VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THẮNG

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG

LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2025

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THẮNG

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG

THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 9380104

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS TRẦN VĂN LUYỆN

HÀ NỘI - 2025

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản Luận án này là công trình nghiên cứu khoa học

của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa

học và sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học. Các số liệu, kết quả

nghiên cứu trong Luận án là chính xác, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

NGHIÊN CỨU SINH

Nguyễn Văn Thắng

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

:

Bộ luật Hình sự

BLHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

BLTTHS

:

:

CNTT, MVT

Công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Pháp luật hình sự

PLHS

:

Trách nhiệm hình sự

TNHS

:

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

:

DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT ở nước ta từ năm 2013 đến 6/2024 ...............................................

Bảng 3.2. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT theo từng Điều luật giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024 .....................

Bảng 3.3. Tình hình áp dụng loại hình phạt chính và mức hình phạt chính đối

với bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm

2013 đến 6/2024 ..................................................................................................

Bảng 3.4. Tình hình áp dụng loại hình phạt bổ sung đối với bị cáo bị xét xử về

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024 ..............

Bảng 3.5. Số lượng bị cáo là người nước ngoài bị xét xử sơ thẩm về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT từ năm 2013 đến 6/2024 ........................................

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................ 9

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ........................................................... 9

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự .............. 9

1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 11

1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ........................................................... 15

1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự ................. 15

1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 20

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án và những vấn đề

đặt ra cần nghiên cứu trong Luận án ............................................................... 27

1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ......................... 27

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án ............................. 28

1.4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu của Luận án

......................................................................................................................... 28

1.4.1. Cơ sở lý thuyết ....................................................................................... 28

1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................ 28

Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 30

CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH

SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG

TIN, MẠNG VIỄN THÔNG ........................................................................ 31

2.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của trách nhiệm hình sự đối

với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ............... 31

2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 31

2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 36

2.1.3. Nguyên tắc của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông ............................................................ 39

2.1.4. Ý nghĩa của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 42

2.2. Cơ sở, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .......................... 44

2.2.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 44

2.2.2. Giai đoạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 60

2.2.3. Phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................... 62

2.3. Nội dung, hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................... 64

2.3.1. Nội dung của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ...................................................................... 64

2.3.2. Hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ...................................................................... 65

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 70

CHƯƠNG 3. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH

NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG

NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 72

3.1. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật quốc tế và pháp luật

Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 .............................. 72

3.1.1. Quy định của pháp luật quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................... 72

3.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trước khi ban

hành Bộ luật Hình sự năm 2015 ..................................................................... 79

3.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông hiện nay ............... 85

3.2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ................ 85

3.2.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm cụ thể trong lĩnh

vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015 .... 92

3.3. Thực tiễn áp dụng quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam (từ năm 2013 đến

6/2024) .......................................................................................................... 100

3.3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích ................. 101

3.3.2. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ................................................................... 108

CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP

BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HIỆU QUẢ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI

PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN

THÔNG ......................................................................................................... 138

4.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và yêu cầu nâng

cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................................................... 138

4.1.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................. 138

4.1.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................. 141

4.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .............................................. 146

4.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ........................ 153

4.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp

luật; tổng kết thực tiễn và phát triển hệ thống án lệ ...................................... 153

4.3.2. Chú trọng giám đốc kiểm tra việc xét xử tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin, mạng viễn thông ................................................................... 160

4.3.3. Nâng cao năng lực pháp luật, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ áp

dụng pháp luật ................................................................................................ 161

4.3.4. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác phòng

ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn

thông nói chung cũng như áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này

nói riêng ......................................................................................................... 164

Tiểu kết Chương 4 ......................................................................................... 167

KẾT LUẬN ................................................................................................... 169

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 171

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬN ÁN ....................................... 182

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 183

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão trên phạm vi toàn cầu, trong đó có lĩnh vực CNTT, MVT. Cùng với sự phát triển phổ biến của CNTT, MVT là sự xuất hiện ngày càng phức tạp của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (quy định tại Mục 2, Chương XXI, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)). TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là một chế định rất quan trọng trong PLHS Việt Nam, nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa cấp thiết cả về chính trị, lý luận, pháp lý và thực tiễn.

Trước hết, ý nghĩa trên phương diện về chính trị. Nghiên cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thể hiện rõ nét quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, TNHS đối với tội phạm này nói riêng trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục đổi mới và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.

Trước đây cũng như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đều đặc biệt quan tâm phát triển lĩnh vực CNTT, MVT. Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển mạnh mẽ, CNTT, MVT ngày càng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội, nhất là trong kỷ nguyên số hiện đại. Song song vấn đề đó, chúng ta phải đối với nhiều thách thức về an ninh, an toàn từ chính trong lĩnh vực CNTT, MVT, nổi bật chính là tội phạm trong lĩnh vực này. Trong nhiều văn kiện Đại hội, nghị quyết của Đảng đã xác định những chủ trương quan trọng về phát triển và tăng cường ứng dụng CNTT, MVT phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt phải kể đến Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mà trong cuộc cách mạng này thì CNTT, MVT là những nội dung quan trọng, cốt lõi. Cùng với đó, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hiện nay là Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng và thực hiện chính sách PLHS, trong đó có vấn đề TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) đã có nhiều điểm mới, tiến bộ nhưng vẫn chưa quán triệt 1

đầy đủ và đáp ứng hoàn toàn yêu cầu cải cách tư pháp, phục vụ đắc lực cho công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa, PLHS nước ta, trong đó có quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần có sự nghiên cứu, tham khảo và tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm đắt giá của luật pháp quốc tế, tạo cơ sở hoàn thiện quy định của PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian tới cũng là một yêu cầu bức thiết đặt ra.

Thứ hai, ý nghĩa trên phương diện về lý luận. TNHS đặt ra đối với nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là vấn đề mới trong các định hướng nghiên cứu lý luận của khoa học Luật Hình sự, giúp chúng ta nhận thức được những trách nhiệm pháp lý của người phạm tội trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện lý luận khoa học Luật Hình sự Việt Nam về chế định TNHS nói chung, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Chính vì lẽ đó đặt ra yêu cầu phải làm rõ lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể là khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của nó.

Thứ ba, ý nghĩa trên phương diện pháp lý. Trong thời gian qua, quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã được được bổ sung, hoàn thiện. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn những điểm hạn chế nhất định, chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này. Việc chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của PLHS hiện hành về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện PLHS sẽ góp phần giải quyết những vấn đề bức thiết về pháp lý. Thực tế phản ánh quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn nhiều hạn chế, vướng mắc như: Các hình thức TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là sự đánh giá, phản ứng của Nhà nước về nhóm tội này bằng biện pháp hình sự, thể hiện ở các hình thức: hình phạt, biện pháp tư pháp, án tích. Nó là căn cứ pháp lý cần và đủ, là giới hạn khách quan và chủ quan mà ngoài giới hạn đó thì không một ai có thể bị truy cứu TNHS về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chính vì vậy, nó biểu hiện rõ nét nguyên tắc công bằng, nguyên tắc pháp chế XHCN trong luật hình sự nước ta. Hiện nay, một số quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã bộc lộ những hạn chế như: độ rộng của khung hình phạt tù còn lớn; có sự chồng lấn giữa các khung hình phạt; nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng hình phạt chưa cụ thể; một số thuật ngữ chưa được giải thích chính thức; 2

thiếu cơ chế chuyển đổi linh hoạt giữa các hình phạt nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT... Vì thế trên phương diện về pháp lý, việc nghiên cứu các quy định của PLHS để giải quyết các hạn chế, vướng mắc này cũng đặt ra rất bức thiết.

Cuối cùng, ý nghĩa trên phương diện về thực tiễn. Áp dụng TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm, đánh giá sự phù hợp giữa các quy định của PLHS với bản chất pháp lý và mức độ phù hợp của nó với thực tiễn phòng, chống nhóm tội phạm này, là căn cứ quan trọng để hoàn thiện PLHS. Việc nghiên cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các quy định của PLHS, bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm này trên cơ sở tiếp cận từ góc độ của công tác thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian qua.

Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS để xét xử tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định (theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2013 - 6/2024, ngành Tòa án đã xét xử được 884 vụ án với 1.787 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT). Nhưng trong thực tiễn vẫn còn xuất hiện những khó khăn, vướng mắc cần kịp thời tháo gỡ, giải quyết để hoạt động này đạt hiệu quả cao hơn, đặc biệt là về vấn đề xác định TNHS đối với loại tội phạm này. Bởi đây là một lĩnh vực tương đối mới, liên quan đến lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao, diễn ra vô cùng phức tạp. Việc quy định và thực tiễn áp dụng PLHS để xác định TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng là vấn đề khó khăn, phức tạp, còn nhiều vấn đề tranh luận. Thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cho thấy còn có những hạn chế, thiếu sót như: áp dụng sai căn cứ pháp lý để xử lý TNHS đối với người phạm tội; chưa xác định đầy đủ các dấu hiệu định tội danh cũng như các căn cứ quyết định hình phạt, dẫn đến áp dụng TNHS chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đặc biệt, phải nhấn mạnh về thực tiễn định tội danh đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp và đòi hỏi sự sáng tạo. Hiện đã có những thủ đoạn phạm tội mới hay một số hành vi mới xuất hiện gây nguy hại đáng kể cho xã hội nhưng chưa được dự liệu trong luật; có trường hợp còn định tội danh không chính xác, chưa có sự thống nhất, đồng bộ giữa các địa phương. Việc áp dụng các hình thức TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có lúc chưa đạt hiệu quả cao do quy định của BLHS về biện pháp đó chưa cụ thể (như hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn, 3

hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản) hoặc chưa hoàn toàn sát với thực tiễn.

Tóm lại, từ những ý nghĩa đã phân tích nêu trên cho thấy việc nghiên cứu về TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam đáp ứng các yêu cầu bức thiết đặt ra cả về chính trị, lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng TNHS. Hơn nữa, đây cũng là vấn đề nghiên cứu tương đối mới mẻ, chứa đựng nhiều quan điểm, ý kiến phức tạp. Trên cơ sở quy định của PLHS và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm này, cần thiết phải nghiên cứu, bổ sung những luận điểm để hoàn thiện quy định của PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở Việt Nam thời gian tới. Từ đó, việc chọn nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm Luận án Tiến sĩ Luật học là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về các vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian qua, Luận án nhằm làm sáng tỏ hệ thống lý luận và khảo sát thực tiễn về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS và các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian tới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án cần giải quyết các nhiệm

vụ sau:

- Phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, xác định những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo;

4

- Làm rõ cơ sở lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; - Khái quát quy định của pháp luật quốc tế và lịch sử quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ trước khi ban hành BLHS năm 2015, đặc biệt là phân tích những quy định của PLHS hiện hành về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT;

- Làm rõ thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng; - Xác định bối cảnh, sự cần thiết, phương hướng hoàn thiện PLHS, yêu cầu và đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam. Cụ thể: - Những vấn đề lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. - Quy định của PLHS Việt Nam, chủ yếu là BLHS năm 2015 về TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

- Thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở

nước ta trong thời gian qua.

3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trong giới hạn phạm vi như sau: - Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong đó tập trung nghiên cứu về nội dung và hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam (chủ yếu là trong BLHS năm 2015 gồm 09 tội được quy định từ Điều 285 đến Điều 294, trừ Điều 292 bị bãi bỏ). Về nội dung TNHS đối với tội phạm này chính là quyền và nghĩa vụ giữa Nhà nước và người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Về hình thức TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thể hiện rõ nét thông qua việc quy định và áp dụng các hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích.

- Về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT của Tòa án nhân dân trên phạm vi cả nước.

- Về thời gian: Luận án khảo sát số liệu, tình hình thực tiễn áp dụng TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ năm 2013 đến 6/2024.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước và 5

hệ thống các luận điểm của khoa học pháp lý có liên quan về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

4.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận án bao gồm: - Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp các tài liệu nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước để làm sáng tỏ tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này, hệ thống hóa lịch sử và quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến nội dung nghiên cứu là TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT;

- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh những vấn đề lý luận cơ bản về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đặc biệt là những vấn đề về khái niệm, đặc điểm, cơ sở và hình thức của TNHS đối với các tội phạm này theo PLHS Việt Nam;

- Phương pháp tiếp cận Luật so sánh được vận dụng trong việc nghiên cứu các chính sách pháp luật nói chung, các quy định của pháp luật quốc tế nói riêng về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, so sánh, đối chiếu với PLHS Việt Nam về vấn đề này;

- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh trong việc xử lý các tài liệu, số liệu của các cơ quan chức năng, đặc biệt là của Tòa án nhân dân tối cao để làm sáng tỏ thực trạng tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta trong khoảng thời gian từ năm 2013 - 6/2024; làm rõ thực tiễn áp dụng TNHS, nhất là việc định tội danh, áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp, án tích, đánh giá những hạn chế, khó khăn và bất cập trong việc áp dụng;

- Phương pháp nghiên cứu các hồ sơ vụ án điển hình trong việc nghiên cứu tình hình, đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và việc áp dụng quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua;

- Phương pháp chuyên gia trong việc trao đổi, xin ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ thực tiễn công tác trong các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án đã trải qua thực tế tiến hành giải quyết các vụ án hình sự đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT để làm nổi bật một số vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh vấn đề TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở Việt Nam;

6

- Phương pháp logic, tổng hợp được sử dụng trong việc đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đề ra những giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian tới.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện và sâu sắc về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ việc tổng hợp, tiếp thu những kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã phân tích, luận giải các vấn đề có liên quan về lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta hiện nay. Luận án có những đóng góp mới, đó là:

- Phát triển, làm sâu sắc những vấn đề lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể: Luận án đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; xác định đúng đắn cơ sở và các hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực này. Cùng với đó, Luận án cũng làm nổi bật những nội dung, các giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta.

- Phân tích các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ việc phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện quy định của PLHS hiện hành ở nước ta về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, Luận án chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó trong các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

- Xác định yêu cầu nâng cao hiệu quả của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, phương hướng hoàn thiện PLHS về tội phạm này cũng như đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian tới, đảm bảo phù hợp, đáp ứng các yêu cầu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển, làm phong phú lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Qua đó tạo nguồn tài liệu tham khảo dành cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống PLHS, cũng như phục vụ việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đối với hoạt động lập pháp ở nước ta, những kiến nghị về hoàn thiện PLHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có những nội dung quan trọng về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được đưa ra trong 7

Luận án là cơ sở để các cơ quan, nhà làm luật nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện PLHS nói chung, sửa đổi, bổ sung BLHS nói riêng trong thời gian tới về vấn đề này.

Những phương hướng cụ thể nhằm hoàn thiện PLHS và các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có giá trị hữu ích và khả thi đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong xác định, áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.

Cuối cùng, Luận án có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập hữu ích dành cho đội ngũ các nhà khoa học, giảng viên, học viên trong lĩnh vực khoa học Luật Hình sự nói chung và các vấn đề về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.

7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận

án gồm 04 chương:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Chương 3: Quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và thực tiễn áp dụng

8

Chương 4: Hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự

Có thể khẳng định, TNHS là vấn đề rất phức tạp, song cũng rất cơ bản

trong PLHS. TNHS luôn được các nhà khoa học về luật hình sự thế giới quan

tâm nghiên cứu. Tính đến nay đã có nhiều công trình, tài liệu, bài viết liên quan

đến TNHS được công bố, đó là:

Ở Liên Xô cũ trước đây, trong các công trình nghiên cứu về TNHS, một

số nhà khoa học đã coi năng lực của con người hành động một khi đã hiểu rõ

được sự việc là cơ sở của trách nhiệm đối với hành vi mà người đó thực hiện.

Trong sách chuyên khảo Lý luận về tội phạm theo luật hình sự Xô viết, tác giả

Piôntkôvxki A.A cũng thống nhất với quan điểm này và khẳng định: "Năng lực

của con người quyết định một khi đã hiểu biết được hành vi do người đó thực

hiện là cơ sở của trách nhiệm hình sự..." [96].

Trước hết, nói về trách nhiệm hình sự, tác giả Brainhin Ia.M đã khẳng

định trong cuốn sách Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình sự

trong luật hình sự Xô viết như sau: TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là

tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và người phạm tội, được thể

hiện ở các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình sự quy

định, áp dụng đối với người thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện

pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự khác không phải hình phạt và được

bắt đầu từ khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người [97]. Cũng trong

tài liệu này, Brainhin Ia.M chỉ ra cơ sở của TNHS: "Năng lực của một người

thực hiện hành vi một khi đã hiểu rõ sự việc chỉ là cơ sở xác định năng lực

trách nhiệm hình sự của một người và là tiền đề cần thiết để thừa nhận một

người là người có lỗi đối với hành vi mà người đó thực hiện chứ không phải là

cơ sở của trách nhiệm hình sự" [97].

Bên cạnh đó, phải kể đến các công trình tiêu biểu khác của các nhà

nghiên cứu luật hình sự ở Nga như: Trách nhiệm hình sự và cấu thành tội

phạm của Karpusin M.P., Kurlianđxki V.I. (Nxb. Sách pháp lý, Matxcơva,

1974); Trách nhiệm hình sự và hình phạt (1976) của Bagri-Sakhmatôv L.V;

Những vấn đề về lỗi và trách nhiệm hình sự trong các thuyết tư sản hiện đại

9

của Liaxx.N.V. (Lêningrađ, 1977); Trách nhiệm hình sự và việc thực hiện nó

trong cuộc đấu tranh chống tội phạm của Xtrutchkôv N.A. (Nxb. Trường Đại

học Tổng hợp Xaratôv, 1978); Những vấn đề lý luận của trách nhiệm hình sự

(1982) của Xantalôv A.I; Tội phạm và trách nhiệm" của Prokhorôv B.X.

(Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1984); Luật hình sự Nga, Phần chung (2005)

do L.L.Kruglikov làm chủ biên [78].

