một không
+ Các câu hỏi thể hiện sự mong muốn, đánh giá của cá nhân, của nhóm về
Một bảng câu hỏi được xây xựng tốt sẽ cho phép thu được những lượng thông tin đáng tin cậy và khả quan, ngược lại sẽ làm thông tin thu được bị sai lệch hoặc méo mó. Xây dựng bảng hỏi là một công việc trí tuệ vất vả, chất lượng của bảng hỏi phụ thuộc vào trình độ của tác giả và sự chuẩn bị chu đáo ở ác khâu xác định đề tài và mục tiêu nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết, mô hình nghiên cứu và thao tác hóa các khái niệm. Thông thường, lập một bảng câu hỏi phải tính đến hai yêu cầu: Phải đáp ứng được mục tiêu của cuộc điều tra và phải phù hợp với trình độ và tâm lý của người được hỏi. gian và thời gian xác định. một vấn đề nào đó. Căn cứ vào tính chất câu hỏi, có: + Câu hỏi đóng: là câu hỏi có sẵn các phương án trả lời. Thông thường có hai dạng: câu hỏi đóng đơn giản là loại câu hỏi chỉ gồm hai phương án trả lời có – không; câu hỏi đóng phức tạp là câu hỏi có nhiều phương án trả lời hơn, phân biệt chi tiết hơn các phương án trả lời, ví dụ:
Anh chị có hài lòng với công việc cuả mình không?
- Hài lòng. - Bình thường - Không hài lòng.
- 62
Ưu điểm của câu hỏi đóng là câu trả lời thường trúng trọng tâm nghiên cứu, dễ tổng hợp. Tuy vậy, loại câu hỏi này chỉ thích hợp với các vấn đề rõ rang, người nghiên cứu đã bao quát được các cách trả lời (nếu chưa bao quát hết các cách trả lời, ta sẽ bỏ mất các cơ hội thu được nhận thức mới). + Câu hỏi mở: Là loại câu hỏi không chuẩn bị phương án trả lời trước, người được hỏi trả lời theo sự hiểu biết, tâm trạng của mình, do đó, những câu trả lời nhận được cũng có nội dung khác nhau, mức độ dài ngắn cũng khác nhau.
Ví dụ: Tại sao bạn chọn thi vào Trường Đại học Sư phạm? hoặc Anh chị có
thể cho biết ý kiến của mình về vấn đề sống thử trong sinh viên hiện nay? Câu hỏi mở có ưu điểm là người được hỏi không bị ảnh hưởng bởi các câu trả lời được chuẩn bị trước, do vậy, nó có khả năng chỉ ra những hiện tượng xã hội mà chính tác giải đôi khi cũng chưa dự đoán trước được. Nhờ ưu thế này, câu hỏi mở thường được dùng cho những hiện tượng và quá trình chưa được hiểu biết một cách đầy đủ. Ngoài ra, khi cần kiểm tra tính đầy đủ và chất lượng của câu hỏi đóng, người ta cũng thường dùng câu hỏi mở. Tuy nhiên, câu hỏi mở cũng có nhược điểm là các câu trả lời thường có nhiều nghĩa rất khác nhau, nhiều cách trả lời khác nhau hay cách dùng từ đa nghĩa của người trả lời,… gây khó khăn lớn cho việc xử lý số liệu thống kê. + Câu hỏi kết hợp: Loại câu hỏi này vừa đưa ra sẵn các cách trả lời, vừa có phần để ngỏ để người trả lời tự điền vào. Loại câu hỏi này hay được dùng vì nó kết hợp được ưu điểm của cả hai loại câu hỏi trên. Ví dụ:
1 x
- Đồng ý Vì: Không có lý luận sẽ đi vào lối mòn, bắt chước, thiếu sáng tạo và thiếu
Có nhận định rằng: “lý luận báo chí góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động báo chí”. Ông (bà) có đồng ý với nhận định này không? tầm.
- Không đồng ý 2 Vì:......................................................................................................................
