TÓM TẮT LUẬN VĂN
Trong xu thế hội nhập phát triển, Việt Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) - Tổ chức thương mại đa phương lớn nhất toàn cầu. Theo
các cam kết khi gia nhập WTO Việt Nam phải từng bước mở cửa một số ngành,lĩnh
vực để các nước thành viên được tham gia vào thị trường trong nước. Trong đó lĩnh vực
ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Ngành Ngân hàng một trong những
ngành mở cửa, hội nhập mạnh mẽ chịu sự cạnh tranh khốc liệt nhất do đây là lĩnh vực
nhạy cảm các ngân hàng nước ngoài sau khi tham gia mở chi nhánh tại Việt Nam
những ngân hàng kinh nghiệm quản lí, công nghệ hiện đại được sự hỗ trợ từ
ngân hàng mẹ.
Thị trường tài chính quốc tế ngày càng phát triển mang tính toàn cầu hoá cao,
việc huy động các nguồn lực tài chính sử dụng các nguồn lực này một cách hiệu
quả không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia còn mang tính khu vực hay toàn
cầu. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ thông tin thì việc các tổ
chức tài chính mở rộng thị trường với các sản phẩm dịch vụ cùng với các kỹ năng quản lý
tốt hơn để m nhập vào các thị trường, gây nh hưởng thôn tính các đối thcạnh
tranh là một điều hiển nhiên và đúng quy luật kinh tế .
Ở Việt Nam, Chính phủ chủ trương chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường có sự
quản của Nhà nước. Chúng ta đang tích cực triển khai các chương trình cải cách hành
chính, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hệ thống tài chính ngân hàng. Với vai
trò nòng cốt trong hệ thống tài chính Việt Nam, hệ thống ngân hàng đã làm tốt chức năng
kênh huy động vốn phân bổ nguồn lực tài chính chủ chốt, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Mặc dù đã có những bước tiến quan trọng về quy mô, tổ
chức quản lý, sản phẩm dịch vụ công nghệ song hệ thống ngân hàng Việt Nam còn
bộc lộ nhiều hạn chế cũng như khoảng cách lạc hậu so với hệ thống ngân hàng khu vực
và các nước phát triển. Những yếu điểm đó của ngân hàng Việt Nam thể hiện rõ khả năng
cạnh tranh thấp, năng lực tài chính yếu, quy hoạt động nhỏ, chất lượng hiệu quả
kinh doanh thấp, chưa đạt mức trình độ chuyên nghiệp về quản trị điều hành, sản phẩm
đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng, phát triển
dưới mức tiềm năng, phương thức cạnh tranh còn thô sơ, khả năng tiếp cận dịch vụ của
khách hàng còn hạn chế.
Ngân hàng Đầu phát triển Việt Nam (NHĐT&PT VN) một Ngân hàng
thương mại Nhà nước (NHTMNN) mạng lưới hoạt động rộng, rải khắp trên cả nước.
trong những m qua đã đạt được những thành tựu quan trọng tạo tiền đề cho việc hội
nhập kinh tế quốc tế. Các loại hình dịch vụ mới đã từng bước được triển khai áp dụng,
phục vụ nhu cầu thiết thực của khách hàng mở rộng kinh doanh của ngân hàng, nâng
cao t trọng thu phí dịch vụ qua các năm. Tuy nhiên, việc cung ng các dịch vụ ngân
hàng của NHĐT&PT VN hiện nay còn tập trung chủ yếu vào các dịch vụ truyền thống
còn các mảng dịch vmới, tiềm năng vẫn còn lĩnh vực mới mẻ nhiều khó khăn
trong cả nhận thức tchức thực hiện. một cán bộ trong ngân hàng, thấy được tính
cấp thiết của việc phát triển về số lượng ng cao chất lượng dịch vụ của các NHTM
Việt Nam nói chung của NHĐT&PT Việt Nam nói riêng, tác giả mong muốn nghiên
cứu một cách hệ thống những vấn đề luận chung, đánh giá đúng thực trạng sản phẩm,
dịch vụ của NHĐT&PT VN đề xuất những giải pháp nhằm phát triển sản phẩm, dịch
vụ ngân hàng tại NHĐT&PT VN. Do vậy tác giả chọn đề tài “Phát triển dịch vụ tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ”
Ngoài phần mở đầu, kết luận, các phụ lục, bảng biểu các tài liệu tham khảo,
luận văn được trình bày trong 03 chương:
Chương I: Tổng quan về dịch vụ ngân hàng của ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động dịch vụ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ của Ngân hàng Đầu phát triển Việt
Nam.