Tại Thụy Điển, trong cuốn sách Swedish Law in the New Millennium [109],

dịch là Luật hình sự Thụy Điển trong giai đoạn mới đã nghiên cứu các vấn đề đặt

ra trong PLHS của Thụy Điển ở giai đoạn phát triển mới. Tài liệu này đã phân tích

TNHS từ các nguyên tắc của luật hình sự, như: pháp chế, công bằng, nhân đạo,

phân hóa TNHS... đến việc thực hiện TNHS, hệ thống hình phạt và các biện pháp

tư pháp v.v... Đối với các hình thức của TNHS, các tác giả đã làm rõ qua học

thuyết về hình phạt và hệ thống hình phạt, mức độ TNHS được phân tích thông

qua việc làm sâu sắc nội dung và điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt đối với

các tội phạm cụ thể trong BLHS của Thụy Điển.

Trong cuốn sách General Principles Of Criminal Law [110] dịch là Các

nguyên tắc chung của luật hình sự của Jerome Hall (Nxb Bobbs Merrill

Company, xuất bản lần đầu năm 1947, tái bản năm 1960 và năm 2005) đã

nghiên cứu khái quát các vấn đề nguyên tắc và chính sách liên quan đến PLHS,

TNHS và việc vận dụng trong xây dựng, áp dụng pháp luật của các cơ quan lập

pháp, Tòa án và cơ quan tư pháp khác. Trong tài liệu này, TNHS đã được cụ

thể hóa trong các nội dung liên quan như: tội phạm, hình phạt, đáng lưu ý

trong các nguyên tắc của TNHS có nguyên tắc cá thể hóa TNHS phục vụ cho

việc xét xử của Tòa án, bảo đảm chính sách xử lý công bằng và phân hóa đối

với người phạm tội.

Ngoài các công trình, tài liệu nêu trên, có thể kể đến một số Giáo trình Luật

hình sự của các quốc gia như Anh, Mỹ, Australia cũng đề cập đến vấn đề TNHS

như: “Luật hình sự - Văn bản và các vụ án” (Criminal Law: Text and Cases) của

L Waller và C R Williams, Nxb LexisNexis Butterworths, Australia, 2009; “Luật

hình sự - Lý thuyết và Học thuyết” (Criminal Law: Theory and Doctrine) của A P

Simester, J P Spencer, G R Sullivan và G J Virgo, Nxb Hart Publishing, Oxford,

2010; “Những vụ án và những vấn đề trong luật hình sự” (Cases and Problems

in Criminal Law) của Myron Moskovitz, Nxb Anderson Publishing Co.,

Cincinati, Ohio, 1999; “Các nguyên tắc của luật hình sự” (Principles of Criminal

10

Law) của Andrew Ashworth, Nxb Oxford University Press, 1999; “Luật hình sự

Văn bản, các vụ án và các nguồn tư liệu” (Criminal Law Text, Cases, and

Materials) của Janet Loveless, Nxb Oxford University Press, năm 2008;… [78].

Các tài liệu trên phân tích cơ sở của TNHS, như: các yếu tố cấu thành tội

phạm, các vấn đề về cấu thành của tội phạm chưa hoàn thành, của dự mưu đồng

phạm, cấu thành của hành vi đồng phạm, TNHS không chứa lỗi, TNHS thay

thế hoặc TNHS đồng nhất.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, tài liệu sách chuyên khảo nêu trên

đều có sự nhận thức chung thống nhất về nội hàm khái niệm, đặc điểm cơ bản và

nội dung của TNHS xuyên suốt trong các quy định của PLHS. Tuy nhiên, ngoài

các tác giả Xô viết còn có quan điểm khác nhau về TNHS và cơ sở của TNHS,

đáng chú ý là Sách chuyên khảo Criminal Law [111] dịch là Luật hình sự

(Published and bound in Canada by Love Printing Service Ltd, 1996) của Kent

Roach đã đưa ra khái niệm về TNHS: “TNHS là sự phản ứng hay sự lên án của

Nhà nước và xã hội đối với người thực hiện hành vi phạm tội và thể hiện ở bản

án mà trong đó họ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tước bỏ hoặc hạn chế

các quyền hay lợi ích nhất định...". Quan điểm này có điểm mới và khác biệt khi

cho rằng: TNHS là sự phản ứng hay sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với

người thực hiện hành vi phạm tội [78].

1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Đến nay, CNTT, MVT là những lĩnh vực tuy không còn mới, song vẫn rất

nóng bỏng, phức tạp bởi hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực này. Lịch sử của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gắn liền với sự ra đời của máy tính, mạng

máy tính, mạng viễn thông, mạng internet. Qua nghiên cứu, khảo sát các nguồn

tài liệu, có thể nêu tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên

quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:

Trước hết, là các tài liệu nghiên cứu về vấn đề cho rằng tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT là tội phạm mới hay không phải là tội phạm mới.

Đa số các tác giả từ trước đến nay đều cho rằng, tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT là tội phạm mới, do vậy các nghiên cứu thường xây dựng khái niệm

cho tội phạm này. Đây được coi là tội phạm mới vì để thực hiện được hành vi

phạm tội, người phạm tội luôn phải gắn với các thiết bị công nghệ cao, phải có

kiến thức, kỹ năng về máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông, internet. Theo

11

đó, quá trình tiến hành tố tụng về sau đòi hỏi người tiến hành tố tụng cũng phải có

kiến thức về máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông, internet. Các tác giả cũng

cho rằng vì đây là loại tội phạm mới, có đặc điểm khác với tội phạm truyền thống

nên Luật Hình sự cần phải có quy định riêng đối với loại tội phạm này.

Trái ngược quan điểm nêu trên, một số tác giả khác cho rằng tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT vẫn là các tội phạm đã xuất hiện từ trước, chỉ khác

nhau là cách thức thực hiện tội phạm, công cụ thực hiện tội phạm có sử dụng

CNTT, MVT mà thôi. Theo đó, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ là hình

thức thể hiện mới của tội phạm truyền thống. Đây là tư tưởng nổi bật trong tác

phẩm “Cybercrime: An Introduction” [117] dịch là Giới thiệu về tội phạm

mạng của tác giả Li, Xingan (Joensuu, Finland: LEX, 2005).

Thứ hai, là các nghiên cứu về vấn đề khái niệm tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT. Trong lịch sử, các tác giả đã nghiên cứu sớm hơn cả đến một khái

niệm liên quan, đó là khái niệm tội phạm mạng. Theo tác giả Debra Littejohn

Shinder, tội phạm mạng được rất nhiều người quan tâm, nhưng chưa có khái

niệm chính thức về tội phạm này. Các quan điểm về tội phạm này cũng không

có sự thống nhất. Dưới góc độ chung, có thể hiểu tội phạm mạng là tội phạm có

liên quan đến máy tính và mạng máy tính ở những vai trò như công cụ phạm

tội, mục tiêu tấn công của tội phạm hoặc phục vụ cho mục đích có liên quan

đến tội phạm. Các tác giả Steven Malby, Robyn Mace, Anika Holterhof,

Cameron Brown, Stefan Kascherus, Eva Ignatuschtschenko cũng cho rằng, trên

phạm vi toàn cầu, chưa có sự thống nhất về khái niệm tội phạm mạng. Tội

phạm này thường được gọi là “tội phạm mạng”, “tội phạm máy tính”, “tội

phạm công nghệ cao”,… do vậy, các tác giả không có ý định đưa ra một khái

niệm chung về tội phạm mạng, mà sử dụng phương pháp liệt kê những hành vi

phạm tội nào được coi là tội phạm mạng. Theo đó, nhiều hành vi phạm tội đã

được coi là tội phạm mạng như: tội truy cập trái phép, ngăn chặn, chặn bắt bất

hợp pháp dữ liệu máy tính; tội truy cập bất hợp pháp; tội gây rối hệ thống; tội

gây rối dữ liệu; tội xâm phạm bí mật đời tư; tội lạm dụng các thiết bị; tội giả

mạo liên quan đến máy tính; tội lừa đảo liên quan đến máy tính.

Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được trình bày trong

một số tác phẩm như: “Understanding cybercrime: phenomena, challenges

and legal response”, dịch là Luận giải về tình hình, thách thức và biện pháp

pháp lý đối với tội phạm mạng của tác giả Marco Gercke (Tổ chức viễn thông

12

quốc tế Liên hợp quốc (ITU) phát hành năm 2012); tác phẩm “Handbook of

internet Crime”, dịch là Sổ tay tội phạm mạng của tác giả Yvonne Jewkes và

Majid Yar (Nxb. Routledge, New York, 2011); tác phẩm“Policing Cyber

Crime”, dịch là Chính sách về tội phạm mạng của tác giả Petter Gottschalk;

“Handbook on Identity- Related Crime”, dịch là Sổ tay về tội phạm liên quan

đến thông tin danh tính cá nhân (United National (UNODC) phát hành năm

2011); bài viết “A Critical Look at the Regulation of Cybercrime”, dịch là

Bình luận các quy định về tội phạm mạng của tác giả Chawki, M, đăng trên

tạp chí The ICFAI Journal of Cyberlaw (2005); bài viết “An introduction to

Cybercrime”, dịch là Giới thiệu về tội phạm mạng của tác giả Marco Gercke,

Giáo sư Trường Đại học Cologne, Đức; bài viết “Cybercrime theory and

discerning if there is a crime: the case of digital piracy” dịch là Lý thuyết và

nhận thức rõ về tội phạm mạng: trường hợp xâm phạm bản quyền kỹ thuật số)

của tác giả Frances P Bernat và David Makin, đăng trên Tạp chí International

Review of modern sociology, Volume 40, số 2/2014.

Qua tìm hiểu về các công trình nghiên cứu ở trên, có thể thấy rằng, nhận

thức chung cơ bản đã có sự thống nhất, nhưng chưa thống nhất khi xác định cụ

thể phạm vi của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Có quan điểm xác định

phạm vi của tội phạm này rất rộng. Cụ thể: Bộ Tư pháp Mỹ cho rằng, tội phạm

máy tính bao gồm “mọi hành vi phạm tội có sử dụng kiến thức kỹ thuật máy tính

để phạm tội, điều tra hoặc xét xử”, đây là quan điểm cho thấy phạm vi của tội

phạm này quá rộng.

Chính vì chưa có sự thống nhất về phạm vi khái niệm tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT nên các nghiên cứu thường chú trọng tới việc phân loại

tội phạm này. Song, mỗi tác giả cũng có cách phân loại khác nhau, dựa trên

các tiêu chí khác nhau. Theo tác giả Debra Littejohn Shinder, dựa vào tính

chất của hành vi có tính bạo lực đối với con người hay không, tội phạm mạng

được chia làm 03 loại chính, đó là: Các tội phạm xâm phạm hoặc đe dọa xâm

phạm đến con người; Các tội phạm không bạo lực, xâm phạm thế giới ảo

(xâm phạm mạng, lừa đảo qua mạng, trộm cắp qua mạng; phá hoại mạng máy

tính, mạng viễn thông; các tội phạm khác); Các tội phạm không bạo lực

khác (quảng cáo trái phép trên mạng, cờ bạc qua mạng, mua bán trái phép

ma túy qua mạng, rửa tiền qua mạng, chuyển giao bất hợp pháp qua mạng).

Đối với tác giả Chawki, M. căn cứ vào hành vi và mục đích phạm tội, tội

13

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được chia thành 06 nhóm gồm: Các tội

phạm trộm cắp qua mạng; Tội phạm khủng bố qua mạng; Các tội phạm có

hành vi theo dõi, đe dọa, nói xấu cá nhân, tổ chức qua mạng; Các tội phạm lừa

đảo qua máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông; Các tội phạm liên quan

đến vi-rút và mã độc như: tội sản xuất, phân phối, tàng trữ, sở hữu trái phép

vi-rút, tội phát tán vi-rút hoặc sử dụng vi-rút để thực hiện các tội khác như

truy cập trái phép hoặc cản trở, phá hủy mạng máy tính, phương tiện điện tử;

Các tội phạm truy cập bất hợp pháp (hacking) vào máy tính, mạng máy tính

để thu thập thông tin hoặc các mục đích khác.

Trong các đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, có một đặc

điểm rất nổi bật đó là tội phạm này mang tính quốc tế, nó không bị giới hạn bởi

không gian địa lý, lãnh thổ. Việc thực hiện tội phạm thông qua mạng internet có

thể gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân ở quốc gia khác mà không cần trực tiếp có

mặt người phạm tội ở đó. Người phạm tội có thể “ẩn danh” nhằm che giấu tội

phạm. Để đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này, đã có nhiều văn bản pháp

luật quốc tế ra đời quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Nội dung các văn bản quốc tế quy định về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT khá đa dạng, phong phú, tập trung vào 04 vấn đề chính là:

Hình sự hóa các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT; Hợp tác quốc

tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; Xác

định thẩm quyền xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; Thủ tục tố tụng

trong xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Để hiểu rõ những văn bản

này, nhiều tác giả đã nghiên cứu làm rõ nội dung của các văn bản, đánh giá sự

tương thích của các văn bản này với PLHS của một số nước. Có một tác phẩm

tiêu biểu đó là “Comprehensive Study On Cybercrime”, dịch là Nghiên cứu

tổng quan về tội phạm mạng của các tác giả Steven Malby, Robyn Mace,

Anika Holterhof, Cameron Brown, Stefan Kascherus, Eva Ignatuschtschenko

do United Nations (UNODC) xây dựng năm 2013 đã nghiên cứu một cách

tổng thể, khái quát rất nhiều văn bản quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT từ trước đến nay, nhất là trong chương 2 và chương 3 của cuốn

sách. Trong chương 2 về tình hình tội phạm mạng trên toàn thế giới, các tác

giả không chỉ nêu lên tình hình tội phạm mạng mà còn mô tả bức tranh về đối

tượng phạm tội này. Còn trong chương 3 đã làm rõ vai trò của pháp luật, trong

đó có pháp luật quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Nội dung

14

quy định về hình sự hoá các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT đã

được phân tích một cách cụ thể. Bên cạnh đó, nội dung tác phẩm có sự so

sánh, đánh giá quy định của các văn bản quốc tế với nhau và so sánh đánh giá

với kết quả khảo cứu về quy định luật hình sự của hơn 80 nước trên thế giới.

Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác cũng nghiên cứu về văn bản pháp

luật quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như: tác phẩm “The History

of Global Harmonization on Cybercrime Legislation - The Road to Geneva”

dịch là Lịch sử của hài hòa quốc tế trong lĩnh vực lập pháp đối với tội phạm

mạng - Đường tới Geneva của tác giả Stein Schjolberg (2008); tác phẩm

“Understanding cybercrime: phenomena, challenges and legal response” dịch là

Luận giải về tình hình, thách thức và biện pháp pháp lý đối với tội phạm mạng

của tác giả Marco Gercke (Tổ chức viễn thông quốc tế Liên hợp quốc (ITU),

phát hành năm 2012); tác phẩm “Global Cybercrime: The Interplay of Politics

and Law” dịch là Tội phạm mạng toàn cầu: Sự tương tác của chính sách và

pháp luật của tác giả Aaron Shul (2014); tác phẩm “The Council of Erope

Convention on Cybercrime” dịch là Công ước về tội phạm mạng của Hội đồng

Châu Âu của tác giả Mike Keyser, CNS Đại học luật Seattle, Mỹ; hay như tác

phẩm The Emerging Consensus on Criminal Conduct in Cybercrime” dịch là Sự

thống nhất nổi bật về hành vi phạm tội đối với loại tội phạm mạng của các tác

giả Marc D. Goodman và Susan W. Brenner,…

1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam

1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự

Từ việc nghiên cứu các công trình khoa học ở trong nước liên quan đến TNHS

có thể khẳng định: tính đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan,

đa dạng về thể loại, nội dung và góc độ nghiên cứu về TNHS. Cụ thể như sau:

- Một là, nhóm các công trình khoa học về luật hình sự có liên quan đến TNHS

Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam [85] là công trình

lớn được nhiều tác giả nghiên cứu trên các phương diện lý luận và thực tiễn áp

dụng luật hình sự, luật tố tụng hình sự và tội phạm học. Các tác giả nghiên cứu

TNHS dưới góc độ lý luận khoa học hình sự. Nếu xác định chính xác TNHS sẽ

giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi PLHS, pháp luật tố tụng hình sự

một cách hiệu quả, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm hay áp dụng hình phạt không

tương xứng đối với các hành vi phạm tội đã gây ra.

Tội phạm và trách nhiệm hình sự [92] đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và

15

thực tiễn về tội phạm và TNHS trong PLHS nước ta. Theo đó, tội phạm và TNHS

liên hệ chặt chẽ với nhau, việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề TNHS có ý nghĩa rất

quan trọng. Những nội dung như: cơ sở, điều kiện của TNHS, thời hiệu truy cứu

TNHS, miễn TNHS… đã được nghiên cứu, đề cập làm sáng tỏ trong nội dung tài

liệu này. Bên cạnh đó, cuốn sách đã đánh giá những hạn chế, thiếu sót trong các quy

định tương ứng của BLHS về tội phạm và TNHS trên cơ sở tổng kết những tri thức

khoa học về luật hình sự, thực tiễn triển khai áp dụng và kinh nghiệm lập pháp của

một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, đưa ra những vấn đề cần tiếp tục hoàn

thiện xoay quanh vấn đề tội phạm và TNHS.

Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự [15] là công trình

nghiên cứu về hai chế định rất quan trọng của PLHS Việt Nam: chế định TNHS

và chế định miễn TNHS. Tác phẩm đã làm sáng tỏ các vấn đề đó là: khái niệm,

bản chất, đặc điểm, cơ sở và những điều kiện của TNHS, miễn TNHS, các

hậu quả pháp lý khi người phạm tội được miễn TNHS, vấn đề về TNHS của

pháp nhân. Hiện tại, trong giới nghiên cứu luật hình sự vẫn còn quan điểm khác

nhau xung quanh chế định TNHS và miễn TNHS. Thực tế, TNHS và miễn

TNHS có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, là hai chế định r ấ t cơ bản

của luật hình sự, có tính thống nhất. Nếu giải quyết tốt vấn đề TNHS và áp

dụng đúng, hiệu quả chế định miễn TNHS trong thực tiễn sẽ tạo thuận lợi

cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm thực hiện nguyên tắc

"trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo", "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng"

trong chính sách hình sự của Nhà nước ta [16].