Các loại câu hỏi khác: Trên thực tế, bảng hỏi còn có thể có nhiều loại câu
- 63
...... ........................................................................................................................ hỏi khác nữa như: + Câu hỏi chức năng: loại câu hỏi này thường dùng để thực hiện 3 mục đích: (1) Kiểm tra sự am hiểu của người được hỏi đối với vấn đề do nhà nghiên cứu đặt ra (câu hỏi lọc), (2) Kiểm tra tính trung thực của câu trả lời, (3) Chức năng tâm lý: tạo ra sự hứng thú, xoá bỏ các hàng rào tâm lý, giảm bớt sự căng thẳng, mệt mỏi cho người trả lời. + Câu hỏi theo bảng với hai mặt đối cực + Câu hỏi theo dạng cho điểm, ví dụ:
Nếu được cho điểm, bạn chọn thang điểm nào cho chuyên mục Khách mời của báo Sinh viên Việt Nam
- Điểm 9 đến 10 1 - Điểm 7 đến 8 2 - Điểm 5 đến 6 3 4 - Điểm dưới 5
- Hạn chế dùng các khái niệm như thường xuyên, đôi khi mà tăng những
Thông thường, để chọn câu hỏi, căn cứ vào các tiêu chí: tính tiết kiệm của
Những câu hỏi tiếp xúc và câu hỏi tâm lý chức năng thường đòi hỏi những
- 64
* Yêu cầu đối với câu hỏi - Các câu hỏi phải rõ ràng, cụ thể, không được hiểu theo nhiều nghĩa (đặc biệt là trong câu hỏi đóng, các phương án trả lời phải được phân chia rạch ròi theo một cơ sở thống nhất, không được chồng chéo lên nhau). câu hỏi đo lường cụ thể…. - Câu hỏi phải có trật tự, lôgíc, phù hợp với trình độ và đặc điểm của từng người và từng nhóm đối tượng cụ thể. Hạn chế dùng các ngôn ngữ bác học hoặc quá thô thiển. - Đối với các câu hỏi tìm hiểu về chính kiến hoặc tâm tư, tình cảm riêng của đối tượng, nên dùng nhiều câu hỏi gián tiếp; còn khi câu hỏi liên quan đến các hiện tượng tiêu cực thì nên tìm các từ ngữ và câu nói thích hợp để giảm nhẹ mức độ mới có thể thu được câu trả lời đáng tin cậy * Lựa chọn các câu hỏi để đưa vào bảng câu hỏi Để xây dựng được một bảng câu hỏi khoa học, đáp ứng yêu cầu của cuộc điều tra, phải biết lựa chọn các câu hỏi một cách nghiêm túc và bảo đảm một tỷ trọng thích hợp giữa các loại câu hỏi. câu hỏi, tính chắc chắn của câu hỏi, tính xác thực của câu hỏi. Trên cơ sở của ba tiêu chí đó, ta có nhận xét sau: câu hỏi đóng tiết kiệm hơn, tính xác thực cao hơn, và dễ xử lý bằng máy vi tính hơn, câu hỏi mở khó xác định hơn và xử lý bằng phương pháp định lượng khó hơn, song lại có thể cho ta những thông tin nhiều chiều hơn, sâu sắc hơn. câu hỏi mở, những câu hỏi lọc, hiếm khi dùng câu hỏi đóng.
- Phần kết luận: Một vài câu hỏi kết thúc cuộc điều tra, thường là những
Bảng hỏi cần được trình bày khoa học, rõ ràng, chính xác, tạo điều kiện
Gắn liền với đặc tính thứ hai của thông tin chính là các phương pháp và kỹ
- 65
Giữa các câu hỏi, những câu hỏi về nội dung phải chiếm ưu thế cả về mặt số lượng và về quỹ thời gian. Nó phải được ưu tiên trong việc xây dựng bảng câu hỏi cũng như trong thực hành điều tra. * Bố cục bảng hỏi Thông thường, bảng hỏi trong điều tra xã hội học thường có 3 phần: - Phần mở đầu: bao gồm tên bảng hỏi, tên người hay tổ chức nghiên cứu, lời giới thiệu nêu rõ mục đích nghiên cứu, các giải thích và hướng dẫn cách trả lời. Phần này nên ngắn gọn, dễ hiểu, tạo sự tin tưởng cho đối tượng trả lời. - Phần nội dung: Bao gồm hệ thống các câu hỏi nhằm thu thập thông tin cho đề tài. Vấn đề cơ bản cần lưu ý trong phần này là việc xếp thứ tự các câu hỏi. Thông thường, thứ tự câu hỏi là chung đến riêng, đơn giản đến phức tạp, tổng quát đến cụ thể, khách quan đến riêng tư,…, hoặc xếp theo thứ tự thời gian. Ngoài ra, còn tính đến một vài câu hỏi mang tính chất kiểm tra – nhắc lại một câu hỏi ở trên hoặc hỏi theo cách khác để xem có gì mâu thuẫn không. câu hỏi về thông tin của đối tượng điều tra. thuận lợi cho người trả lời đọc và ghi chép. b. Lựa chọn mẫu điều tra * Sự cần thiết chọn mẫu Mục tiêu cơ bản của các cuộc điều tra xã hội học là để cung cấp các thông tin từ thực tế xã hội cho việc phát triển lý luận xã hội học cũng như cho công tác quản lý xã hội. Về nguyên tắc, thông tin thu được từ các cuộc nghiên cứu xã hội học cần đảm báo hai đặc tính cơ bản. Thứ nhất, thông tin phải có tính đại diện, nghĩa là thông tin thu được phải có giá trị cho cả tổng thể điều tra. Thứ hai, thông tin đó phải đảm bảo mức độ chính xác, nghĩa là thông tin thu được phải phản ánh đúng với thực tế khách quan. thuật được sử dụng để thu thập thông tin. Gắn liền với đặc tính thứ nhất của thông tin, chúng ta đang nói đến cách chọn mẫu. Nghĩa là phải chọn mẫu như thế nào đó để thông tin thu được có ý nghĩa, có giá trị và có thể đại diện cho cả tổng thể nghiên cứu.
