
LÂM THỊ TRÚC LINH
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC
CÔNG BỐ THÔNG TIN KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NUÔI TRỒNG THỦY
SẢN VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số
: 9340301
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Công trình được hoàn thành tại:
Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Nguyễn Khắc Hùng
PGS.TS Huỳnh Đức Lộng
Phản biện 1:..................................................................
......................................................................................
Phản biện 2:..................................................................
......................................................................................
Phản biện 3:..................................................................
......................................................................................
Luận án tiến sĩ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án
cấp trường họp tại:..................................................
Vào hồi giờ ngày tháng năm
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
......................................................................................
.....................................................................................
......................................................................................

1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cho, Chen & Roberts (2008) cho rằng bước quan trọng trong
thực hiện KTMT là việc công bố thông tin môi trường. Các thông tin
môi trường phải công bố gồm chi phí môi trường, tài sản môi trường,
nợ phải trả môi trường trên bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh và thuyết minh báo cáo tài chính (Senn, 2018).
Trong các nghiên cứu nước ngoài, thông tin môi trường công bố chủ
yếu qua báo cáo thường niên, việc công bố có thể là tự nguyện hay
bắt buộc. Công bố tự nguyện là cách mà các tổ chức sử dụng để
truyền tải thông điệp cụ thể về các hoạt động và biện pháp bảo vệ
môi trường (Deegan & cộng sự, 2000; O'Donovan, 2002). Ngoài ra,
việc công ty công bố thông tin môi trường được xem là đáp ứng với
những áp lực của các bên liên quan như cơ quan quản lý về môi
trường, nhà cung ứng và cộng đồng, quản lý doanh nghiệp (Cormier
& cộng sự, 2005; Neu & cộng sự, 1998).
Các DN mong muốn nâng cao tính hợp pháp bằng việc
công bố các khoản đầu tư môi trường và thuyết phục cộng đồng tin
rằng DN rất quan tâm đến việc bảo vệ môi trường. Thông tin môi
trường công bố chủ yếu là thông tin phi tài chính. Tùy theo đối tượng
sử dụng thông tin, mối quan tâm của họ mà DN sẽ công bố các
khoản chi tiêu cho hoạt động môi trường hay chỉ nhấn mạnh tác động
môi trường và biện pháp mà DN đã thực hiện (Eltaib Elzarrouk
Eltaib, 2012).
Kết quả nghiên cứu về công bố thông tin môi trường ở các
nước phát triển và đang phát triển cho thấy công bố thông tin môi
trường ở các nước phát triển tiên tiến hơn so với những nghiên cứu
đã được thực hiện ở các nước đang phát triển. Ở các nước phát triển,
nghiên cứu về các yếu tố quyết định và chất lượng của việc công bố
thông tin môi trường; điều tra mối quan hệ giữa công bố thông tin
môi trường và hiệu quả kinh tế về môi trường. Ngược lại, Ở các
nước đang phát triển, trọng tâm của nghiên cứu là liệu các công ty có
công bố thông tin môi trường hay không và số lượng thông tin này
(Al-khuwiter, 2005).
Thông tin môi trường có thể được cung cấp dưới nhiều hình
thức như các tuyên bố định tính, số liệu định lượng, báo cáo tài
chính, đồ họa hoặc hình ảnh, khai báo của CEO. Thông tin này có