Sách chuyên khảo “Trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp hình sự

khác” [40] của Nguyễn Ngọc Hòa, Nhà xuất bản Tư pháp (2022) đã đưa ra quan

điểm, giải thích nội dung quy định về TNHS, hình phạt và các biện pháp hình sự

khác trong PLHS Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới để góp phần tạo

thêm cơ sở cho việc đánh giá, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về TNHS, về

hình phạt và các biện pháp hình sự khác trong BLHS Việt Nam.

Giáo trình Trách nhiệm hình sự và hình phạt [93] của Trịnh Tiến Việt, Khoa

Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2022) dùng cho đào tạo sau đại học đã phân tích

những vấn đề lý luận và thực tiễn TNHS, hình phạt, TNHS và hình phạt trong

Luật hình sự Việt Nam tương lai. Cụ thể, giáo trình đã luận giải những vấn đề cốt

lõi nhất về TNHS đối với người phạm tội, TNHS đối với pháp nhân thương mại

phạm tội. Bên cạnh đó đã phân tích những vấn đề cơ bản nhất về hình phạt, hệ

16

thống hình phạt đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội, khái

niệm, ý nghĩa và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt trên các phương diện

khác nhau; làm sáng tỏ miễn hình phạt, biện pháp tư pháp, góp phần hỗ trợ cho

hình phạt đạt được mục đích tối đa nhất. Ngoài ra, giáo trình còn gợi mở hướng

nghiên cứu mới với cách tiếp cận liên ngành: khoa học luật hình sự và khoa học

viễn tưởng, công nghệ học, tâm lý học, ngôn ngữ học và giáo dục học, giả định

viễn cảnh tương lai trong BLHS bổ sung thêm TNHS và hình phạt đối với thực thể

trí tuệ nhân tạo (AI). Từ đó, phác thảo các mô hình TNHS và hình phạt giả định

ứng phó kịp thời cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự phát triển

của xã hội, cũng như trước những hành vi nguy hiểm mới nguy hiểm cho xã hội.

Trong việc triển khai nghiên cứu đề tài luận án, đây là một trong những tài liệu

tham khảo có giá trị.

Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung) [16] là

công trình đầu tiên trong khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách

đồng bộ, hệ thống và toàn diện 09 nhóm vấn đề cơ bản về phần chung luật hình

sự gồm: (1) Chính sách hình sự, (2) nhập môn luật hình sự, (3) đạo luật hình sự,

(4) tội phạm, (5) những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của

hành vi, (6) TNHS, (7) hình phạt và biện pháp tư pháp, (8) các biện pháp tha

miễn trong luật hình sự, (9) luật hình sự quốc tế. Trong đó, vấn đề TNHS đã

được phân tích, làm rõ trên cơ sở luận giải nhiều quan điểm của các nhà nghiên

cứu luật học trên thế giới. Từ đó đưa ra khái niệm về TNHS đảm bảo phù hợp

với đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước ta.

Song trên thực tế, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT với tư

cách là một vấn đề độc lập chưa được công trình nào đề cập nghiên cứu.

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam [34] trình bày các vấn đề cơ bản: khái

niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam, phân tích các khái

niệm, các quy định về tội phạm và phân loại tội phạm, cấu thành tội phạm. Trong

đó, tập trung nghiên cứu khá sâu sắc về nội dung TNHS và hình phạt trong luật

hình sự nước ta. Tác giả đã làm rõ một số quan điểm về TNHS, phân tích các đặc

điểm cơ bản của TNHS, như: TNHS là một dạng cụ thể của trách nhiệm pháp lý,

chỉ áp dụng đối với những người thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định PLHS

lúc bấy giờ thì TNHS này chỉ áp dụng cho cá nhân người phạm tội.

Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam [43], trong công trình này, tác giả

đã giới thiệu một số điều khoản cơ bản và hiệu lực của BLHS, đồng thời phân

17

tích, bình luận khoa học về các khía cạnh pháp lý của BLHS như: tội phạm,

thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS, hình phạt, các biện pháp tư pháp, quyết

định hình phạt theo các giai đoạn lịch sử xây dựng, phát triển của khoa học luật

hình sự Việt Nam.

Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam [46], công trình

nghiên cứu này đã chỉ ra khái niệm, mục đích, ý nghĩa, đặc điểm và các nội dung

chủ yếu của chính sách hình sự cũng như quá trình xây dựng và thực hiện chính

sách hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến thời điểm nghiên cứu. Theo tập thể

tác giả, chính sách hình sự suy cho cùng là những quan điểm, chủ trương của

Đảng, Nhà nước đối với việc xử lý các tội phạm, do vậy, chính sách hình sự và

TNHS luôn gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình áp dụng PLHS. Đối với

việc nghiên cứu đề tài luận án thì tài liệu này rất có giá trị tham khảo nhằm làm

rõ phần lý luận về TNHS.

- Hai là, nhóm các Luận án tiến sĩ nghiên cứu vấn đề liên quan đến TNHS Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam [32], công trình

luận án của tác giả Phạm Mạnh Hùng đã tập trung nghiên cứu chủ yếu về lý luận

của TNHS: khái niệm TNHS, mối quan hệ giữa TNHS với miễn TNHS và một

số trường hợp đặc biệt về TNHS theo PLHS Việt Nam. Luận án thực sự là nguồn

tài liệu tham khảo bổ ích để Nghiên cứu sinh nghiên cứu về TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam.

Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình

sự Việt Nam [24], trong luận án này, tác giả Trần Văn Dũng đã làm rõ những vấn

đề chung về TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội, quy định về TNHS

của người chưa thành niên phạm tội trong PLHS Việt Nam trước khi ban hành

BLHS năm 1999 và trong BLHS năm 1999. Luận án đã phân tích trách nhiệm

của gia đình, nhà trường và xã hội; thực trạng tội phạm do người chưa thành niên

gây ra; chỉ rõ nguyên nhân phát sinh của tội phạm này... Luận án nghiên cứu về

một chế định quan trọng của luật hình sự, nhất là trong thời điểm có nhiều vụ án

hình sự nghiêm trọng xảy ra do người chưa thành niên thực hiện. Luận án tuy

không nghiên cứu về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT song

một số kết luận khoa học của luận án này có ý nghĩa rất quan trọng để Nghiên

cứu sinh tham khảo, triển khai thực hiện luận án của mình.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam

[90], luận án này của tác giả Trần Thị Quang Vinh đã nghiên cứu lý luận và

18

thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ

TNHS; nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong BLHS Việt Nam. Vấn

đề này cũng khá nóng bỏng bởi trong thời gian qua, tỷ lệ án treo hoặc áp dụng

hình phạt nhẹ trong việc xét xử của Tòa án các cấp đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT có tỷ lệ cao mà một phần nguyên nhân được đưa ra là do Tòa

án đã vận dụng, áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS... Luận án này sẽ giúp

Nghiên cứu sinh đề xuất hoàn thiện về tình tiết giảm nhẹ và khung hình phạt

đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam [56],

trong luận án này, tác giả Cao Thị Oanh đã nghiên cứu về nguyên tắc phân hóa

TNHS; vận dụng các vấn đề lý luận để nghiên cứu các quy định của BLHS năm

1999, xác định những quy định phù hợp và chưa phù hợp. Từ đó đưa ra hướng

bổ sung, hoàn thiện các quy định chưa phù hợp. Luận án mới nghiên cứu và làm

rõ nguyên tắc phân hóa TNHS nói chung mà chưa được đề cập cụ thể về TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật

hình sự Việt Nam [91], luận án của tác giả Trịnh Tiến Việt đã nghiên cứu về chế

định miễn TNHS trong luật hình sự nước ta và việc áp dụng chế định miễn

TNHS trong thực tế. Luận án đã làm rõ những bất cập và đưa ra một số kiến nghị

lập pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn TNHS. Miễn TNHS là

một nội dung quan trọng, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, định hướng

nghiên cứu làm rõ hơn tính đặc thù về chính sách hình sự cũng như TNHS.

- Ba là, nhóm các bài báo khoa học liên quan đến TNHS

Mặc dù đã xuất hiện ở những năm 90 của thế kỷ XX, song các nghiên cứu

về TNHS của pháp nhân và các vấn đề xung quanh TNHS của pháp nhân ở Việt

Nam còn nhiều quan điểm khác nhau. Thời gian vừa qua đã có một số công

trình nghiên cứu liên quan đến TNHS của pháp nhân được đăng tải trên các tạp

chí như: Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong

luật hình sự Thụy Sĩ của Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Tòa án nhân dân, số

7/2005; Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Trung Quốc

của Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2005; Cơ sở thực tiễn

của việc quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức, pháp nhân của Trần Văn

Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01/2011; Sự cần thiết của việc quy định trách

nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Việt Nam của Cao Thị Oanh, Tạp chí Luật

19

học, số 12/2011. Đây là những báo báo đặt nền móng cho việc tiếp cận chế

định TNHS của pháp nhân thương mại trong PLHS Việt Nam. Theo đó BLHS

năm 2015 đã có quy định chính thức về TNHS đối với pháp nhân thương mại

tại khoản 2, Điều 2 đó là: "Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã

được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự".

Ngoài ra, còn có một số bài báo tiêu biểu được đăng trên các Tạp chí như:

Phân biệt trách nhiệm hình sự với trách nhiệm pháp lý khác, cơ sở và những

điều kiện của trách nhiệm hình sự của Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số

15/2004; Phân hóa trách nhiệm hình sự - một số vấn đề lý luận cơ bản của Lê

Cảm, Cao Thị Oanh, Tạp chí Luật học, số 2/2006; Năng lực trách nhiệm hình

sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật một số nước trên thế giới của Hồ Sỹ Sơn,

Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2011; “Trách nhiệm hình sự và miễn trách

nhiệm hình sự”, Tạp chí Luật học, số 5/1997 và “Về trách nhiệm hình sự của

hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”, Tạp chí Luật học, số 4/2002

của Lê Thị Sơn; “Trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi xâm

phạm sở hữu có giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu” của Nguyễn

Văn Trượng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2005; hay như “Lịch sử phân hóa

trách nhiệm hình sự trong các quy định về tội giết người từ năm 1945 đến nay”

của Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2006; “Bàn về khái

niệm, bản chất, nội dung và giới hạn của trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, số 6/2010 của Hồ Sỹ Sơn.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Ở nước ta, lĩnh vực CNTT, MVT mới chỉ được ứng dụng phổ biến vào đầu

những năm 90 của thế kỷ XX. Do đó, việc nghiên cứu về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT cũng mới được quan tâm nghiên cứu từ sau đó đến nay nhưng cũng

chưa nhiều. BLHS năm 1999 quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

tại Điều 224, Điều 225 và Điều 226, khi đó số lượng các công trình nghiên cứu

về tội phạm này mới tăng lên đáng kể. Tính đến nay, các nghiên cứu liên quan

đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tập trung vào một số chủ đề như: (1)

nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; (2)

phân tích, bình luận các quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT; (3) phân tích những bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định của BLHS

về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và đề xuất, kiến nghị phương án khắc

20

phục; (4) nghiên cứu về các văn bản quốc tế, cũng như kinh nghiệm của các

nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT [44].

Về khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ trước đến nay đều rất

được quan tâm ở Việt Nam, nó được chia làm 02 giai đoạn:

Đầu tiên khi mới xuất hiện, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được hiểu

là hành vi sử dụng CNTT, MVT để tấn công môi trường không gian mạng.

CNTT, MVT chính là mục tiêu tấn công của tội phạm. Theo đó, tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT được gọi bằng các thuật ngữ khác nhau như: tội phạm

máy tính, tội phạm vi tính, tội phạm mạng… Khái niệm tội phạm máy tính được

đưa ra chính là một trong những dạng đặc trưng nhất của tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT.

Giai đoạn thứ hai, khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được mở

rộng phạm vi, là tội phạm có liên quan đến CNTT, MVT với vai trò là mục đích

phạm tội và công cụ, phương tiện phạm tội. Hầu hết các nghiên cứu sau này về

khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, ở mức độ khác nhau đều theo

xu hướng này, có thể kể đến một số nghiên cứu như:

- Sách chuyên khảo “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin” của

Phạm Văn Lợi chủ biên (NXB. Tư pháp, 2007) và cuốn “Tội phạm trong lĩnh

vực bưu chính - viễn thông và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh” của Viện chiến

lược và Khoa học công an (NXB. Công an nhân dân, 2007).

- Luận án “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

theo Luật Hình sự Việt Nam” [44] của tác giả Nguyễn Quý Khuyến, Trường Đại

học Luật Hà Nội, năm 2020 đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận như khái

niệm, đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; phân tích các dấu hiệu

pháp lý và hình phạt của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định của

BLHS năm 2015; bình luận, so sánh, đánh giá các quy định này với những chuẩn

mực và xu hướng của pháp luật quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

để tìm ra điểm tương thích và chưa tương thích của Luật hình sự Việt Nam. Bên

cạnh đó, Luận án đã tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của Luật hình

sự về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải

pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tội

phạm này trong thời gian tới.

- Luận án “Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin

và viễn thông ở Việt Nam hiện nay” [33] của tác giả Trần Đoàn Hạnh, Học viện

21

Khoa học xã hội, năm 2021 đã làm rõ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; đánh giá thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót

và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động phòng ngừa tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Bên cạnh đó, Luận án đã đưa ra các giải pháp nhằm

tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT trong thời gian tới.

- Luận văn “Các tội phạm trong lĩnh vực tin học theo Luật hình sự Việt Nam”

của tác giả Trần Thị Hồng Lê (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009) và

“Tội phạm công nghệ thông tin trong Bộ luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần

Thanh Thảo (Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013).

- Bài nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành có: “Đặc điểm và các

dạng hành vi cơ bản của tội phạm tin học,” của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn đăng

trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2002; bài viết “Khái niệm và đặc điểm

của tội phạm công nghệ thông tin - Sự khác nhau giữa tội phạm công nghệ thông

tin và tội phạm thông thường” của tác giả Đặng Trung Hà đăng trên Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật, số 3/2009; bài viết “Tội phạm máy tính - Khái niệm, đặc trưng

và một số giải pháp phòng, chống”, của tác giả Nguyễn Hòa Bình đăng trên Tạp

chí Công an nhân dân, tháng 8/2003 [44].

Theo các nghiên cứu trên, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là tội phạm

có liên quan đến CNTT, MVT với những vai trò khác nhau. Trong đó, CNTT,

MVT thường liên quan đến tội phạm với 4 vai trò: (1) CNTT, MVT là mục đích

của tội phạm; (2) CNTT, MVT là công cụ, phương tiện phạm tội; (3) CNTT,

MVT là chủ thể của tội phạm; (4) CNTT, MVT là vật trung gian, cất giấu, lưu

trữ dấu vết tội phạm [47]. Theo cách tiếp cận này, khái niệm tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT có phạm vi rất rộng, tuỳ theo mục đích và góc độ nghiên cứu.

Chính vì vậy dẫn đến việc các tác giả xác định phạm vi khái niệm tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT không thống nhất.

Các nghiên cứu đã chỉ ra đặc trưng quan trọng của tội phạm này là sự liên

quan đến CNTT, MVT ở các góc độ khác nhau. Đây là điểm thống nhất quan

trọng để xác định khái niệm tội phạm này. Tuy nhiên, tội phạm liên quan đến

CNTT, MVT ở mức độ nào thì được coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

chưa có sự thống nhất.

Vấn đề đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng được

22

nhiều công trình nghiên cứu. Theo tác giả Phạm Văn Lợi, ngoài các đặc điểm

của tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT còn có một số điểm đặc

trưng khác như: (1) có vai trò của máy tính, mạng máy tính và các thiết bị công

nghệ thông tin có liên quan; (2) chủ thể phạm tội là người có kiến thức và am

hiểu về công nghệ mới; (3) hậu quả của tội phạm thường nghiêm trọng; (4) hành

vi phạm tội thường có tính chất tinh vi, phức tạp.

Điều này cũng được trình bày trong bài nghiên cứu “Khái niệm và đặc điểm

của tội phạm công nghệ thông tin - Sự khác nhau giữa tội phạm công nghệ thông

tin và tội phạm thông thường” của tác giả Đặng Trung Hà đăng trên Tạp chí Dân

chủ và Pháp luật, số 3/2009. Bài viết đã phân tích rõ sự khác nhau giữa tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT với các tội phạm khác là cơ sở để BLHS có quy

định riêng về tội phạm này. Thông qua việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chúng ta có thêm cơ sở để xác định, lựa chọn

dấu hiệu nào sẽ được BLHS quy định trong cấu thành tội phạm.

Phân loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là nội dung có ý nghĩa quan

trọng về cả lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung này ít được nghiên cứu ở

Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu đến nhưng còn hạn chế. Chẳng

hạn, theo tác giả Đặng Trung Hà, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được

chia thành 02 nhóm: (1) tội phạm CNTT xâm phạm, làm ảnh hưởng đến hoạt

động bình thường của hệ thống máy tính, mạng máy tính và thiết bị điện tử; (2)

tội phạm CNTT sử dụng máy tính và mạng máy tính làm công cụ để xâm phạm

đến lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn công

cộng. Cách phân loại này đúng nhưng còn khái quát, chưa có nhiều ý nghĩa;

chưa xác định được tiêu chí phân loại cụ thể làm căn cứ phân loại.

Khi BLHS năm 2015 được ban hành với nhiều quy định được sửa đổi, bổ

sung về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhiều công trình nghiên cứu đã làm

rõ các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội này như: “Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam” (Phần các tội phạm) Tập 2 của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (NXB. Đại

học quốc gia Hà Nội, 2016); “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa

đổi, bổ sung năm 2017” do Lê Đăng Doanh và Cao Thị Oanh chủ biên (NXB.

Hồng Đức, 2018); “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi,

bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm)”, quyển 2 do Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên

(NXB. Tư pháp, 2018); “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017)” phần các tội phạm của các tác giả Trần Văn Luyện, Phùng Thế

23

Vắc, Lê Văn Thư, Mai Văn Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Phạm Thị

Thu (NXB. Công an nhân dân, 2018).