Thông qua nghiên cứu chọn mẫu người ta có thể đảm bảo được tiến độ
* Các loại mẫu và cách lấy mẫu Trong các cuộc điều tra xã hội học, các nhà nghiên cứu thường tiến hành
Đặc điểm của phương pháp này là: mọi thành viên đều có cơ hội như nhau
- 66
Như vậy, chọn mẫu chính là quá trình sử dụng các phương pháp khác nhau nhằm tìm ra được một tập hợp các đơn vị (nhóm xã hội, người) mà những đặc trưng và cơ cấu được nghiên cứu của chúng có thể đại diện cho một tập hợp xã hội lớn hơn; hay nói một cách khác, những kết luận được rút ra từ nó có thể suy rộng cho cả tổng thể công việc nghiên cứu, tiết kiệm thời gian, tiền bạc… một số cách lấy mẫu sau: - Ngẫu nhiên đơn giản: Yêu cầu của cách lấy mẫu này là phải có một danh sách kê khai đầy đủ các thành viên của tổng thể (tập hợp tổng quát). Trên cơ sở danh sách này, có thể lựa chọn một cách hoàn toàn ngẫu nhiên (thí dụ: rút thăm theo kiểu hú hoạ) các thành viên sao cho đủ số người cần thiết để nghiên cứu. để rơi vào mẫu. - Hệ thống khởi đầu bằng ngẫu nhiên. Khi lập mẫu kiểu này, thay cho việc rút hú hoạ (theo kiểu lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản), có thể chọn mẫu bằng cách lựa chọn một thành viên bất kỳ nào đó trong bảng danh sách đã đánh số thứ tự, sau đó cứ cách một khoảng cách K ta lại chọn một người (độ lớn của K là tuỳ thuộc vào việc chúng ta chọn mẫu lớn hay nhỏ). Lúc này chúng ta có được công thức: K = N/n n: Số người (đơn vị) của mẫu N: Số người (đơn vị) của tổng thể K: Khoảng cách giữa hai người trong mẫu. - Lấy mẫu nhiều giai đoạn Trong chọn mẫu loại này, việc chọn mẫu được mẫu thực hiện qua hai hoặc nhiều bước hơn. Giai đoạn 1: chia tập hợp tổng quát ra thành các nhóm lớn theo một dấu hiệu nhất định, lập danh sách liệt kê các nhóm, chọn trong danh sách ra một số nhóm theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Tiến hành lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản
Cách lấy mẫu này dùng trong các trường hợp tập hợp tổng quát khá lớn, thí
Tuy có sự khác nhau về mức độ tập huấn, song nhìn chung, mọi cuộc tập
- 67
hoặc mẫu ngẫu nhiên hệ thống bắt đầu từ ngẫu nhiên (trong các nhóm đã được lựa chọn). dụ, một tỉnh, một ngành, một tầng lớp xã hội, một quốc gia. Loại lấy mẫu này rất khó vì vậy cần hiểu thực địa kỹ lưỡng. Nếu không có một tấm bản đồ xã hội thì nhà nghiên cứu phải làm việc cẩn thận với những nhà lãnh đạo, quản lý ở địa phương nơi tiến hành khảo sát, vì họ là những người am hiểu tình hình, đặc điểm của địa phương mình. Ngoài ra, người ta còn tiến hành chọn mẫu cụm, mẫu xêri, mẫu phân xuất, chọn mẫu theo hành trình..v..v.. Để bảo đảm cho mẫu có tính đại diện cao, giảm được đến mức thấp nhất độ sai lệch về cơ cấu thống kê của mẫu so với cơ cấu của tập hợp tổng quát, ngoài việc tuân thủ các quy trình chọn mẫu một cách nghiêm ngặt, chúng ta còn phải quan tâm đến dung lượng của mẫu. Không có một giải pháp vạn năng về dung lượng cần thiết của mẫu, song về mặt nguyên tắc, dung lượng của nó phụ thuộc vào số lượng dấu hiệu có trong tập hợp tổng quát và mức độ chính xác cần thiết của các kết quả trong mẫu. Nếu trong tập hợp tổng quát có nhiều dầu hiệu, thì dung lượng của mẫu sẽ tăng lên và ngược lại