1. Trong chương I, tác giả đề cập đến khái niệm về dịch vụ ngân hàng. Hiện
nay có nhiều khái niệm về dịch vụ ngân hàng, có quan niệm cho rằng: dịch vụ ngân hàng
không thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ các hoạt động trung gian tài chính (cho vay,
huy động vốn…). Một số khác cho rằng tất cả các hoạt động phục vụ cho nền kinh tế
đều dịch vụ ngân hàng. Ngoài ra dịch vụ ngân hàng còn được định nghĩa theo nghĩa
rộng nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng đó toàn bộ hoạt dộng dịch vụ cho nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp dịch vụ ngân hàng chỉ bao gồm những hoạt động ngoài chức năng của
định chế tài chính trung gian huy động vốn cho vay nền kinh tế. Trong cuốn nghiệp
vụ ngân hàng của David Cox xuất bản năm 1997 , dịch vụ ngân hàng được phân loại
thành 3 loại đó là: Dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng nhân, dịch vụ ngân hàng
dành cho khách hàng doanh nghiệp và dịch vụ dành cho các nhà xuất nhập khẩu.
Theo tác giả đề tài dịch vụ ngân hàng gồm ba lĩnh vực chủ yếu: Sản phẩm dịch vụ
bên tài sản nợ, sản phẩm dịch vụ bên nhóm tài sản có, sản phẩm dịch vụ trung gian
ngân hàng thực hiện để nhận phí, hoa hồng…
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng có các đặc điểm: Thứ nhất, Sản phẩm dịch vụ có tính
vô hình, khách hàng không thể nhìn thấy nắm giữ được nên khó khăn trong đánh giá chất
lượng sản phẩm dịch vụ. Nên để chắc chắn hơn khi sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng,
khách hàng phải m kiếm dấu hiệu chứng tỏ dịch vụ đó địa điểm giao dịch, mức độ
trang bị công nghệ, trình độ quản lí, nhân viên thông qua các mối quan hệ nhân, uy
tín và hình ảnh của ngân hàng. Về phía ngân hàng để củng cố niềm tin của khách hàng thì
tăng cường công tác marketing quảng cáo, tăng tính hữu hình của sản phẩm dich vụ. Thứ
hai, đó tính không thể tách rời của sản phẩm dịch vụ, đó quy trình cung ứng, quy
trình kinh nghiệm diễn ra đồng thời với quy trình tiêu thụ. Chính đặc điểm y làm cho
sản phẩm dịch vụ ngân hàng không khả năng lưu trữ. Thứ ba sản phẩm dịch vụ
ngân hàng không đồng nhất khó xác định thể hiện cùng một sản phẩm dịch vụ nhưng
được cung ng địa điểm khác nhau, thời gian khác nhau, điều kiện cách thức thực
hiện khác nhau. Các yếu tố y đan xen ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm dịch vụ
ngân hàng đặc biết cách phục vụ của nhân vien giao dịch trực tiếp tạo ra sự không ổn
định khó xác định.Thứ , dịch vụ ngân hàng do ngân hàng hoặc tổ chức tín kinh tế
được phép cung ứng thực hiện cung ứng sản phẩm dịch vụ. Thứ năm, sản phẩm dịch vụ
của ngân hàng rất dễ bị bắt chước, bị sao chép. Thứ sáu, dịch vụ ngân hàng tính hỗ trợ
cao, sự ra đời của sản phẩm dịch vụ y sở để ra đời hoặc hỗ trợ cho các sản phẩm
dịch vụ khác của ngân hàng. Thứ bảy, thu phí sản phẩm dịch vụ cung ứng nguồn thu
của ngân hàng, những dịch vụ làm tăng nguồn thu trực tiếp như lãi, phí kinh doanh
ngoại tệ, những sản phẩm dịch vụ mang tính hỗ trợ tăng tính cạnh tranh cho sản
phẩm dịch vụ ngân hàng. Thứ 8, dịch vụ ngân hàng tính mở cao. Mỗi sản phẩm dịch
vụ ngân hàng hiện khi bổ sung thêm tính năng hoặc cấu lại thể tạo ra 1 sản
phẩm mới.