Vấn đề kỹ thuật lập pháp của BLHS năm 2015 về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT cũng được nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu

tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định các tội phạm với các

luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam” (2016) do Nguyễn Ngọc Hòa làm

chủ nhiệm, trong đó có chuyên đề “Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật Hình

sự năm 2015 với Luật Công nghệ thông tin” của Nguyễn Văn Hương. Thông

qua việc nghiên cứu, so sánh giữa các tội thuộc lĩnh vực CNTT được quy định

trong BLHS năm 2015 với các quy định về hành vi bị cấm trong Luật Công nghệ

thông tin, tác giả đưa ra nhận xét đánh giá “hầu hết các hành vi bị nghiêm cấm

trong Luật Công nghệ thông tin (có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội) đều được

quy định trong BLHS 2015. So với BLHS 1999, các tội thuộc lĩnh vực CNTT

trong BLHS 2015 được bổ sung thêm 03 tội danh mới. Tuy nhiên, các quy định

trong BLHS 2015 vẫn còn có những hạn chế nhất định và điều đó đòi hỏi cần

được tiếp tục hoàn thiện”. Để hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015, tác giả

Nguyễn Văn Hương đưa ra một số đề xuất như: (1) quy định TNHS của pháp

nhân đối với Điều 285 và Điều 292; (2) chuyển Điều 290 về chương các tội xâm

phạm sở hữu; (3) thu hẹp phạm vi điều chỉnh của Điều 292; (4) bổ sung dấu hiệu

làm rõ ranh giới của hành vi bị coi là tội phạm với hành vi vi phạm (bị xử phạt

hành chính) quy định tại Điều 290 [44]. BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung

năm 2017 thì đã bãi bỏ Điều 292.

Hướng nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT và đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp

dụng các quy định này được rất nhiều tác giả quan tâm. Các tác phẩm nghiên cứu

này khá phong phú bao gồm sách chuyên khảo, luận án, luận văn và các bài nghiên

cứu công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Trong tác phẩm “Tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin”, thông qua việc nghiên cứu tình hình tội phạm và các quy

định pháp luật về phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước

ta cho đến trước năm 2007, tác giả nêu ra một số khó khăn, vướng mắc trong quá

trình điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Để giải quyết những khó khăn,

vướng mắc trên, các tác giả đưa ra một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Các giải pháp mà các tác giả nêu ra có

những ý nghĩa tham khảo nhất định nhất là những giải pháp bổ sung, hoàn thiện

24

PLHS và áp dụng PLHS trong lĩnh vực này.

Trong tác phẩm “Tội phạm trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông và giải

pháp phòng ngừa, đấu tranh” của Viện Chiến lược và khoa học công an (NXB.

Công an nhân dân, 2007), các tác giả đã nêu ra một số khó khăn của lực lượng

Công an nhân dân khi áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 để đấu tranh

với các tội phạm trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông. Trên cơ sở đó đã đưa ra

một số giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh

với tội phạm trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông..

Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của BLHS về

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT để xử lý tội phạm này cũng được nhiều tác

giả nghiên cứu. Vấn đề này có thể kể đến các bài viết như bài viết “Viện Kiểm

sát nhân dân trước những khó khăn, thách thức của các tội phạm về công nghệ

thông tin” của tác giả Nguyễn Minh Đức đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 19/2008;

bài viết“Về việc xác định tội danh đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực

viễn thông” của tác giả Mai Thế Bầy đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật

số 3/2002; bài viết “Xác định tội trộm cắp tài sản đối với người lắp đặt thiết bị

thu phát viễn thông để thu lợi bất chính là có căn cứ” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh

đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19/2004; bài viết “Về định tội danh đối

với hành vi làm, sử dụng thẻ tín dụng giả hay các loại thẻ khác để mua hàng hóa

hoặc rút tiền tại các máy trả tiền tự động của các ngân hàng” của tác giả Lê

Đăng Doanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2006. Trong các bài viết

này, các tác giả đã chỉ ra những khó khăn trong việc áp dụng quy định của BLHS

để xét xử những hành vi phạm tội mới xuất hiện; khó khăn trong việc định tội

đối với một số tội dễ gây nhầm lẫn. Đồng thời, đề xuất phương án để tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc trên [44].

Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy

định của BLHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu và chỉ ra. Trong đó có nguyên

nhân từ quy định của pháp luật như BLHS như: chưa có quy định hoặc chưa có

văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. Một số bài viết về chủ đề này

như bài viết “Cần sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin” của tác giả Nguyễn Văn Hoàn đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 4/2010; 02 bài

viết đều của tác giả Phạm Minh Tuyên: “Một số vướng mắc và biện pháp xử lý

tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông ở Việt Nam” đăng trên

25

Tạp chí Kiểm sát, số 19/2012 và “Quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản

hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật hình sự 2009 về tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí

Kiểm sát, số 23/2013; bài viết “Về tội sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho

công cụ, thiết bị phần mềm có khả năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử theo Bộ luật Hình sự năm 2015” của tác giả Nguyễn

Quý Khuyến đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 1/2018; bài viết “Cần sớm có

văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình

sự về các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin” của tác giả Nguyễn Văn

Hoàn đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 4/2010; bài viết“Chưa có căn cứ để truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với hành vi lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn thông trái phép”

của tác giả Lê Đăng Doanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2004; bài

viết“Lắp đặt sử dụng thiết bị viễn thông để thu lợi cước phí điện thoại trái phép -

có thể truy tố tội kinh doanh trái phép” của tác giả Trần Vũ Hải đăng trên Tạp chí

Tòa án nhân dân số 22/2004; bài viết “Về hành vi lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn

thông trái phép thu cước điện thoại - phạm tội gì?” của tác giả Dương Tuyết Miên

đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2004; bài viết “Cần tội phạm hoá các

hành vi nguy hiểm liên quan đến máy tính” của tác giả Bùi Văn Nhơn và Phạm

Văn Beo đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3/2005; bài viết “Nghiên cứu

hình phạt tiền đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn

thông theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Thắng

đăng trên Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt 02/2023.

Theo các tác giả trên, mặc dù BLHS năm 1999 đã có quy định liên quan

đến tội phạm mạng nhưng còn nhiều bất cập như nội dung các điều luật chưa cụ

thể, khó áp dụng; các điều luật chưa bao quát hết các hành vi của tội phạm mạng

có thể diễn ra; hệ thống chế tài chưa tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội

của hành vi phạm tội trên mạng… do đó cần phải tội phạm hóa và cụ thể hóa các

hành vi nguy hiểm liên quan đến máy tính. Việc không có quy định đầy đủ cũng

gây khó khăn cho việc xử lý những hành vi nguy hiểm cho xã hội phát sinh như

hành vi “lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn thông trái phép thu cước điện thoại”. Khi

BLHS năm 1999 được sửa đổi năm 2009, các quy định của BLHS liên quan đến

tội phạm này đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn. Tuy nhiên, quy định mới

ra đời nhưng đã có bất cập, khó áp dụng như các dấu hiệu định khung chưa rõ,

một số khái niệm chưa được giải thích, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn thực

26

hiện của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, có thể thấy những bài viết về tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định của BLHS năm 2015 còn ít,

chưa phong phú, cần được tiếp tục được nghiên cứu [44].

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án và những

vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong Luận án

1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án

Qua nghiên cứu các công trình khoa học liên quan đến luận án ở trong và

ngoài nước, tác giả đưa ra một số nhận xét, đó là:

- Về tình hình nghiên cứu ngoài nước: mỗi quốc gia, có trình độ phát triển

và truyền thống pháp lý khác nhau nên các công trình nghiên cứu về pháp luật

cũng như thực tiễn phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng

khác nhau. Tuy nhiên, các công trình đã tập hợp trên đây cũng đã cho phép tác

giả thu thập, đánh giá các quan niệm khác nhau về TNHS, về cơ sở của TNHS,

về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan

trọng cho Nghiên cứu sinh khi đánh giá và so sánh về TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT giữa các nước.

- Đối với các công trình đã nghiên cứu, phân tích TNHS theo quy định của

PLHS Việt Nam, trong đó có TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT chính là xuất phát điểm quan trọng, mang tính tiền đề để Nghiên cứu sinh

tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về TNHS nói chung và TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.

- Một số công trình nghiên cứu ở trong nước đã làm rõ nhiều vấn đề liên quan

đến đề tài của luận án như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở của TNHS, dấu hiệu đặc

trưng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cũng như thực trạng thực hiện các

quy định về TNHS đối với một loại tội phạm cụ thể, từ đó giúp Nghiên cứu sinh

triển khai và hoàn thiện ý tưởng trên những phương diện nhất định của luận án.

- Cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có công trình nào ở cấp độ luận án tiến sĩ

nghiên cứu trực tiếp về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể

là khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, nội dung, hình thức, giai đoạn,

phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, quy

định và thực tiễn áp dụng quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến 6/2024, vẫn còn những vấn

đề mới cần phải nghiên cứu, làm rõ và tiếp tục hoàn thiện PLHS cũng như bảo đảm

27

áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án

Thứ nhất: Khái niệm, đặc điểm của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT chưa được tác giả của các công trình nghiên cứu một cách toàn

diện để từ đó có thể chỉ ra được những đặc tính riêng của TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Thứ hai: Một số công trình mới dừng ở việc nghiên cứu cơ sở lý luận của

TNHS hoặc là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Do vậy, luận án sẽ làm rõ

cơ sở của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đồng thời nêu và

phân tích các hình thức, nội dung, nguyên tắc, các giai đoạn và ý nghĩa của TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Thứ ba: Từ thực tiễn áp dụng các hình thức TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT trong giai đoạn từ 2013 - 6/2024, luận án sẽ đưa ra những

nhận xét, đánh giá khách quan đối với quy định của PLHS hiện hành về TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ đó đưa ra các yêu cầu nâng cao

hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, giải pháp hoàn

thiện PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT trong thời gian tới ở nước ta.

1.4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu của

Luận án

1.4.1. Cơ sở lý thuyết

Luận án nghiên cứu về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

trên cơ sở hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm nói chung và tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.

1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu chung của Luận án là trong giai đoạn hiện nay, các quy

định của PLHS Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có việc bảo đảm áp dụng hiệu quả

TNHS đối với tội phạm này hay chưa? Để giải quyết câu hỏi này, Luận án cần giải

quyết những vấn đề nghiên cứu cụ thể sau đây:

Thứ nhất, tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như thế nào? Có những vấn

đề gì đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu?

Thứ hai, hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

28

MVT đã đầy đủ, hoàn thiện và thống nhất hay chưa?

Thứ ba, các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT có phù hợp, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu

tranh chống tội phạm trong lĩnh vực này hay không?

Thứ tư, thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS Việt Nam về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có việc áp dụng TNHS đối với tội phạm này thời

gian qua như thế nào? Cơ quan có thẩm quyền đã đạt được những kết quả tích cực

và gặp phải những khó khăn, vướng mắc, hạn chế gì? Nguyên nhân của những khó

khăn, vướng mắc, hạn chế đó là gì?

Thứ năm, trong thời gian tới, bối cảnh, sự cần thiết phải hoàn thiện PLHS

về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng

TNHS đối với tội phạm này đặt ra như thế nào? Cần có những giải pháp gì để

bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT?

1.4.3. Giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu trên, Luận án xây dựng giả thuyết nghiên

cứu gồm các vấn đề như sau:

Về tổng thể, Luận án giả thiết rằng, PLHS Việt Nam hiện nay cơ bản đã

đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT nói chung, việc xác định và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế, vướng mắc nhất

định, cần phải tiếp tục hoàn thiện và đề ra giải pháp thực hiện có hiệu quả hơn

trong thời gian tới. Cụ thể:

Thứ nhất, hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT còn chưa được nghiên cứu sâu sắc, toàn diện. Do đó, cần xây dựng và hoàn

thiện hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Thứ hai, các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm này, nhưng trên thực tế triển khai áp dụng vẫn còn những khó khăn,

hạn chế, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,

áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói riêng. Do đó, các quy định của PLHS về

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần được tiếp tục được nghiên

cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.

Thứ ba, việc áp dụng quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, song

29

vẫn còn những hạn chế, khó khăn và vướng mắc. Những hạn chế, khó khăn,

vướng mắc này do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Từ

đó, Luận án cần phải tìm ra những giải pháp để giải quyết những nguyên nhân

này, góp phần bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT trong thời gian tới.

Tiểu kết Chương 1

TNHS nói chung, TNHS đối với các loại tội phạm cụ thể nói riêng và tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những nội dung quan trọng của khoa học

Luật Hình sự, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả cũng như cán bộ

làm công tác thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Qua tổng quan

tình hình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước cho thấy đã có nhiều công trình

khoa học ở các cấp độ khác nhau, nghiên cứu về TNHS và về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT ở các góc độ tiếp cận đa chiều. Tuy nhiên, đến nay chưa

có công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam. Việc tìm hiểu các công

trình khoa học liên quan đã cung cấp cho Nghiên cứu sinh những quan điểm,

luận cứ khoa học tương đối đa dạng, hấp dẫn về các vấn đề liên quan đến TNHS

nói chung và những kiến thức khoa học Luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT - một loại tội phạm đặc thù, với sự xuất hiện và nghiên cứu còn

khá mới mẻ. Từ việc nghiên cứu tổng quan đã chỉ rõ những kết quả nghiên cứu

đã đạt được, những “khoảng trống” cần bổ sung, hoàn thiện. Trên cơ sở đó, Luận

án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cần tập trung giải quyết của mình, đó là:

(1) Xây dựng, phát triển lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT; (2) Làm rõ quy định của PLHS và thực tiễn áp dụng TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian qua; (3) Phân tích các

yêu cầu nâng cao hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,

giải pháp hoàn thiện PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và bảo đảm

áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta

30

trong thời gian tới.

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG

2.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của trách nhiệm hình

sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

2.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự

Trách nhiệm pháp lý gồm nhiều loại trách nhiệm, trong đó có TNHS. TNHS

là loại trách nhiệm pháp lý nặng nhất. Để nhận thức thống nhất về TNHS, chúng

ta cần bắt đầu từ khái niệm “trách nhiệm pháp lý", là khái niệm “gốc rễ” của

ngành Luật học.

Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm trách nhiệm pháp lý được hiểu cơ bản

thống nhất, dựa trên hai nghĩa khác nhau của cụm từ “trách nhiệm”. Trách nhiệm

được hiểu là điều phải làm, phải gánh vác (nghĩa thứ nhất) và là điều phải nhận

lấy về mình (nghĩa thứ hai) [95]. Khái niệm trách nhiệm pháp lý cũng được giải

thích theo 02 hướng này. Tuy nhiên, khái niệm trách nhiệm pháp lý trong đó có

TNHS, trách nhiệm hành chính và các trách nhiệm pháp lý khác được hiểu theo

hướng là hậu quả pháp lý mà chủ thể phải gánh chịu do đã thực hiện hành vi vi

phạm pháp luật.

Theo Giáo trình “Lý luận chung về nhà nước và pháp luật” của Trường Đại

học Luật Hà Nội thì “Trách nhiệm pháp lý là sự bắt buộc phải gánh chịu hậu quả

pháp lý bất lợi do vi phạm pháp luật” [26]. Tác giả Hoàng Thị Kim Quế cho rằng:

“… trách nhiệm là những hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất hoặc tinh thần được

áp dụng bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền…” [59]. Còn theo tác giả

Nguyễn Minh Đoan thì “… trách nhiệm được hiểu là hậu quả bất lợi (tổ chức, cá

nhân nào đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật)” và

“… bản thân trách nhiệm pháp lý không phải là sự cưỡng chế mà chỉ là nghĩa vụ

phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định” [27].

Từ các định nghĩa gốc về trách nhiệm pháp lý, có thể cụ thể hóa một số nội

31

dung của TNHS như sau:

- Các biện pháp tác động được PLHS quy định chính là hậu quả pháp lý

bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu, được Tòa án tuyên thông qua bản án. Các

biện pháp tác động này có thể được gọi là các biện pháp PLHS (gọi tắt là biện

pháp hình sự), gồm hình phạt và các biện pháp hình sự khác, cùng có mục đích

là phòng ngừa tội phạm và bảo vệ các đối tượng cần được bảo vệ bằng PLHS.

- TNHS mang tính cưỡng chế rất cao bởi việc chấp hành các biện pháp hình

sự đã được Tòa án tuyên là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc đối với chủ thể phạm tội.

- TNHS là việc phải chấp hành tuyệt đối các biện pháp hình sự đã được

tuyên mà không phải là các biện pháp này.

- Việc chủ thể phải gánh chịu, chấp hành tuyệt đối các biện pháp PLHS đã

được Tòa án tuyên là về hành vi phạm tội đã xảy ra.

Hiện nay, tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về TNHS nhưng các định nghĩa

của các tác giả trong nước đều có điểm chung khi xác định TNHS là “hậu quả

pháp lý” và hậu quả này gắn với “hành vi phạm tội”. Ví dụ: TNHS là “… hậu quả

pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định

là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án nhân danh Nhà

nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó…” [17] hay

là “… hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội, thể hiện ở chỗ người phạm tội phải

chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hành vi của mình” [87]. Hay như khái niệm:

“Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất và là

hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, đồng thời được thể hiện bằng

việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế hình sự do Luật Hình sự quy định

đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội” [94].

Nội dung cụ thể của TNHS đối với người phạm tội còn tồn tại những quan

điểm, nhận thức khác nhau. Khi nói đến TNHS của người phạm tội phải hiểu đầy

đủ là trách nhiệm của người phạm tội đối với Nhà nước. Bản thân khái niệm

TNHS của người phạm tội đã phản ánh mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và

người phạm tội. TNHS chỉ phát sinh khi tội phạm được thực hiện. TNHS phát

sinh ngay từ khi tội phạm được thực hiện và sẽ chấm dứt khi người phạm tội đã

được xóa án tích, khi họ không còn bị coi là người đã phạm tội. TNHS sẽ phát

sinh và tồn tại khi còn tồn tại cơ sở pháp lý phát sinh mối quan hệ giữa hai chủ

thể: Nhà nước và người phạm tội. Việc nghiên cứu khái niệm TNHS không thể

32

chỉ giới hạn trong phạm vi nghĩa hẹp của TNHS là trách nhiệm người phạm tội

phải chịu trước Nhà nước và quên đi yếu tố thực hiện TNHS thông qua Nhà

nước. Do đó, cần nghiên cứu khái niệm TNHS đồng thời từ hai góc độ: thực hiện

TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS từ phía người phạm tội [40].