mẫu sẽ nhỏ nếu tập hợp tổng quát thuần nhất về mặt dấu hiệu. Sai số của mẫu cũng sẽ tăng lên, nếu như trong quá trình thực hành điều tra đã vi phạm những yêu cầu quy trình chọn mẫu. Chính vì vậy, việc theo dõi và điều hành một cách nghiêm túc, sát sao các điều tra viên trong quá trình điều tra theo mẫu đã chọn là một việc làm cần thiết. c. Lựa chọn và tập huấn điều tra viên, tiến hành điều tra ở địa bàn * Lựa chọn và tập huấn điều tra viên Trong mỗi cuộc điều tra, tuỳ theo quy mô, tính chất phức tạp của đề tài nghiên cứu và phương pháp điều tra mà người tổ chức cuộc điều tra chuẩn bị lực lượng điều tra viên nhiều hay ít, chất lượng và những yêu cầu về năng lực, phẩm chất cao hay trung bình. Trong những cuộc điều tra bằng phương pháp ankét, trình độ chuyên môn không đòi hỏi cao lắm, song trong các cuộc điều tra bằng phương pháp phỏng vấn sâu hay quan sát đầy đủ, người ta tiến hành công việc phải có nhiều kinh nghiệm và trình độ văn hoá cao (nhất là về mặt chuyên môn) huấn cho điều tra viên trong điều tra xã hội học đều phải thức hiện các bước sau:
- Làm cho mọi điều tra viên đều hiểu được như nhau về các khái niệm, các
- Giới thiệu mục đích, ý nghĩa của cuộc điều tra, thông qua đó giúp cho điều tra viên có thể giải thích được mục đích, ý nghĩa của các cuộc điều tra cho đối tượng được điều tra. câu hỏi và những vấn đề cần khai thác. - Làm cho điều tra viên biết cách ghi chép thông tin. - Giới thiệu trước đặc điểm của đối tượng điều tra, giúp cho các điều tra viên tiếp cận và ứng sử linh hoạt, thích hợp nhằm thâm nhập vào đối tượng và thu được tối đa những thông tin cần thiết. - Xác lập tiến độ thực hiện cho các thành viên. * Điều tra thử và hoàn chỉnh lại toàn bộ bảng câu hỏi cũng như các chỉ báo. Để hoàn thiện cũng như nâng cao chất lượng của bảng câu hỏi, nhiều nghiên cứu cần thiết phải điều tra thử. Chính nhờ quá trình này mầ chúng ta tìm ra được những sai sót trong quá trình xây dựng bảng câu hỏi, loại bỏ được những phần thiếu lôgíc trong trình tự các câu hỏi, chuẩn hoá thêm một bước của cuộc điều tra và cuối cùng là tạo ra được một bảng câu hỏi tối ưu, phù hợp với đố tượng của cuộc điều tra. Điều đáng lưu ý là: nên tiến hành điều tra thử trên chính đối tượng sẽ điều tra; tất nhiên không nên để khoảng cách quá xa so với thời gian tiến hành điều tra chính. * Tiến hành điều tra ở địa bàn
- 68
5.2.3. Giai đoạn xử lý thông tin Giai đoạn này gồm ba công đoạn: Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích; Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu; Trình bày báo cáo và xã hội hoá kết quả. a. Tập hợp tài liệu, phân nhóm và miêu tả, giải thích Kết hợp giai đoạn hai, có thể thu được một khối lượng lớn các thông tin; nhưng chủ yếu vẫn tồn tại dưới dạng thông tin cá biệt, chưa được phân loại. Các thông tin này thường bao gồm phiếu điều tra ankét, nhật ký ghi chép biên bản hoặc phiếu phỏng vấn sâu, tài liệu thống kê, sách báo, văn bản, tranh ảnh, băng ghi âm, đĩa hình..v..v Nhiệm vụ đầu tiên của nhà nghiên cứu trong giai đoạn này là:
- Tập hợp các tài liệu, sắp xếp chúng vào các nhóm dấu hiệu riêng. Thí dụ: + Tài liệu kinh tế, chính trị, pháp luật. + Tài liệu thống kê hay các văn bản báo cáo. + Tài liệu về mức sống hay các dấu hiệu khác về học vấn, nghề nghiệp. Trong giai đoạn xử lý thông tin bước đầu, có thể sử dụng cả các biện pháp
- 69
đơn giản để phân loại đối với các tài liệu kết hợp với sử lý bằng máy vi tính. Xử lý bằng máy vi tính theo ba bước: - Lập sơ đồ lôgíc, xử lý và phân tích thông tin + Mẫu tài liệu thu thập thông tin. + Thống kê các phương pháp xử lý bảo đảm kiểm tra được giả thuyết. + Lập sơ đồ phân tích kết quả thu được - nếu hướng phân tích chính. - Lập trình để xử lý trên máy vi tính (do chuyên gia vi tính đảm nhiệm) Người lãnh đạo cuộc điều tra phải đưa ra những yêu cầu cụ thể để các chuyên gia vi tính lập trình theo phương án tối ưu, đáp ứng được tối đa yêu cầu của giả thuyết nghiên cứu. - Chuẩn bị tài liệu để đưa vào máy vi tính (thông thường là các phiếu ankét) + Đánh số làm sạch số liệu (xử lý thô) + Đóng các câu hỏi mở, mã hoá các nhóm dấu hiệu. Theo kinh nghiệm, khâu này phải làm trước lúc lập trình, hoặc nếu đã lập trình rồi phải xử lý, chỉnh lý bổ sung vào số liệu. Công việc tiếp theo là do chuyên gia vi tính đảm nhiệm. Như vậy, nhiệm vụ của giai đoạn này là chuyển các thông tin cá biệt thành các thông tin tập hợp. Trên cơ sở của những thông tin tập hợp (lại được đặt trong các bảng phân nhóm liên hợp) ta mới có thể có cơ sở lựa chọn phương tiện quan trọng để tiếp tục phân tích hoặc áp dụng các phương pháp thống kê tinh vi hơn. Sau khi đã tiến hành xử lý, sàng lọc thông tin, phân nhóm các tài liệu thì bước tiếp theo là phân tích thông tin. Có hai cách phân tích thông tin: miêu tả và giải thích. Miêu tả: là sự ghi lại những kết quả nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng hệ thống các ký hiệu đã được lựa chọn và biểu đạt những kết quả đó trong những khái niệm khoa học. Nó là khâu trung gian từ kinh nghiệm đến giải thích khoa học, có nghĩa là nó chưa vạch ra được bản chất và mối liện hệ có tính quy
+ Những tài liệu nghiên cứu có tính chất kinh nghiệm. + Hệ thống ký hiệu đem lại cho các miêu tả (các đồ thị, biểu bảng, các sơ
- 70
luật của các sự kiện, do vậy nó vẫn nằm trong khuôn khổ của kinh nghiệm. Thành phần của miêu tả thường có ít nhất ba thành tố: đồ…..) + Những khái niệm có liên quan đến hệ thống ký hiệu. Người ta thường tiến hành miêu tả hay lý giải các kết quả của công việc nghiên cứu xã hội học kinh nghiệm bằng các biểu đồ của các chuỗi biến phân như lược đồ tổ chức, đa giác phân chia, lược đồ tích luỹ, đường cong phân chia…v..v.. Ưu điểm chính của sự mô tả bằng biểu đồ là tích trực quan của nó. Giải thích: là sự phát hiện ra bản chất của đối tượng quan sát trên cơ sở những tài liệu kinh nghiệm và lý thuyết xã hội học bằng cách chỉ ra ở đối tượng được giả thích những vấn đề mà giả thuyết của cuộc nghiên cứu đặt ra. Nó xác nhận hoặc loại bỏ một giả thuyết nào đó hay toàn bộ hệ thống giả thuyết. b. Kiểm tra giả thuyết nghiên cứu Theo quan điểm lôgíc học, kiểm tra là một quá trình xác nhận bằng kinh nghiệm những kết quả rút ra từ giả thuyết đưa ra ban đầu. Có thể tiến hành kiểm tra giả thuyết bằng thực nghiệm xã hội học, phương pháp thống kê hoặc biện pháp áp dụng các biến số kiểm tra. Theo quan điểm duy vật khoa