Sản phẩm dịch vụ ngân hàng chia ra gồm dịch vụ truyền thống gồm: dịch vmua
bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, chiết khấu thương phiếu, cho vay thương mại, bảo quản vật
giá, cung cấp tài khoản giao dịch thanh toán, tài trợ cho các hoạt động của chính
phủ. Đó các dịch vụ ra đời từ khi khai cùng với quá trình phát triển của hoạt động
ngân hàng. Trong quá trình hoạt động các ngân hàng thương mại cung ứng các dịch vụ đó
cho khách hàng, các dịch vụ tương tác bổ trợ cho nhau, vừa đáp ứng nhu cầu khách hàng
vừa đa dạng hoạt động của ngân hàng gia tăng nguồn thu cho ngân hàng. Cùng với
quá trình phát triển củ khoa học kỹ thuật sự phát triển của nền kinh tế đòi hỏi ngân
hàng đưa ra những sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng
đó là cho vay tiêu dùng đối với cá nhân hộ gia định; tài trợ cho các dự án lớn mang lại lợi
nhuận cao nhưng đi m với rủi ro lớn; dịch vụ vấn tài chính vcác vấn đề tiết kiệm,
đầu ngày nay dịch vụ vấn tài chính đa dạng gồm cả dịch vụ chuẩn bị về thuế, kế
hoạch tài chính cho cá nhân; dịch vụ thuê mua thiết bị có giá trị lớn cho khách hàng; cung
cấp dịch vụ môi giới đầu chứng khoán một trong các cách để ngân hàng thoả mãn
ngày càng đủ nhu cầu của khách hàng về dịch vụ tài chính. Ngoài ra ngân hàng còn cung
cấp dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ đại lí.
Quan điểm phát triển dịch vụ thể hiện chiến lược của ngân hàng trong việc phát
triển dịch vụ. Ngân hàng thể phát triển dịch vụ theo chiều rộng đó đa dạng các loại
hình dịch vụ và luôn đưa ra được dịch vụ mới. Ngân hàng cũng có thể lựa chọn cách phát
triển theo chiều sâu đó việc ngân hàng hoàn thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ hiện
có. Ngày nay ngân hàng lựa chọn cách kết hợp cả hai cách phát triển dịch vụ đó ngân
hàng vừa hoàn thiện nâng cao chất lượng hiệnđồng thời nghiên cứu triển khai các sản
phẩm mới nhằm tăng khả năng cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng sử dụng dịch
vụ của ngân hàng.
Sự phát triển dịch vụ được đánh giá trên các mặt: Một là, tính đa dạng trong dịch
vụ ngân hàng cung cấp nhằm phục vụ tốt nhất khách hàng hiện thu hút ngày
càng nhiều khách hàng mới đến với ngân hàng. Hai , Chất lượng dịch vụ đây yếu tố
bản thu hút khách hàng đến với ngân hàng, chất ợng dịch vụ ngân hàng được đánh
giá qua sở vật chất, máy móc thiết bị, thời gian phục vụ, thái độ phục vụ, trình đcủa
nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ. Ba , doanh thu từ hoạt động dịch vụ phản ánh
hiểu quả của phát triển dịch vụ, doanh thu càng cao lợi nhuận càng cao.
Để phát triển được dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải điều kiện nhất định đó là:
phát triển dịch vụ phù hợp với điều kiện thị trường, sự phát triển của nền kinh tế, khi kinh
tế phát triển thì hoạt động của ngân hàng i chung cũng như riêng hoạt động dịch vụ
ngày càng phát triển để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Việc phát triển dịch vụ phát huy
trong điều kiện kinh tế phát triển, tiền tệ ổn định; việc phát triển mở rộng dịch vụ phải
được pháp luật cho phép tạo điều kiện phát triển thể hiện đầy đủ hành lang pháp
hướng dẫn điều chỉnh dịch vụ đó; việc phát triển phù hợp với năng lực tài chính, điều
kiện phát triển công nghệ; điều kiện đội ngũ nhân viên ngân hàng chính người nghiên
cứu triển khai ứng dụng các dịch vụ đó, là yếu tố quyết định đến việc đánh giá chất lượng
dịch vụ của ngân hàng.
Phát triển dịch vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô, nhân tố vi mô
nhất định. Nhân tố nhân tố bên ngoài ảnh hưởng chi phối đến hoạt động ngân
hàng như: Nền kinh tế tăng trưởng không, môi trường chính trị, pháp ổn định
không, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập, sự thay đổi trong chính sách của nhà nước, sự
phát triển của công nghệ. Với các nhân tố chquan ngân hàng định hướng sự phát triển
cho phù hợp. Nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng là nhân tố bên trong của
bản thân ngân hàng đó nguồn lực tài chính, chất lượng nguồn nhân lực, công tác
marketing quảng thương hiệu và dịch vụ của ngân hàng, mức rủi ro của các hoạt động
khác của ngân hàng.
2. Tại chương 2: trình bày khái quát về quá trình hình thành, phát triển,
hình tổ chức, kết quả hoạt động của BIDV.