Xét về tổng thể, TNHS bao gồm hai mặt đó là thực hiện TNHS từ phía Nhà

nước và chịu TNHS từ phía chủ thể phạm tội. Đó là hai mặt đan xen, hợp thành

thể thống nhất là TNHS. Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng phải có

việc truy cứu TNHS từ phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu TNHS của

chủ thể phạm tội. TNHS thực chất là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước

và chủ thể phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm được thực hiện [40]. Đây

cũng là quan điểm tiếp cận và thống nhất của Nghiên cứu sinh. Trong đó, chủ thể

phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, của các

biện pháp cưỡng chế nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền

và lợi ích hợp pháp của mình. Còn Nhà nước có quyền truy tố, xét xử và buộc chủ

thể phạm tội phải chịu biện pháp hình sự nhất định tương xứng với tính nguy hiểm

của tội phạm do họ thực hiện và có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của chủ thể phạm tội không bị xâm phạm trong quá trình các cơ quan đại diện của

Nhà nước thực hiện TNHS. Trên cơ sở các nội dung chính của trách nhiệm pháp

lý đã được cụ thể hóa cho TNHS, có thể đưa ra khái niệm TNHS như sau:

Trách nhiệm hình sự là hậu quả bất lợi mà chủ thể phạm tội phải chấp

hành nghĩa vụ pháp lý là những biện pháp tác động của Nhà nước do pháp luật

hình sự quy định và được Tòa án tuyên bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về

tội phạm đã xảy ra trên thực tế.

2.1.1.2. Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Để đưa ra khái niệm TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,

chúng ta cần hiểu khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Về vị trí, tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được xác định tại Mục 2, Chương XXI: Các tội

xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của BLHS năm 2015, gồm 09 tội

(từ Điều 285 đến Điều 294, trừ Điều 292 bị bãi bỏ). Trước khi đưa ra khái niệm

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần làm rõ khái niệm CNTT và MVT.

Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm CNTT được đề cập tại Khoản 1, Điều 4

Luật Công nghệ thông tin năm 2006: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương

pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu

33

thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”.

Còn đối với MVT, khái niệm này được quy định tại Khoản 14, Điều 3 Luật

Viễn thông năm 2023: “Mạng viễn thông là tập hợp thiết bị viễn thông được liên

kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng

dụng viễn thông”.

Trên thế giới hiện nay, chưa có một khái niệm chung nhất về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT. Trong khuôn khổ cuộc họp lần thứ 10 của Đại hội đồng

Liên hợp quốc về ngăn chặn và xử lý tội phạm được tổ chức tại thành phố Viên

(Áo) từ ngày 10/10/2000 đến ngày 17/10/2000 có một Hội thảo đã bàn về vấn đề

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tại đây, việc định nghĩa về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT được đưa ra với 02 quan điểm.

Quan điểm theo nghĩa hẹp, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là các hành vi

phạm tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với mục đích xâm phạm đến an toàn

của hệ thống máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu của hệ thống đó [138]. Đây có thể

được hiểu là loại tội phạm mới, có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính,

làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho người sử dụng.

Quan điểm theo nghĩa rộng, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là các

hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có liên quan đến

máy tính, mạng máy tính, bao gồm các loại tội phạm như chiếm giữ bất hợp

pháp và đe dọa hoặc làm sai lệch thông tin bằng phương pháp sử dụng mạng

máy tính [138]. Theo định nghĩa này, các loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT sẽ rất rộng, với nhiều loại hành vi của tội phạm truyền thống được thực

hiện với sự trợ giúp của công cụ máy tính như: hành vi lừa đảo, trốn lậu cước

viễn thông,...

Theo định nghĩa trên thì tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những tội

phạm liên quan đến máy tính và các mạng thông tin. Định nghĩa này khẳng định

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm cả các tội phạm hình thành trong

môi trường mới của CNTT và cả các tội phạm truyền thống được thực hiện với

sự hỗ trợ của các phương tiện CNTT, MVT.

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được phân biệt với một số tội phạm

có liên quan gần như “tội phạm công nghệ cao”, “tội phạm trong lĩnh vực công

nghệ thông tin”, “tội phạm sử dụng công nghệ cao”, “tội phạm máy tính”, “tội

phạm mạng”,... Có rất nhiều định nghĩa có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực

34

CNTT, MVT, nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tùy góc độ và mục đích nghiên cứu của mình, mỗi

tác giả lại đưa ra khái niệm và thuật ngữ khác nhau. Tuy nhiên, ở phạm vi rộng

hay hẹp và sử dụng thuật ngữ nào, khái niệm về tội phạm liên quan đến CNTT,

MVT mà các tác giả sử dụng đều có một số đặc điểm chung như sau:

Thứ nhất, đó là tội phạm mới, được người phạm tội thực hiện trên môi

trường không gian mạng và có sử dụng CNTT, MVT, tạo nên sự khác biệt so với

các tội phạm truyền thống.

Thứ hai, tội phạm liên quan đến CNTT, MVT có phạm vi rộng. Người

phạm tội có thể sử dụng CNTT, MVT để thực hiện các tội phạm truyền thống

khác. Chính vì vậy, tội phạm liên quan đến CNTT, MVT có thể được quy định ở

nhiều chương khác nhau trong BLHS.

Thứ ba, CNTT, MVT có thể là công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm

hoặc có thể là mục tiêu tấn công xâm hại của tội phạm.

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có phạm vi hẹp hơn khái niệm tội

phạm liên quan đến CNTT, MVT. Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng sử

dụng CNTT, MVT để thực hiện tội phạm hoặc tấn công không gian mạng. Tuy

nhiên, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ xâm phạm sự an toàn của mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. Trường hợp

người phạm tội sử dụng CNTT, MVT để thực hiện tội phạm xâm phạm khách thể

khác như an ninh quốc gia, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng khác

thì không được coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT [44]. Trên cơ sở đó,

Luận án rút ra khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:

Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông là các hành

vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng

lực trách nhiệm hình sự sử dụng công nghệ thông tin, mạng viễn thông cố ý thực

hiện, xâm phạm an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử,

dữ liệu điện tử mà theo quy định phải bị xử lý hình sự.

2.1.1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

TNHS là một phạm trù phức tạp, với nhiều nội dung, hình thức, cấp độ và

giai đoạn thể hiện. Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự đòi hỏi TNHS phải

được quy định và triển khai trên thực tế tương xứng với tính chất và mức độ

35

nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, đảm bảo hài hòa giữa tính cưỡng chế và tính

giáo dục. Việc xác định một giới hạn TNHS cụ thể đối với từng hành vi phạm tội

không đơn giản. Do đó, việc lựa chọn hành vi nào là tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT và quy định biện pháp TNHS nào để vừa đảm bảo cân bằng giữa

lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân với quyền con người, vừa đạt được hiệu

quả của TNHS cũng là vấn đề rất khó khăn.

Trong luật hình sự Việt Nam, CNTT, MVT là những lĩnh vực quan trọng,

được xếp vào nhóm an toàn công cộng, trật tự công cộng, là nhóm khách thể rất

thiết yếu. Thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là

tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm, đánh giá sự phù hợp giữa các quy định của

PLHS với bản chất pháp lý của nó và là căn cứ quan trọng để hoàn thiện PLHS.

Trên cơ sở khái niệm TNHS và khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT đã được đưa ra ở phần trên, có thể định nghĩa TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:

Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,

mạng viễn thông là nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi

trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình thuộc nhóm tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông, theo đó người phạm tội bị tước đoạt hoặc

bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo quy định của pháp luật hình sự thông

qua bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm hình phạt, biện

pháp tư pháp và án tích.

2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Từ khái niệm khoa học đã nêu, có thể chỉ ra đặc điểm của TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:

Một là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là dạng trách

nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào mà

người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp

dụng. Có nhiều dạng trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với chủ thể vi phạm pháp

luật trong lĩnh vực CNTT, MVT nhưng TNHS là nghiêm khắc nhất, nặng nề

nhất, thể hiện thông qua các hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội trong

lĩnh vực này phải gánh chịu trước nhà nước và pháp luật, trên cơ sở quy định của

36

PLHS và được quyết định bởi cơ quan có thẩm quyền.

Hai là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là sự lên án,

thể hiện phản ứng của Nhà nước đối với những người thực hiện tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT bằng việc quy định các biện pháp cưỡng chế về hình sự để

áp dụng đối với người đó. Nhà nước quy định về tội phạm và thể hiện nội dung

TNHS trong luật hình sự với mức độ TNHS tương ứng đối với từng loại tội

phạm. Đối với các hành vi phạm các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, Nhà nước

cũng quy định rõ sự phản ứng của mình bằng việc quy định về hình phạt và các

biện pháp cưỡng chế về hình sự khác để áp dụng đối với những người thực hiện

hành vi phạm các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, thể hiện tính pháp chế, tính

công bằng của PLHS và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức, cá nhân và cũng chính là các quyền, lợi ích nhất định của người phạm tội

trong lĩnh vực này.

Ba là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là hậu quả pháp

lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc thực hiện tội phạm, TNHS

chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Nếu không có việc thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội bị BLHS xác định là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì

không thể có TNHS đặt ra đối với các tội phạm này. Trong “Chương 5: Trách

nhiệm hình sự”, “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung)”, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội (tái bản năm 2007), tác giả Trần Văn Độ đã khẳng định:

“Trách nhiệm hình sự tồn tại khách quan mà không phụ thuộc vào việc cơ quan

hay người có thẩm quyền đã phát hiện được tội phạm và người phạm tội hay

chưa”. Do đó, trong khoảng thời gian còn thời hiệu truy cứu TNHS, người phạm

các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải chịu sự truy cứu TNHS từ phía Nhà

nước, còn Nhà nước có quyền truy cứu TNHS người phạm các tội này trên cơ sở

quy định chung của BLHS.

Bốn là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ được thực

hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể

có quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là đại diện cho Nhà nước, còn bên kia

là người phạm tội. Cụ thể, Nhà nước mà đại diện của nó là các cơ quan tư pháp

hình sự có thẩm quyền xử lý người phạm tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được

xử lý dựa trên căn cứ và trong các giới hạn, biên độ do pháp luật quy định và

điều chỉnh. Ngược lại, người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn

37

chế quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu sự tuân

thủ nghiêm minh, đầy đủ và thực hiện đúng quy định của pháp luật từ phía Nhà

nước, từ phía các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và từ các cán bộ thực

thi pháp luật - đối với các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của con người, của

công dân theo đúng quy định của pháp luật. Hai nội dung (quyền và nghĩa vụ)

thực hiện luôn song hành với hai chủ thể của quan hệ PLHS là Nhà nước và

người phạm tội [16]. Tuy nhiên, ngày nay theo quan niệm hiện đại thì quan hệ

PLHS không chỉ là quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội mà còn là mối

quan hệ giữa nhà nước, người phạm tội và xã hội [88]. Điều này cho thấy, TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT không những phải giải quyết trong

mối quan hệ giữa nhà nước - người phạm tội mà còn trong sự tương tác, phù hợp

với ảnh hưởng xã hội.

Năm là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ áp dụng

với cá nhân người phạm tội. TNHS đối với tội phạm nói chung, tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng đối

với bản thân một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS

quy định là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chủ thể của tội phạm là cá

nhân người đã thực hiện tội phạm, có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.

BLHS năm 2015 đã quy định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại,

song chỉ áp dụng đối với các tội phạm quy định tại Điều 76 của Bộ luật này,

trong đó không có các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Sáu là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mang tính chất

công. Theo đó, chỉ Nhà nước mới có quyền buộc người phạm tội phải chịu

TNHS và ngược lại, TNHS của người phạm tội ở đây là trách nhiệm trước Nhà

nước, trước xã hội chứ không phải trước cơ quan, đơn vị hay cá nhân nào. Đồng

thời, TNHS được thể hiện trong bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật được áp dụng đối với người phạm tội thông qua một hoặc nhiều biện pháp

cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định. Bản án kết tội đã có hiệu lực pháp

luật của Tòa án là cơ sở pháp lý quan trọng xác nhận một người đã thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT, người đó chính thức bị coi là “có tội”. Đây là hậu quả pháp lý thể

hiện nội dung quan trọng của TNHS, mà người phạm tội phải gánh chịu trước

38

Nhà nước, trước xã hội về hành vi của mình. Điều này cũng thể hiện tính cưỡng

chế nhà nước của TNHS, nó được thực hiện bởi cơ quan duy nhất có thẩm quyền

xét xử người phạm tội là Tòa án.

Bảy là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được quy định

và áp dụng phù hợp với đặc thù của tội phạm và người phạm tội này. Theo đó,

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đa số là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc

nghiêm trọng. Người phạm tội này thường có kiến thức hiểu biết, kỹ năng về

khoa học kỹ thuật, CNTT, MVT. Nhiều đối tượng là những “chuyên gia” trong

lĩnh vực khoa học máy tính, biết ứng dụng các thành tựu của CNTT, MVT.

Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, đất nước ta

đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, rất cần đẩy

mạnh việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ, đặc biệt là

CNTT, MVT, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử,

thúc đẩy nền kinh tế số, xã hội số và công dân số. Đây cũng là căn cứ, là yếu tố

tác động đến chính sách hình sự nói chung, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT nói riêng theo hướng nhân văn hơn, ít nghiêm khắc hơn so với

các nhóm tội phạm khác, quán triệt sâu sắc tinh thần “hướng thiện” của PLHS và

định hướng “cảm hóa, giáo dục người phạm tội trở thành những những người có

ích cho xã hội” khi quy định và áp dụng TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh

vực CNTT, MVT.

2.1.3. Nguyên tắc của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Nguyên tắc của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là tập

hợp các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, định hướng mang tính xuyên suốt quá trình

xác định và áp dụng TNHS đối với các chủ thể phạm tội trong lĩnh vực CNTT,

MVT. Các nguyên tắc của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

được xác lập trên cơ sở chính trị, pháp lý, khoa học và thực tiễn, bao gồm: các

chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách hình sự của Nhà nước, các nội dung

Hiến pháp và pháp luật quy định mà cụ thể, trực tiếp nhất là những nguyên tắc

chung của PLHS. Bên cạnh đó là những đòi hỏi của thực tiễn phòng ngừa, đấu

tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Theo đó, TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm một số nguyên tắc sau đây:

- Nguyên tắc hợp lý (phù hợp với các quy định của pháp luật): là nguyên

tắc trong toàn bộ các hoạt động lập pháp và áp dụng PLHS, đòi hỏi phải thực

hiện các bảo đảm pháp chế XHCN khi tiến hành các hoạt động nhằm xác định sự 39

thật của vụ án; tôn trọng, bảo vệ quyền con người; bảo vệ trật tự pháp luật; bảo

vệ quyền lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo đó, việc áp dụng TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần quán triệt thực hiện nghiêm túc

nguyên tắc này. Việc xác định tính tội phạm của hành vi cũng như tính phải chịu

TNHS về hành vi và các hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phạm tội trong lĩnh

vực CNTT, MVT phải gánh chịu phải căn cứ vào các quy định của PLHS nói

chung, BLHS nói riêng. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được truy

cứu TNHS người thực hiện hành vi phạm tội trong lĩnh vực này mà không có

căn cứ do BLHS quy định. Đồng thời cũng lưu ý không được áp dụng PLHS

theo nguyên tắc tương tự.

- Nguyên tắc có cơ sở: Để áp dụng TNHS được quy định trong PLHS thì cơ

quan nhà nước có thẩm quyền cần có sự xem xét trên các căn cứ để quyết định

hình thức, mức độ TNHS tương xứng với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành

vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT nhằm đạt được mục đích của TNHS là

đảm bảo công lý, công bằng xã hội và ngăn ngừa tội phạm này xảy ra. Cơ sở của

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là việc thực hiện tội

phạm trong lĩnh vực này được quy định trong BLHS, được thể hiện ở các yếu tố

cấu thành tội phạm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

- Nguyên tắc công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi việc xác định và áp dụng

PLHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải thực sự thể hiện sự công

tâm, khách quan, phân minh rõ ràng trong việc xử lý người phạm tội, tức là phải

phù hợp với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hậu quả tội phạm đã xảy ra, với

động cơ, mục đích phạm tội, tính chất lỗi và các đặc điểm nhân thân của người

phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Cũng cần quán triệt

thực hiện không chủ thể phạm tội nào phải chịu TNHS 02 lần về cùng một tội phạm

khi truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Theo nguyên tắc này, tất cả chủ thể

bị truy cứu TNHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đều bình đẳng trước

PLHS, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, quan hệ, địa vị

xã hội và tình trạng tài sản. Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là sự bình đẳng

trong việc vận dụng các yếu tố cấu thành tội phạm đối với một hành vi phạm tội,

đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về người phạm tội, chống

40

những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người phạm tội có địa vị xã hội khác

nhau theo kiểu “dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ”. Khi thực hiện TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải

có thái độ công bằng đối với người phạm tội dù họ là ai, để thực sự là “mọi người

phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật”, nhưng cũng cần phải đảm bảo sự phân

hóa TNHS “nghiêm trị ai, khoan hồng đối với ai”, không thể đồng nhất công bằng

với “bình quân, cào bằng”.