2
thể được trình bày qua báo cáo thường niên hay báo cáo độc lập hoặc
báo cáo phát triển bền vững theo GRI, qua thông cáo báo chí, trang
web của công ty và các phương tiện khác (Mata & cộng sự, 2018).
Trong các nghiên cứu trước đây đã xác định các nhân tố tác
động đến chất lượng, mức độ công bố thông tin môi trường như (1)
Ngành nhạy cảm với môi trường (Gamble & cộng sự, 1995; Fekrat &
cộng sự, 1996; Deegan và Gordon,1996; Cormier và Gordon, 2001;
Liu và Anbumozhi, 2008; Suttipun & cộng sự, 2012; Barbu & cộng
sự, 2012) (2) Áp lực từ chính sách, nhà quản lý, cơ quan quản lý môi
trường, công chúng (Walden và Schwartz, 1997; Neu & cộng sự,
1998; Rowe & Wehrmeyer, 2001; Suttipun & cộng sự, 2012; Li,
2014) (3) Chuẩn mực công bố thông tin môi trường/Hướng dẫn
KTMT (Fortes & Akerfeldt, 1999; Gamble & cộng sự, 1995; Deegan
và Rankin,1996; Suttipun & cộng sự, 2012; Jerry, 2015; Kaya, 2016)
(4) Thái độ nhà quản lý (Suttipun & cộng sự, 2012; Ngô Thị Hoài
Nam, 2017). Các nghiên cứu này thực hiện trong bối cảnh giữa các
quốc gia khác nhau để đánh giá mức độ công bố thông tin môi
trường giữa các quốc gia hoặc giữa các ngành công nghiệp trong
cùng quốc gia. Việc công bố thông tin môi trường là bước tiếp theo
của thực hiện KTMT. Vì vậy, thuật ngữ công bố thông tin môi
trường trong các nghiên cứu nước ngoài là công bố thông tin của
KTMT.
Tại Việt Nam, KTMT chỉ được tiếp cận ở khía cạnh nghiên
cứu học thuật, cũng có một số nghiên cứu cụ thể về áp dụng KTMT
trong các DN chế biến dầu khí, chế biến thủy sản. Các nghiên cứu
này nhằm mục tiêu hướng đến việc ghi nhận, đo lường và cung cấp
thông tin về môi trường một cách đầy đủ cho người sử dụng. Ngoài
ra, các nghiên cứu cũng có nhận diện các nhân tố tác động đến công
bố thông tin môi trường. (Hoàng Thụy Diệu Linh, 2013; Hoàng Thị
Bích Ngọc, 2017; Ngô Thị Hoài Nam, 2017). Tuy nhiên, Hoàng
Thụy Diệu Linh (2013) đánh giá việc công bố thông tin môi trường
hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu thông tin cho các bên có liên quan.
Từ khảo sát của nghiên cứu sinh, việc công bố thông tin môi trường
tại các DN NTTS Việt Nam chủ yếu là định tính và công bố theo
hướng dẫn của thông tư 155/2015/TT-BTC hoặc theo sáng kiến báo
cáo toàn cầu GRI mà chưa công bố thông tin môi trường từ kết quả
thực hiện KTMT như các nghiên cứu nước ngoài.
Công bố thông tin KTMT là một cách truyền tải thông điệp

3
của DN đối với các vấn đề môi trường. Đối với ngành có tác động
đến môi trường thì công bố thông tin KTMT là cần thiết để đáp ứng
những áp lực từ chính phủ, nhà đầu tư, khách hàng, cộng đồng là các
đối tượng bị ảnh hưởng bởi hoạt động của DN. Tuy nhiên, các nhân
tố được phát hiện từ các nghiên cứu trước có tác động và mức độ ảnh
hưởng các nhân tố đến việc công bố thông tin KTMT tại các DN
NTTS Việt Nam hay không thì cần được kiểm chứng. Vì vậy, nghiên
cứu sinh chọn đề tài “Các nhân tố tác động đến việc công bố thông
tin Kế toán môi trường (KTMT) tại các doanh nghiệp nuôi trồng
thủy sản (NTTS) Việt Nam” làm luận án tiến sĩ.
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát:
Xác định thực trạng công bố thông tin KTMT, ảnh hưởng các
nhân tố và mức độ tác động của các nhân tố đến việc công bố thông
tin KTMT tại các doanh nghiệp NTTS Việt Nam.
Mục tiêu cụ thể
Mục tiêu 1: Xác định thực trạng công bố thông tin KTMT tại
các doanh nghiệp NTTS Việt Nam
Mục tiêu 2: Nhận diện các nhân tố tác động đến việc công bố
thông tin KTMT tại các doanh nghiệp NTTS Việt Nam
Mục tiêu 3: Đo lường mức độ ảnh hưởng các nhân tố tác động
đến việc công bố thông tin KTMT tại các doanh nghiệp NTTS Việt
Nam.
Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Tại các doanh nghiệp NTTS Việt Nam có công bố
thông tin KTMT?
Câu hỏi 2: Nhân tố nào tác động đến việc công bố thông tin
KTMT tại các doanh nghiệp NTTS Việt Nam?
Câu hỏi 3: Mức độ ảnh hưởng các nhân tố tác động đến việc
công bố thông tin KTMT tại các doanh nghiệp NTTS Việt Nam?
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng phân tích còn gọi là đơn vị phân tích là thông tin KTMT
được công bố và các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin
KTMT tại các doanh nghiệp NTTS Việt Nam.