học, hoạt động thực tiễn xã hội của con người là tiêu chuẩn cao nhất và có uy tín để kiểm tra tính chân thật của một kết quả nghiên cứu nào đó. Bởi vậy, việc kiểm tra giả thuyết một cách toàn diện và có sức thuyết phục cao đòi hỏi nhà nghiên cứu phải vượt ra khỏi khung cảnh của những suy luận lôgíc đơn thuần (chỉ từ kêt quả đến sự luận chứng). Ở đây, sự khẳng định bằng kinh nghiệm hệ thống những giả thuyết là rất có ý nghĩa. Điều quan trọng là phải biết kết hợp sự kiểm tra giả thuyết bằng chính các thao tác lôgíc với những tri thức có được bằng kinh nghiệm; đồng thời không nên coi là sai lầm nghiêm trọng nếu như một giả thuyết nào đó đã bị kết quả của cuộc điều tra phủ nhận. Trong thực tế, chính sau những sự kiện như vậy thì đồng thời lại là điểm khởi đầu của một giả thuyết nghiên cứu đúng đắn hơn: hơn nữa, chính sự bác bỏ các giả thuyết bằng những kết quả kinh nghiệm của cuộc nghiên cứu, tự nó cũng có giá trị nhất định. c. Trình bày bản báo cáo và xã hội hoá kết quả
- Những yêu cầu đối với bản báo cáo: + Chỉ ra mục đích, nhiệm vụ của cuộc điều tra (tương quan giữa mục đích
+ Làm sáng tỏ tình trạng nghiên cứu (vấn đề hiện nay và những quan điểm
- 71
- Báo cáo và tờ trình có thuyết minh: Kết quả điểu tra xã hội học thực nghiệm thường được trình bày dưới dạng báo cáo. Kèm theo nó là tờ trình có thuyết minh về việc giải quyết những nhiệm vụ đã đặt ra và các phụ lục kèm theo. Trong tờ trình có thuyết minh quá trình thực hiện chương trình của cuộc nghiên cứu, có thông báo các tư liệu tính toán, luận chứng. Trong phụ lục kèm theo có các chỉ tiêu, bảng số, đồ thị, các bảng ankét, những mẫu, những phiếu ghi, những phép thử. Sau các bản báo cáo là những cuốn sách chuyên khảo, những bài báo, tuyển tập, các bản luận..v..v.. lý luận và mục đích thực hiện) hiện có đối với đề tài) + Phần đặc biệt của bản báo cáo cần trình bày những vấn đề có tính chất phương pháp luận cho việc lựa chọn và luận chứng bộ công cụ phương pháp của cuộc nghiên cứu, phân loại việc lựa chọn, các phương pháp thu thập thông tin xã hội. + Trình bày một cách đầy đủ mọi giai đoạn nghiên cứu đã được tiến hành với đối tượng, sự liên kết lẫn nhau giữa tất cả các khâu của nó và lôgíc của bản thân sự tìm kiếm khoa học, chỉ ra được vị trí và vai trò của thể thức nghiên cứu..v..v.. + Chỉ ra mức độ thích ứng của kế hoạch nghiên cứu so với nhiệm vụ và sự phù hợp của giả thuyết nghiên cứu so với những kết quả của cuộc nghiên cứu mang lại độ tin cậy của hệ thống mã hoá thông tin và sự tái hiện của nó trong bản báo cáo. + Bản báo cáo cũng cần chỉ ra được mức độ của việc giải quyết các nhiệm vụ, nội dung khoa học và khả năng có thể suy rộng các kết luận từ cuộc nghiên cứu sang các lĩnh vực khác có hoàn cảnh tương đồng. + Cuối cùng là việc đưa ra các dự báo, kiến nghị. Thông thường, ngoài bản báo cáo đầy đủ, người viết báo cáo còn có thêm một bản giản lược khác phản ánh được cô đọng và súc tích hơn những nội dung của bản báo cáo đầy đủ.
- 72
Đời sống hiện thực luôn luôn biến đổi, phong phú, sinh động, vì vậy, để các cuộc điều tra xã hội học thu được kết quả tối ưu, mô hình này cũng cần được tiếp thu, vận dụng một cách linh hoạt, cơ động và sáng tạo.