- Nguyên tắc nhân đạo: Khi truy cứu TNHS đối với chủ thể phạm tội trong

lĩnh vực CNTT, MVT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải luôn luôn coi

TNHS không phải để trả thù người phạm tội mà là để giáo dục, cải tạo họ trở

thành những công dân có ích cho xã hội. Quy định của PLHS về TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như thực tiễn áp dụng nó không được

gây nên những đau đớn về thể xác, xúc phạm về nhân phẩm con người, Mức độ

TNHS của chủ thể phạm tội là những người yếu thế như: người dưới 18 tuổi, phụ

nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, người mà năng lực TNHS bị hạn chế, người

đang mắc bệnh hiểm nghèo cần phải được giảm nhẹ hơn so với mức độ TNHS

của chủ thể phạm tội là người bình thường khác. Nguyên tắc nhân đạo còn được

thể hiện ở nhiều điều luật quy định về quyết định hình phạt, về TNHS của người

dưới 18 tuổi, về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo), về miễn

chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, về tha tù trước thời hạn

có điều kiện, về xoá án tích... đối với chủ thể phạm tội nói chung, trong đó có

người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Nhà nước khoan hồng đối với những người thật thà khai báo, thực sự hối

lỗi, góp phần tích cực vào việc điều tra, xử lý vụ án, hạn chế và tích cực khắc

phục hậu quả xảy ra... lựa chọn những biện pháp để người phạm tội tự giáo dục

cải tạo (án treo), khi có đầy đủ căn cứ thì người phạm tội có thể được miễn

TNHS, miễn hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo trong TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT cũng đòi hỏi Tòa án phải xác định mục đích của TNHS

nói chung, mục đích của hình phạt nói riêng không phải để trừng trị, mà là để

thực thi công lý, bảo đảm công bằng xã hội và quan trọng nữa là để phòng ngừa

tội phạm này xuất hiện trở lại.

- Nguyên tắc phải gánh chịu sự tác động của TNHS: Tất cả các chủ thể phạm

tội trong lĩnh vực CNTT, MVT hoặc/và bị kết án về tội phạm này đều phải chịu

41

TNHS theo các quy định của PLHS. PLHS cũng nghiêm cấm việc sử dụng bất kỳ

thủ đoạn, hình thức vô căn cứ nào khác nhằm tránh khỏi sự tác động của TNHS.

Việc cố ý vi phạm một trong các nguyên tắc của PLHS được quy định trong

PLHS đều không thể tránh khỏi TNHS mà pháp luật đã quy định. Như vậy, người

phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT luôn phải chịu sự tác động của TNHS bằng

cách này hay cách khác với các mức độ, hậu quả phải gánh chịu khác nhau, không

thể tránh khỏi sự tác động ấy của TNHS.

- Nguyên tắc đồng bộ trong kỹ thuật xây dựng quy định về TNHS: Việc xây

dựng các quy định của pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT là cơ sở tiền đề, tạo ra căn cứ pháp lý vững chắc để các cơ quan có thẩm

quyền áp dụng hiệu quả TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này. Với bản

chất của TNHS và đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì các quy

định của pháp luật về TNHS đối với tội phạm này phải được ưu tiên cao trong kỹ

thuật xây dựng. Theo đó, phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa quy định về

TNHS ở phần chung trong BLHS với quy định về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT ở phần các tội phạm cụ thể của những tội này, đồng thời cần

có sự quy định đặc trưng, riêng biệt về những hậu quả pháp lý bất lợi mà người

phạm tội trong lĩnh vực này phải gánh chịu trước nhà nước và pháp luật.

Những nguyên tắc nêu trên đòi hỏi phải được nghiên cứu, quán triệt và thực

hiện áp dụng một cách đầy đủ, đồng bộ và chặt chẽ, cơ quan nhà nước có thẩm

quyền không được tuyệt đối hóa, quá đặt nặng hoặc xem nhẹ nguyên tắc nào, có

như vậy TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mới thực sự đúng

với bản chất và đạt được mục đích của nó.

2.1.4. Ý nghĩa của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có ý nghĩa rất quan

trọng, cụ thể như sau:

Một là, việc quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT trong BLHS đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ

ngày càng phát triển, xuất hiện nhiều hành vi mới nguy hiểm cho xã hội, tình

hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ngày càng diễn biến phức tạp, gây

nhiều hậu quả phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế,

42

chính trị, xã hội… Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải có hệ thống chế tài đủ sức răn đe,

TNHS là một trong những công cụ sắc bén góp phần phòng ngừa, đấu tranh với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian tới.

Hai là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định

của PLHS nước ta góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua nội dung và hình thức

thể hiện của TNHS đối với loại tội phạm này, chúng ta nhận thấy vai trò, tầm

quan trọng của các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm

tội trong lĩnh vực CNTT, MVT xâm hại. Mức độ TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT phần nào thể hiện tính chất, tầm quan trọng của các khách

thể là trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân liên quan bị hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT xâm hại.

Ba là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tạo ra phạm vi,

giới hạn việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT, điều mà các chủ thể áp dụng là cơ quan nhà nước có thẩm quyền

phải nghiên cứu, áp dụng chặt chẽ, tránh trường hợp lợi dụng quan hệ mệnh lệnh

- phục tùng (quyền uy), đặc trưng điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh

vực hình sự để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Bốn là, quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã

xác định ranh giới giữa tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh

vực CNTT, MVT. Đồng thời quy định về TNHS cũng phản ánh chính sách hình

sự của Nhà nước ta đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Theo Điều 2,

BLHS hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy

định mới phải chịu TNHS”, vì vậy, về ý nghĩa pháp lý, việc quy định TNHS đối

với các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là cơ sở

pháp lý để xử lý người phạm tội này.

Năm là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT sẽ góp phần

bảo đảm pháp chế và xử lý nghiêm minh, kịp thời, công bằng theo đúng quy

định của pháp luật đối với các hành vi phạm tội và người phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT. TNHS đối với tội phạm này thực sự là công cụ hữu hiệu, là sự lên

án, xử lý của Nhà nước trước các hành vi phạm tội cụ thể được nêu trong mục 2,

43

Chương XXI của BLHS năm 2015.

2.2. Cơ sở, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối

với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

2.2.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Cơ sở của TNHS là một vấn đề đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu về

TNHS. Cơ sở của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là

thời điểm có tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xảy ra, bao gồm 02 nội dung,

đó là: (1) cơ sở pháp lý, hay còn gọi là cấu thành tội phạm (bao gồm tổng hợp

các dấu hiệu pháp lý cần và đủ của tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT)

và (2) cơ sở thực tế, là việc thực hiện hành vi của một người thỏa mãn các yếu tố

cấu thành tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Như vậy, cơ sở pháp lý của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT là tập hợp các điều kiện pháp lý cần có để người phạm tội trong lĩnh vực

này phải chịu TNHS về hành vi của mình, thông qua việc thực hiện hành vi nguy

hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là một trong các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT, thể hiện trong các yếu tố cấu thành tội phạm của tội phạm này.

2.2.1.1. Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng

viễn thông

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được xếp vào Chương các tội phạm

xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của BLHS hiện hành, xâm hại đến

an toàn trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trên cơ sở khái niệm về tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT được nêu ở phần trên, chúng ta có thể chia khách thể của các tội

phạm này thành 02 loại:

Thứ nhất, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xâm phạm, làm ảnh

hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử. Đó là các hành vi làm hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệnh thông tin

của mạng máy tính, mạng viễn thông, các phương tiện, thiết bị liên quan cũng

như các thông tin trong hệ thống máy tính và mạng máy tính, mạng viễn thông.

Các đối tượng này rất đa dạng, từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị của mạng

máy tính, mạng viễn thông... đến các chương trình máy tính, các thông tin chứa

đựng trong hệ thống máy tính và hệ thống mạng.

Thứ hai, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã sử dụng mạng máy

44

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử làm công cụ để xâm phạm lợi ích của

cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây ảnh hưởng đến an toàn công cộng, trật tự công

cộng. Cụ thể các tội phạm này đã gây thiệt hại đến hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, mạng internet, các phương tiện thiết bị điện tử; xâm phạm an

toàn thông tin, sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là các khách thể

rộng, liên quan đến nhiều tội phạm truyền thống đã sử dụng các thành tựu của

CNTT, MVT để thực hiện tội phạm, được quy định tại mục 2, Chương XXI của

BLHS năm 2015 từ Điều 285 đến Điều 294 (trừ Điều 292 bị bãi bỏ). Các tội phạm

này đã lợi dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ để gây thiệt hại

cho hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân không chỉ ở phạm vi

trong nước mà còn có thể tác động đến toàn cầu.

2.2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,

mạng viễn thông

Mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là mặt bên ngoài

của tội phạm này, bao gồm: hành vi, hậu quả, mối quan hệ giữa hành vi và hậu

quả, thời gian, địa điểm phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội, phương thức,

thủ đoạn thực hiện. Trong đó, hành vi khách quan và công cụ, phương tiện thực

hiện tội phạm là những dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Các

yếu tố còn lại của mặt khách quan không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu

thành tội phạm của tội này [44]. Để thuận lợi nghiên cứu các dấu hiệu trong mặt

khách quan của tội phạm này, chúng ta có thể phân chia thành 04 nhóm như sau:

Thứ nhất, các tội xâm phạm tính nguyên vẹn, tính bí mật hoặc tính khả

dụng của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

(1) Tội sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm

để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285):

Sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử

dụng vào mục đích trái pháp luật là hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng

cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục đích trái pháp luật, xâm phạm an

toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử [7].

- Tội phạm được thực hiện bởi một trong các hành vi khách quan như: hành

vi sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm tính năng tấn

công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục

45

đích trái pháp luật. Hành vi khách quan có thể là từng hành vi riêng lẻ như: sản

xuất hoặc viết phần mềm hoặc mua bán hoặc trao đổi hoặc tặng cho đối tượng

phạm tội, nhưng cũng có thể là một quá trình như sản xuất, sau đó bán hoặc tặng

cho người khác. Trong một số văn bản pháp luật quốc tế hoặc PLHS một số nước,

ngoài các hành vi trên còn có quy định thêm hành vi chiếm hữu, sở hữu nhằm cho

người khác sử dụng, đề nghị người khác sử dụng, nhập khẩu hoặc các hành vi

phân phối khác... cũng là hành vi phạm tội (ví dụ: Điều 6 Công ước Bu-đa-pet

năm 2001 và Điều 9 Luật mẫu 2002).

- Công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng

viễn thông hoặc phương tiện điện tử là các công cụ, thiết bị, phần mềm có thể được

sử dụng để xâm nhập bất hợp pháp vào mạng máy tính, nghe lén thông tin, làm giả

thông tin, cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, chiếm đoạt tài

sản qua mạng... Đây được coi là đối tượng tác động của tội phạm này. Ví dụ: Phần

mềm độc hại (vi-rút, phần mềm do thám, phần mềm quảng cáo...), các loại chíp

điện tử để đọc dữ liệu thẻ, các thiết bị số dùng để thu, phát sóng, tín hiệu số hoặc

phá sóng, các vi mạch, thiết bị ngoại vi, mô-đun chương trình nhập số liệu,... Các

đối tượng trên có thể là chuyên dùng hoặc có một phần chức năng tấn công mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, như máy vi tính vừa có chức năng

hoạt động hợp pháp vừa có thể dùng làm công cụ để tấn công mạng.

Tuy nhiên, người phạm tội phải biết được tính năng tấn công đó của đối tượng

mà mình sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng, cho và nó được sử dụng vào mục

đích trái pháp luật. Để truy cứu TNHS đối với người phạm tội, phải chứng minh việc

thực hiện các hành vi nêu trên là để “sử dụng vào mục đích trái pháp luật”. Điều luật

cũng không quy định số lượng tối thiểu công cụ, thiết bị, phần mềm được sản xuất,

mua bán, trao đổi, tặng, cho bị coi là tội phạm.

(2) Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286):

Phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử là hành vi của người có ý phát tán chương

trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

để thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng

46

viễn thông, phương tiện điện tử [7].

- Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi phát tán chương trình tin

học có tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử.

Phát tán là hành vi truyền đi làm lây nhiễm các chương trình tin học gây hại

cho các thiết bị điện tử trong mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc giữa các

thiết bị điện tử với nhau. Hành vi phát tán thường không xác định mục tiêu

người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể, mà thực hiện trên diện rộng để

đạt được mục đích. Đây là điểm để phân biệt tội phạm này với các tội phạm quy

định tại Điều 287, 289 BLHS cùng sử dụng công cụ phạm tội là vi-rút tin học,

nhưng các hành vi quy định tại Điều 287 và Điều 289 phải xác định rõ mục tiêu

(người bị hại) là cá nhân hay tổ chức nào. Hơn nữa, phát tán cũng không phải là

phân phối hoặc bán... chương trình tin học có tính năng gây hại. Hành vi phát tán

được thực hiện thông qua các thủ đoạn chủ yếu sau:

+ Các thủ đoạn lây nhiễm thông qua các thiết bị lưu trữ di động như đĩa

mềm, đĩa CD, ổ cứng di động, USB...

+ Thủ đoạn lây nhiễm qua thư điện tử như: lây qua file đính kèm, lây do

mở một liên kết trong thư điện tử, lây khi mở để xem thư...

+ Thủ đoạn lây nhiễm qua mạng internet như lây qua file tài liệu hoặc phần

mềm trên mạng, lây qua việc truy cập các website được cài đặt vi-rút tin học, lây

thông qua các lỗi bảo mật hệ điều hành, ứng dụng có sẵn trên hệ điều hành hoặc

phần mềm của hãng thứ ba.

- Đối tượng của hành vi phát tán là chương trình tin học có tính năng gây

hại. Đó là chương trình tự động hóa xử lý thông tin, gây ra hoạt động không bình

thường cho thiết bị số hoặc sao chép, sửa đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trong thiết

bị số [44]. Chương trình tin học có tính năng gây hại được chia làm 02 loại:

Một là, các mã độc: Là các chương trình phần mềm được thiết kế để truyền từ

máy tính, phương tiện điện tử này sang máy tính, thiết bị điện tử khác nhằm gây ra

hoạt động không bình thường, sao chép hoặc thay đổi bất hợp pháp máy tính, phương

tiện điện tử hoặc dữ liệu điện tử. Các mã độc cơ bản gồm: vi-rút tin học, sâu máy tính

(worm), horse trojan, phần mềm gián điệp (spyware), phần mềm quảng cáo (adware),

botnet, phishing, phần mềm tống tiền (ransomware), backdoor...

Hai là, vi-rút tin học: Là một loại mã độc đặc biệt, bao gồm chương trình

47

hoặc đoạn mã có khả năng tự nhân bản, sao chép chính nó để tạo ra những tập tin

bị lây nhiễm vi-rút trên các máy tính, thiết bị điện tử hoặc thiết bị lưu trữ như đĩa

cứng, đĩa mềm, USB...

- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi thỏa mãn một trong các

trường hợp sau:

+ Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên;

+ Gây thiệt hại từ 50 triệu đồng trở lên;

+ Làm lây nhiễm cho từ 50 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có

từ 50 người sử dụng trở lên;

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội

này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

(3) Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử (Điều 287):

Cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử là hành vi tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ

liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu hoặc có hành vi khác

cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử để thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử, làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ

quan, tổ chức [7].

- Điều luật quy định có 03 nhóm hành vi khách quan sau đây:

Một là, hành vi tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử.

Đó là các hành vi cố ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử mà

không được sự đồng ý của chủ thể quản lý phần mềm, dữ liệu điện tử đó [6]. Trong

đó, hành vi “thay đổi” phần mềm, dữ liệu điện tử bao gồm 03 hành vi cụ thể là

“thay thế", “lược bỏ hoặc nén” và “đưa thêm thông tin vào" phần mềm, dữ liệu điện

tử. Đây là một dạng của hình thức tấn công mạng chủ động đối với phần mềm, dữ

liệu điện tử và thường được thể hiện thông qua các hình thức như xóa, làm tổn hại

phần mềm, dữ liệu điện tử; tấn công sửa đổi thông tin của dữ liệu điện tử; giả mạo;

phá hủy thiết bị lưu trữ, phương tiện điện tử nếu đó là phương tiện duy nhất lưu trữ

dữ liệu điện tử.

Hai là, ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, viễn

thông, phương tiện điện tử. Đó là các hành vi bất hợp pháp, cố ý làm cho việc

48

truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử bị

gián đoạn, không thực hiện được hoặc không sử dụng được [6]. BLHS không

quy định cụ thể loại mạng, nên được hiểu là bao gồm cả mạng công cộng và

không phải là mạng công cộng. Hành vi được thể hiện thông qua các hình thức

như: phá hoại cơ sở hạ tầng; ngăn cản bất hợp pháp việc truy cập thông tin của

cá nhân, cơ quan, tổ chức; cản trở, ngăn chặn, làm gián đoạn việc truyền tin, đưa

tin hoặc nhận tin như tấn công chặn thông tin, tấn công dùng lại (replay) thông

tin hoặc tấn công từ chối dịch vụ,.... Nếu việc ngăn chặn hợp pháp việc truyền tải

dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử như thực hiện

vì lý do quốc phòng, an ninh... thì không phải là tội phạm.

Ba là, các hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử là hành vi cố ý của người không có

quyền quản lý, vận hành, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử bằng cách làm hư hỏng, xóa, làm suy giảm, thay

thế hoặc nén dữ liệu máy tính, thiết bị viễn thông, phương tiện điện tử hoặc phá

hủy, làm hư hỏng hoặc hủy hoại công trình viễn thông, công nghệ thông tin; sử

dụng, lợi dụng mạng lưới, thiết bị các công cụ phần cứng, phần mềm để gây rối

loạn hoạt động cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin; dừng cung cấp

điện trái phép...

Để thực hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội có thể sử dụng công

cụ phạm tội là chương trình máy tính có tính năng gây hại hoặc sử dụng thủ đoạn

xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.

Tuy nhiên, khác với hành vi được quy định tại Điều 286, hành vi quy định tại

Điều 287 này phải xác định rõ mục tiêu tấn công đối với cá nhân, tổ chức cụ thể;

đồng thời cũng khác hành vi quy định tại Điều 289, mục đích của các hành vi

phạm tội trong Điều 287 là nhằm cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.

- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi thỏa mãn một trong các

trường hợp sau:

+ Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên;

+ Gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên;

+ Làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng

49

viễn thông, phương tiện điện tử từ 30 phút trở lên hoặc từ 03 lần trở lên trong

thời gian 24 giờ (trường hợp có thể làm ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử mỗi lần dưới 30 phút nhưng làm nhiều lần,

từ 03 - 10 lần trong 01 ngày);

+ Làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ trở lên (có thể là

trường hợp làm ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử dưới 30 phút và dưới 03 lần trong 24 giờ, nhưng để khắc

phục sự cố cơ quan, tổ chức phải đình trệ hoạt động từ 24 giờ trở lên);

+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội

này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

(4) Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc

phương tiện điện tử của người khác (Điều 289):

Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện

điện tử của người khác là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường

lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm

nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử

của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của

phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả giữ liệu hoặc sử dụng

trái phép các dịch vụ [7].

- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi truy cập vào mạng máy tính,

mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử mà không được sự đồng ý của chủ sở

hữu hoặc người quản lý, điều hành mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc

phương tiện điện tử đó.

Theo Nghị quyết số 08/2021/NQ-UBTVQH ngày 26/11/2021 của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội giải thích khoản 1 Điều 289 của BLHS năm 2015 về hành

vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của

người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính,

mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu quy

định tại khoản 1 Điều 289 của BLHS được hiểu là bao gồm cả hành vi cố ý vượt

qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác

hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn

thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm đoạt dữ liệu có chứa bí

mật kinh doanh, kể cả nghe, đọc, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình dữ liệu có

50

chứa bí mật kinh doanh.

Hành vi được thực hiện thông qua các phương thức, thủ đoạn như: Vượt

qua cảnh báo; vượt qua mã truy cập; vượt qua tường lửa để xâm nhập trái phép, sử

dụng quyền quản trị của người khác và các phương thức xâm nhập trái phép

khác như: bẻ khóa, trộm mật khẩu, mật mã của người khác để xâm nhập trái

phép hoặc xâm nhập vật lý như mở khóa cửa vào phòng, khu vực không thuộc

phận sự để truy cập vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.

- Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm thực hiện hành vi truy

cập trái phép bằng một trong các phương thức, thủ đoạn trên. Hậu quả của tội

phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm này.

Thứ hai, các tội xâm phạm quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân trong lĩnh

vực CNTT, MVT

(1) Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn

thông (Điều 288):

Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông là

hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy

định của pháp luật; mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai

hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính,

mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó hoặc hành vi

khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông [7].

- Tội phạm này được thực hiện bởi một trong các hành vi khách quan sau:

Một là, đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với

quy định của pháp luật như: thông tin có nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc

phạm uy tín của tổ chức; danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân; kích động tội

ác, tệ nạn xã hội, thuần phong mỹ tục... trừ 04 trường hợp sau:

+ Các hành vi được quy định tại Điều 117 BLHS năm 2015: Sản xuất, tàng

trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước

Cộng hòa XHCN Việt Nam như: xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân,

thông tin có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, gây chiến tranh

tâm lý...

+ Các hành vi được quy định tại Điều 155 BLHS năm 2015: Làm nhục

người khác bằng cách đưa thông tin xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự

51

của người khác.

+ Hành vi vu khống người khác bằng cách bịa đặt thông tin nhằm xúc phạm

nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người khác hoặc tố cáo người khác phạm tội

với cơ quan nhà nước theo quy định tại Điều 156 BLHS năm 2015.

+ Hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định tại Điều 326

BLHS năm 2015.

Hai là, hành vi mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công

khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy

tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu hoặc người quản lý

thông tin đó.

Đối tượng tác động của tội phạm này là “thông tin riêng hợp pháp của cơ

quan, tổ chức, cá nhân”. Đến nay vẫn chưa có định nghĩa cụ thể về “thông tin

riêng hợp pháp”, chỉ có một số văn bản quy định về những nội dung có liên quan

như: điểm a, khoản 2, Điều 72 Luật Công nghệ thông tin năm 2006; khoản 3, 4,

Điều 6 Luật Viễn thông năm 2023; khoản 14, 15, 16, Điều 3 Nghị định

72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch

vụ internet và thông tin trên mạng. Tuy nhiên, có thể hiểu cơ bản “thông tin

riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” là những thông tin thuộc sở hữu

của cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ như: họ tên, ngày tháng

năm sinh, số chứng minh nhân dân, căn cước công dân, số điện thoại, địa chỉ, bí

mật đời tư của cá nhân; thông tin, bí mật của tổ chức; các thông tin khác được

Hiến pháp, Bộ luật Dân sự... quy định bảo vệ.

Ba là, các hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng

viễn thông, như: theo dõi, thu thập thông tin bất hợp pháp về cá nhân, tổ chức khác;

không được phép sử dụng thông tin nhưng vẫn sử dụng, không đăng ký, chưa được

cấp phép nhưng vẫn sử dụng thông tin, sử dụng thông tin giả... [69].

- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi thỏa mãn một trong các

trường hợp sau: Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại từ 100 triệu

đồng trở lên hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

(2) Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông

tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291):

Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về

tài khoản ngân hàng là hành vi của người không có thẩm quyền thực hiện nhưng

52

lại thu thập, tàng trữ, trao đổi thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác

hoặc mua bán thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác; công khai hoặc

công khai không đúng đối tượng (với cá nhân, tổ chức) không được sự cho phép

của chủ tài khoản về thông tin tài khoản ngân hàng [7].

- Hành vi khách quan của tội phạm gồm các hành vi thu thập, tàng trữ, trao

đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin tài khoản ngân hàng của người

khác. Đây là hành vi của người không có thẩm quyền thực hiện nhưng lại thu

thập, tàng trữ, trao đổi thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác hoặc

mua bán thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác; công khai hoặc công

khai không đúng đối tượng (với cá nhân, tổ chức) mà không được sự cho phép

của chủ tài khoản về thông tin tài khoản ngân hàng ấy.

Thông tin tài khoản ngân hàng là thông tin định đanh khách hàng và các

thông tin sau đây: tên tài khoản, số hiệu tài khoản, số dư tài khoản, thông tin liên

quan đến giao dịch nộp tiền, rút tiền, chuyển tiền, nhận tiền của khách hàng và

các thông tin có liên quan khác. Đối với khách hàng cá nhân, thông tin định danh

khách hàng gồm: họ và tên, mẫu chữ ký, chữ ký điện tử, ngày, tháng, năm sinh,

quốc tịch, nghề nghiệp, địa chỉ nơi đăng ký thường trú, nơi ở hiện tại, địa chỉ nơi

đăng ký cư trú ở nước ngoài đối với người nước ngoài, số điện thoại, địa chỉ thư

điện tử, số, ngày cấp, nơi cấp chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân

hoặc hộ chiếu (thông tin về thị thực đối với khách hàng cá nhân là người nước

ngoài) của khách hàng hoặc của người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo

ủy quyền (gọi chung là người đại diện hợp pháp) và các thông tin có liên quan

khác. Đối với khách hàng là tổ chức, thông tin định danh khách hàng gồm: tên

giao dịch đầy đủ, tên viết tắt, giấy phép hoặc quyết định thành lập, giấy chứng

nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương; địa chỉ đặt trụ sở chính,

số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử và thông tin quy định của người đại diện

hợp pháp (thông tin tương tự như đối với khách hàng cá nhân) và các thông tin

có liên quan khác.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày

11/9/2018 của Chính phủ về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ

chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì: “Cơ quan nhà nước, tổ chức

khác, cá nhân chỉ được yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài

53

cung cấp thông tin khách hàng theo đúng mục đích, nội dung, phạm vi, thẩm quyền

theo quy định của pháp luật hoặc khi được sự chấp thuận của khách hàng và phải

chịu trách nhiệm về việc yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng”.

- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi số lượng tài khoản ngân hàng bị thu

thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai từ 20 tài khoản trở lên hoặc ít hơn số

lượng đó, nhưng người phạm tội đã thu lợi bất chính từ 20 triệu đồng trở lên.

Thứ ba, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có mục đích xâm phạm quyền sở

hữu của người khác: tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290).

Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi của người sử dụng thông tin về tài khoản,

thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài

khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; làm, tàng trữ, mua bán, sử

dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ

thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của

cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại

điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp

hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc thiết lập,

cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản [7].

- Hành vi khách quan của tội này là sử dụng mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản của người khác, thuộc một

trong các hành vi cụ thể sau:

Một là, sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức,

cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ, chủ tài khoản hoặc thanh toán dịch vụ,

mua hàng hóa. Hành vi được thực hiện thông qua các thủ đoạn như trộm cắp, lừa

đảo để có được thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của người khác, sau đó

dùng thông tin đó để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản. Ví dụ: Người phạm

tội gửi email giả mạo, lừa đảo hoặc cài phần mềm gián điệp như phần mềm

keylogger (ghi lại mọi thao tác của người dùng thẻ, tài khoản trên máy)... để có

được thông tin, mật khẩu. Sau đó, sử dụng thông tin có được để chiếm đoạt tài

sản của chủ thẻ.

Hai là, làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm

chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ.

54

Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách

hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Thẻ

ngân hàng giả là thẻ không do ngân hàng có thẩm quyền phát hành thẻ đó phát

hành. Làm thẻ ngân hàng giả là việc cá nhân không có thẩm quyền sản xuất, phát

hành thẻ ngân hàng nhưng sản xuất thẻ giống như thẻ ngân hàng (trong đó chứa

đựng thông tin, dữ liệu như thẻ thật).

Thủ đoạn phạm tội thường là người phạm tội mua thẻ nhựa trắng, mua hoặc

đánh cắp thông tin thẻ, mật mã giao dịch. Sau đó dùng máy ghi thẻ để sản xuất thẻ

giả, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ giả để chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc

dùng thẻ ngân hàng của nước ngoài đã hết hạn sử dụng vào nước khác để rút tiền...

Ba là, truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân

nhằm chiếm đoạt tài sản. Đó là hành vi vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường

lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc các phương thức khác truy cập

bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức nhằm trực tiếp chiếm đoạt tài

sản của chủ thể đó.

Bốn là, lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh

tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng

nhằm chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội đưa ra các thông tin gian dối trong các

lĩnh vực trên nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm

họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó. Ví dụ: Người phạm tội

tạo dựng một website để huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp, giả danh

các tập đoàn tài chính toàn cầu, huy động vốn với lãi suất cao, sau đó chiếm đoạt

tiền của người góp vốn hoặc bán hàng qua mạng nhưng không giao hàng hoặc

giao hàng không đúng.

Năm là, thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm

chiếm đoạt tài sản. Đó là việc thiết lập, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet

nhưng không được phép hoặc không đúng giấy phép do cơ quan nhà nước có

thẩm quyền cấp nhằm chiếm đoạt tài sản.

- Các hành vi trên chỉ cấu thành tội này khi không thuộc trường hợp tội trộm

cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 173 và Điều 174

BLHS năm 2015. Tội phạm có cấu thành hình thức, tội phạm này hoàn thành kể từ

thời điểm người phạm tội có một trong các hành vi trên nhằm chiếm đoạt tài sản,

không kể đến hậu quả đã chiếm đoạt được hay chưa.

55

Thứ tư, các tội xâm phạm trật tự, an toàn trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện

(1) Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp

cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293):

Sử dụng trái phép tần số vô tuyên điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an

toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh là hành vi sử dụng tần số

vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu

nạn, quốc phòng, an ninh không được phép vào các mục đích khác [7].

- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi sử dụng trái phép tần số vô

tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,

quốc phòng, an ninh vào mục đích khác. Theo quy định tại Điều 33 Luật Tần số

vô tuyến điện năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2022): Trong trường hợp khẩn

cấp gây nguy hiểm đến tính mạng con người và tài sản, tổ chức, cá nhân có thể

sử dụng tạm thời tần số và thiết bị vô tuyến điện chưa được cấp giấy phép để

phục vụ cho việc gọi cấp cứu và phải thông báo cho cơ quan quản lý chuyên

ngành tần số vô tuyến điện. Tổ chức, cá nhân sử dụng đài vô tuyến điện gửi

thông tin, tín hiệu cấp cứu được phát sóng để thu hút sự chú ý ở cả tần số vô

tuyến điện không dành riêng cho gọi cứu nạn. Tổ chức, cá nhân sử dụng đài vô

tuyến điện nhận được thông tin, tín hiệu cấp cứu phải lắng nghe trên tần số vô

tuyến điện phát gọi cấp cứu, trả lời và thực hiện ngay mọi hỗ trợ cần thiết, đồng

thời thông báo cho cơ quan tìm kiếm, cứu nạn.

Ngoài trường hợp khẩn cấp nguy hiểm đến tính mạng, tài sản, người sử

dụng không được phép sử dụng tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích

cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh vào mục đích

khác. Đối tượng tác động của tội phạm này là tần số vô tuyến điện dành riêng

cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng an ninh,

gồm 02 nhóm:

+ Tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm

cứu hộ, cứu nạn hiện nay được quy định trong “Phụ lục tần số sử dụng cho mục

đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu nạn”, kèm theo Thông tư số 19/2013/TT-

BTTTT ngày 02/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.

+ Tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích quốc phòng, an ninh do Bộ

Quốc phòng, Bộ Công an cùng Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp xác định.

- Điều kiện truy cứu TNHS đối với tội phạm này là khi hành vi phạm tội gây

thiệt hại từ 200 triệu đồng trở lên hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc

56

đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

(2) Tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294):

Cố ý gây nhiễu có hại là hành vi làm ảnh hưởng có hại của năng lượng điện từ

do việc phá và bức xạ hoặc cảm ứng gây mất an toàn hoặc cần trở, làm gián đoạn

hoạt động của thiết bị, hệ thống thông tin vô tuyến điện đang khai thác hợp pháp [7].

- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi gây nhiễu có hại. Mức độ gây

nhiễu trong vô tuyến điện được chia làm 03 mức độ, gồm: Nhiễu cho phép, nhiễu

chấp nhận được và nhiễu có hại. Trong đó, nhiễu có hại là ảnh hưởng có hại của

năng lượng điện từ do việc phát xạ, bức xạ hoặc cảm ứng gây mất an toàn hoặc cản

trở, làm gián đoạn hoạt động của thiết bị, hệ thống thiết bị vô tuyến điện đang khai

thác hợp pháp (khoản 13, Điều 3, Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 (sửa đổi, bổ

sung năm 2022)). Các thủ đoạn gây nhiễu có hại thường là:

+ Sử dụng thiết bị phát sóng vô tuyến điện cố ý gây can nhiễu có hại làm

cản trở đến hoạt động thông tin của các mạng và hệ thống thông tin vô tuyến

điện khác;

+ Sử dụng thiết bị phát sóng vô tuyến điện gây nhiễu có hại nhưng không

thực hiện yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc áp dụng

các biện pháp kỹ thuật cần thiết để khắc phục nhiễu;

+ Sử dụng thiết bị gây nhiễu có hại cho thông tin vô tuyến khi đã có yêu

cầu ngừng sử dụng thiết bị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi phạm tội gây thiệt hại từ

200 triệu đồng trở lên hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết

án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2.2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,

mạng viễn thông

Khi nghiên cứu mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chúng

ta phải xác định lỗi, động cơ và mục đích phạm tội của người phạm tội. Cụ thể:

* Lỗi:

Theo PLHS hiện hành, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả cấu thành tội

phạm của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Lỗi của tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT đều là lỗi cố ý, không có hình thức lỗi vô ý. Tội phạm có thể

được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Khi thực hiện hành vi

phạm tội, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã

hội, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra (đối với những

57

tội có cấu thành vật chất) nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội đó và mong muốn

hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Trường hợp hành vi được thực hiện với

lỗi vô ý sẽ không bị coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Ví dụ: vô ý truy

cập vào mạng máy tính sẽ không bị coi là phạm tội xâm nhập trái phép vào mạng

máy tính (Điều 289) hoặc vô ý xoá dữ liệu điện tử trong mạng máy tính cũng sẽ

không bị coi là phạm tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính

(Điều 287) [44].

* Động cơ, mục đích phạm tội:

Theo BLHS năm 2015, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc

trong cấu thành tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đó chỉ có thể là tình tiết

tăng nặng TNHS khi Tòa án xem xét, quyết định hình phạt.

Về mục đích phạm tội, theo BLHS năm 2015, nó được quy định là dấu hiệu

định tội của một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Cụ thể:

- Mục đích “sử dụng vào mục đích trái pháp luật” là dấu hiệu định tội bắt

buộc của tội sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để

sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285 BLHS năm 2015). Điều 285 quy

định rõ hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm

có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử là

để sử dụng vào mục đích trái pháp luật. Ngược lại, nếu sử dụng vào mục đích

hợp pháp sẽ không bị coi là tội phạm. Khái niệm “mục đích trái pháp luật” có

phạm vi rộng, bao gồm cả mục đích phạm tội, vi phạm pháp luật hành chính

hoặc các mục đích vi phạm pháp luật khác.

- Mục đích “chiếm đoạt tài sản” là dấu hiệu bắt buộc của tội sử dụng mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản (Điều 290 BLHS năm 2015). Đây cũng là dấu hiệu quan trọng giúp chúng ta

phân biệt được tội này với các tội khác khi chúng có giao thoa về hành vi, dấu hiệu.

2.2.1.4. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng

viễn thông

Theo Điều 76 BLHS năm 2015, pháp nhân thương mại không được coi là

chủ thể của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chủ thể của tội phạm này

phải là cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Đó có thể là công dân

Việt Nam hoặc người nước ngoài. Cá nhân đủ độ tuổi theo quy định tại Điều 12

của BLHS năm 2015 có thể trở thành chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT, trừ trường hợp có nghi ngờ về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều

58

khiển hành vi của người đó.

Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải

chịu TNHS về mọi tội phạm, do đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ là chủ thể của tất cả

các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16

tuổi phải chịu TNHS đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng quy định

tại Điều 286, 287, 289 và 290 BLHS năm 2015. Theo quy định về phân loại tội phạm

tại Điều 9 BLHS năm 2015, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và

mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do

BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; Tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn

mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 15

năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, người từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi phải chịu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, quy định

tại khoản 3 Điều 286, khoản 3 Điều 287, khoản 3 Điều 289 và khoản 3, 4 Điều 290

BLHS năm 2015 [44].

Trong thực tiễn, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thường do người

nước ngoài thực hiện hoặc do người nước ngoài kết hợp với công dân Việt Nam

thực hiện. Địa điểm phạm tội có thể trên lãnh thổ Việt Nam, có thể ở ngoài lãnh

thổ Việt Nam. Theo quy định tại Điều 6 BLHS năm 2015, cá nhân là công dân

Việt Nam, người nước ngoài đều có thể trở thành chủ thể của loại tội phạm này

cho dù địa điểm phạm tội ở đâu, trừ những người được hưởng quyền ưu đãi miễn

trừ ngoại giao hoặc lãnh sự. Thực tiễn cho thấy, người phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT thường là những người có nhiều hiểu biết về CNTT, MVT. Họ sử

dụng những hiểu biết đó để thực hiện hành vi phạm tội [47]. Tuy nhiên, những

đặc điểm đó không phải là dấu hiệu chủ thể bắt buộc của tội phạm này.

Ở nước ta cũng như trên thế giới, lĩnh vực CNTT, MVT là những lĩnh vực

mới, hiện đại và phát triển với tốc độ rất nhanh. Những người trẻ tuổi hiện nay

có nhiều điều kiện để tiếp cận, thực hành và trở nên rất giỏi trong lĩnh vực này.

Hậu quả tiêu cực kéo theo là tình trạng người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,

MVT ngày càng “trẻ hoá”. Để ngăn chặn tình trạng này, khoản 2 Điều 12 của

BLHS năm 2015 đã quy định, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu

TNHS về tội phạm rất nghiệm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại

một trong 28 điều luật của BLHS năm 2015, trong đó có 04 điều luật về tội phạm

59

trong lĩnh vực CNTT, MVT (Điều 286, Điều 287, Điều 289 và Điều 290). Điều

đó cũng cho thấy sự quyết liệt, chủ động phòng, chống tình trạng “trẻ hoá” tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT hiện nay trong chính sách hình sự nước ta.

2.2.2. Giai đoạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Giai đoạn của TNHS là những trình tự, bước đi từ khi mở đầu đến khi kết thúc

quá trình xác định, áp dụng TNHS cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội do chủ

thể thực hiện. Để phân chia các giai đoạn của TNHS nói chung, TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng cần tiếp cận ở góc độ lập pháp (xây

dựng pháp luật) và áp dụng pháp luật, cụ thể:

- Giai đoạn xây dựng PLHS: thể hiện thông qua việc nhà làm luật xây dựng

các nội dung quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, thể

hiện rõ nét trong BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong giai đoạn này,

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được phản ánh trong quy định

hình sự hóa, phi hình sự hóa, phân hóa và cá thể hóa TNHS được áp dụng đối với

người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Cơ chế tác động của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

phải bắt đầu từ hoạt động xây dựng các quy phạm PLHS. Đây là giai đoạn mở

đầu, có ý nghĩa xác lập quy định bắt buộc. Xuất phát từ nhu cầu phản ứng

thường xuyên đối với loại hành vi này hay loại hành vi khác nguy hiểm cho xã

hội nhằm phòng ngừa chúng, điều chỉnh những “tình huống” xuất hiện nhưng

chưa được “quy phạm hóa”, bảo vệ xã hội khỏi sự xâm phạm của tất cả những

hành vi cũng như “tình huống” nguy hiểm cho xã hội, nhằm bảo vệ công lý,

phục hồi công bằng xã hội đã bị xâm phạm, Nhà nước xây dựng các quy phạm

PLHS. Điều này tạo cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, các hành vi

của các bên tham gia vào quan hệ xã hội đó, xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý

cũng như các phương tiện pháp lý bảo đảm, bảo vệ những hành vi cần thiết. Sự

đánh giá của Nhà nước đối với hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT

nhất định phải được quy định trong PLHS. Sự đánh giá của nhà làm luật về mặt

pháp luật đối với hành vi tội phạm còn dựa trên sự đánh giá về các mặt đạo đức,

chính trị, xã hội,... của xã hội, là sự cần thiết và quan trọng đối với các cơ quan

tiến hành tố tụng hình sự, nhất là Tòa án.

- Giai đoạn áp dụng PLHS: được nhà nước thực hiện thông qua các cơ

quan đại diện của nhà nước, chủ yếu là Tòa án (nhân danh Nhà nước để xét xử,

60

tuyên bản án kết tội và TNHS áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT). Bản chất các cơ quan này không tự mình sáng tạo ra PLHS mà là

thực hiện nó trong thực tế công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT. Cụ thể, nó được thể hiện trong các giai đoạn, gắn với các

hoạt động sau:

- Khi tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xảy ra: Sau khi các quy phạm

PLHS được ban hành và có hiệu lực pháp luật, nếu chủ thể thực hiện những hành

vi mà PLHS cấm thực hiện thì những điều kiện cần thiết cho sự tác động trừng

trị (trừng phạt) đã được ghi nhận trong PLHS là cơ sở của sự tác động của PLHS

đối với chủ thể phạm tội đó. Giai đoạn này gắn với sự vi phạm quy phạm PLHS,

xuất hiện cơ sở thực tế đối với sự tác động của PLHS, phát hiện và ghi nhận sự

vi phạm đó.

- Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT: Giai đoạn này gắn với việc xác định các cơ sở đối với sự tác động

của PLHS trong quá trình điều tra, định tội danh (sơ bộ), miễn TNHS - hình thức

tác động của PLHS có thể được áp dụng.

- Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật: Giai đoạn thứ tư

này gắn với việc định tội danh và quyết định hình phạt, biện pháp tư pháp hình sự

khác đối với vi phạm quy phạm PLHS và đánh giá nó trong bản án trên cơ sở

nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan tất cả các tình tiết của vụ án

hình sự, sự tác động của PLHS thể hiện ở hình thức truy cứu TNHS hoặc miễn

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

- Hoạt động thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp

luật: Giai đoạn này gắn với sự tác động của PLHS trong quá trình thi hành hình

phạt mà Tòa án đã tuyên hoặc biện pháp tác động khác của PLHS đối với chủ thể

phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

- Việc chấp hành hình phạt, xóa án tích: Là giai đoạn cuối cùng gắn với sự tác

động của PLHS trong thời hạn người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt mà

trong bản án có hiệu lực của Tòa án đã tuyên, chịu những thử thách để được xóa án

tích theo quy định của PLHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Chúng ta cần lưu ý rằng việc xây dựng và áp dụng PLHS về TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT không độc lập, tách rời nhau mà ngược lại

chúng luôn có sự tác động, ảnh hưởng qua lại chặt chẽ với nhau, theo một quá

trình gồm các giai đoạn trước và sau khi tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT,

61

MVT xảy ra. Trước khi tội phạm này xảy ra, nó nằm trong các quy phạm PLHS

(thể hiện ở giai đoạn xây dựng PLHS). Sau khi tội phạm này xảy ra, nó nằm

trong các hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

nhằm thực hiện TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Mỗi

giai đoạn đều có nội dung, hình thức pháp lý mang tính đặc trưng, đặc thù của

mình, tương ứng với số lượng các quyền, tự do và nghĩa vụ nhất định của người

thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Mức độ nguy hiểm cho xã hội

càng cao, các quyền của người thực hiện tội phạm càng bị hạn chế và nghĩa vụ,

hậu quả pháp lý bất lợi mà họ phải gánh chịu sẽ càng lớn hơn, nhiều hơn.

2.2.3. Phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm 02 khía cạnh

cụ thể: thứ nhất, đó là việc Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng áp dụng

các biện pháp tác động mang tính cưỡng chế nhà nước đối với hành vi phạm tội và

người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT; thứ hai, đó là việc người phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT có nghĩa vụ phải gánh chịu các biện pháp tác động

mang tính cưỡng chế nhà nước ấy. Theo đó, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT là quyền của Nhà nước hoặc là nghĩa vụ của người phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Trong đó, trách nhiệm là quyền (và đồng thời cũng là nghĩa vụ) của Nhà

nước được buộc người phạm tội phải chịu nghĩa vụ là những hậu quả pháp lý bất

lợi vì người đó đã phạm vào các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT mà Nhà nước đã

quy định và việc Nhà nước buộc người phạm tội phải chịu nghĩa vụ ấy là xuất

phát từ nghĩa vụ của Nhà nước đối với xã hội - nghĩa vụ đấu tranh, xử lý tội

phạm, bảo vệ công lý, trật tự xã hội. Cùng với đó, trách nhiệm là nghĩa vụ mà

người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu do vi phạm điều cấm

mà Nhà nước đã quy định trong BLHS về tội phạm này.

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ xuất hiện và được

thực hiện khi có đủ hai khía cạnh nêu trên, bởi đó là sự đánh giá mang tính tiêu

cực và bắt buộc (xét xử, lên án) đối với hành vi tội phạm và đối với người có lỗi

trong việc thực hiện hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT - sự đòi hỏi có

tính bắt buộc đối với việc áp dụng các biện pháp tác động mà BLHS đã quy định

62

(hình phạt, biện pháp tư pháp) và sự tiếp nhận phản ứng, đánh giá đó từ phía

người phạm tội - người mà bởi hành vi của mình phải gánh chịu các biện pháp

tác động do PLHS đưa ra.

Khi được điều chỉnh bằng các quy phạm PLHS, quan hệ xã hội đó trở thành

dạng quan hệ PLHS có nội dung là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể: Nhà nước

- chủ thể quy định điều cấm (tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT) và người có

lỗi - chủ thể phạm vào một trong các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đó.

Về giới hạn, phạm vi TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

chỉ phát sinh khi tội phạm này được thực hiện. TNHS (có khả năng) đối với tội

phạm này phát sinh ngay từ khi tội phạm đó được thực hiện và sẽ chấm dứt khi

người phạm tội đã được xóa án tích - tức là khi họ không còn bị coi là người đã

phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. TNHS sẽ phát sinh và tồn tại khi còn tồn

tại cơ sở pháp lý phát sinh mối quan hệ giữa hai chủ thể: Nhà nước và người

phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

đối với người phạm tội không chỉ thể hiện ở trách nhiệm cuối cùng của người

phạm tội là bị kết tội, phải chịu hình phạt hoặc biện pháp hình sự nhất định

khác và mang theo án tích mà rộng hơn, nó còn thể hiện ở việc người đó bị truy

cứu TNHS. Đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, chịu TNHS

tức là chịu tất cả mọi hậu quả do việc phạm tội này mang lại: bị truy cứu

TNHS, bị kết án, phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của TNHS và

phải chịu mang án tích.

Rõ ràng rằng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm

hai mặt là thực hiện TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS của người phạm tội.

TNHS đối với tội phạm này thực chất là mối quan hệ giữa Nhà nước và người

phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được thực

hiện. Trong đó, Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và

buộc người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu biện pháp hình sự

nhất định tương xứng với tính nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện, đồng

thời có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người

phạm tội, không để họ bị xâm hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình

các cơ quan chức năng của nhà nước thực hiện TNHS đối với tội phạm này.

Đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, họ phải gánh chịu sự

63

tác động của hoạt động truy cứu TNHS cũng như các biện pháp cưỡng chế nhà

nước, nhưng ngược lại, họ có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của mình trong suốt quá trình truy cứu TNHS đối với họ.

Về phạm vi cụ thể: TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ

đặt ra khi chủ thể thực hiện một trong 09 tội phạm được quy định tại các Điều

285, 286, 287, 288, 289, 290, 291, 293, 294 của BLHS năm 2015.

2.3. Nội dung, hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

2.3.1. Nội dung của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Trong các BLHS nước ta từ trước đến nay đã nhắc đến cụm từ “TNHS” rất

nhiều lần: cơ sở của TNHS, miễn TNHS, tăng nặng TNHS, giảm nhẹ TNHS, loại

trừ TNHS, thời hiệu truy cứu TNHS,… nhưng chưa bao giờ đưa ra khái niệm,

nội dung cụ thể của TNHS. Việc làm rõ vấn đề này thuộc về nhiệm vụ nghiên

cứu của khoa học pháp lý hình sự. Về nội dung của TNHS nói chung, có một số

nhà luật học khẳng định TNHS là quan hệ pháp luật bảo vệ mà nội dung của nó

được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ gắn bó giữa các chủ thể của quan hệ

pháp luật, trong đó nghĩa vụ của một bên (bên thứ nhất - người có lỗi trong việc

thực hiện tội phạm) phải “đáp ứng” quyền được truy cứu trách nhiệm của bên

khác (bên thứ hai - Nhà nước), còn quyền của bên thứ nhất là chỉ bị truy cứu

trên cơ sở và trong giới hạn mà Bộ luật Hình sự đã quy định [97]. Một số nhà

luật học khác cho rằng, cần phải hiểu TNHS là “tổng thể các quan hệ PLHS, tố

tụng hình sự và cải tạo lao động gắn trực tiếp và thể hiện trực tiếp sự tác động

cưỡng chế nhà nước đối với người vi phạm Bộ luật Hình sự” [99]. Quan điểm

khác lại cho rằng, TNHS là “thành tố bắt buộc phải có của quan hệ pháp luật:

TNHS xuất hiện cùng lúc với tội phạm, nhưng không phải là nội dung (vốn được

hợp thành bởi tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các bên) mà là khách thể của

nó vì có tội phạm thì quan hệ xuất hiện” [100].

Nghiên cứu sinh ủng hộ quan điểm của tác giả Hồ Sỹ Sơn cho rằng: TNHS

hiện diện trong thực tế khách quan như loại quan hệ xã hội đặc biệt do PLHS điều

chỉnh và đó là quan hệ PLHS xuất hiện giữa người bị coi là có lỗi trong việc thực

hiện hành vi tội phạm với Nhà nước (chính xác và cụ thể hơn là với nhân dân Việt

Nam thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Cơ sở hình thành loại quan

64

hệ PLHS này là sự hiện thực hành vi có tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm

cụ thể mà BLHS đã quy định. Loại quan hệ pháp luật này được hiện thực hóa kể từ

thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật [72].

Nội dung của quan hệ pháp luật này có các quyền và nghĩa vụ ràng buộc

nhau giữa các bên và việc thực hiện chúng là bắt buộc nhằm ngăn chặn tình huống

(sự kiện) phạm tội tương tự xảy ra trong tương lai. Để nhận thức được một cách

đúng đắn về TNHS, cần phải xác định đúng bản chất của TNHS, đó là: Biểu hiện

của sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi phạm tội được thực hiện một cách

có lỗi chẳng những thể hiện qua bản án kết án của Tòa án đối với người có lỗi

trong việc thực hiện hành vi đó mà còn qua sự lên án người phạm tội (lý do TNHS

được quy định và áp dụng), qua ý nghĩa xã hội và qua “sứ mệnh lịch sử” và vai trò

của TNHS đối với xã hội. Chủ thể bị kết án hình sự là người đã thực hiện hành vi

đã bị nhà làm luật đánh giá trước là nguy hiểm cho xã hội và quy định cấm thực

hiện. Nếu không có sự đánh giá tiêu cực như vậy của nhà làm luật đối với hành vi

tương ứng thì không thể có sự truy cứu TNHS đối với người thực hiện nó. Bằng

bản án, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra sự đánh giá tiêu cực đối với hành vi

cũng như đối với người có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Như vậy, TNHS

thể hiện sự đánh giá tiêu cực của nhà làm luật và sự đánh giá tiêu cực của Tòa án

đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với người thực hiện nó [72].

Trên cơ sở các vấn đề đã phân tích trên đây có thể khẳng định nội dung của

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là các quyền và nghĩa

vụ ràng buộc nhau giữa các Nhà nước và người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,

MVT. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó là bắt buộc nhằm ngăn chặn tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tiếp tục xảy ra trong tương lai. Cụ thể về nội

dung này, nó được biểu hiện thông qua của sự phản ứng của Nhà nước đối với

hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được thực hiện một cách có lỗi

qua bản án kết án của Tòa án đối với người phạm tội, cũng như qua sự lên án

người phạm tội và qua ý nghĩa của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT đối với xã hội. Bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án

đưa ra sự đánh giá tiêu cực bằng sự kết luận tội danh, tuyên hình phạt hoặc các

biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

2.3.2. Hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Hiện nay, vẫn chưa có nhận thức thống nhất về hình thức của TNHS, có

65

quan điểm cho rằng hình thức của TNHS ngoài hình phạt, các biện pháp tư pháp

còn có miễn TNHS, miễn hình phạt, án treo, giảm thời hạn chấp hành hình phạt,

xóa án tích... Quan điểm khác cho rằng hình thức của TNHS chỉ bao gồm hình

phạt, biện pháp tư pháp. Tuy nhiên, hầu hết các quan niệm đều cho rằng TNHS

được thực hiện thông qua biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, đặc biệt là hình

phạt. Bên cạnh hình phạt, TNHS còn được thực hiện bằng các biện pháp tư pháp

như: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa

hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh. Các biện

pháp này có thể được áp dụng bổ sung, hỗ trợ thêm cho hình phạt.

Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, tiếp cận dưới khái niệm, đặc điểm của

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT “là nghĩa vụ của một người

phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của

mình”, theo đó hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

chỉ bao gồm hình phạt, biện pháp tư pháp (nhưng không bao gồm biện pháp bắt

buộc chữa bệnh) và án tích với tính chất là “hậu quả pháp lý bất lợi” được quy

định và áp dụng đối với người phạm tội này. Các biện pháp miễn, giảm TNHS,

miễn, giảm hình phạt có tính chất nhân đạo, khoan hồng, thể hiện bằng việc miễn

hoặc giảm sự tác động cưỡng chế hình sự của nhà nước. Nó không chứa đựng nội

dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, hay nói cách khác

nó không mang đến “hậu quả pháp lý bất lợi” đối với người phạm tội đó, thì

không được xem là hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT. Quan niệm này không phải sự bó hẹp mà là sự phù hợp với góc độ tiếp cận

của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

2.3.2.1. Hình phạt

Trong sách Bình luận BLHS năm 2015, phần thứ nhất - Những quy định

chung, tác giả Đinh Văn Quế đã nêu: Hệ thống hình phạt trong Luật Hình sự

nước ta được chia làm hai phần: hình phạt chính và hình phạt bổ sung [58]. Ý

kiến trên được đưa ra dựa trên cơ sở quy định tại Điều 32 và Điều 33, BLHS

hiện hành về các hình phạt đối với người phạm tội và các hình phạt đối với pháp

nhân thương mại phạm tội.

Tương tự, đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì hệ thống hình

phạt cũng được hình thành từ hình phạt chính và hình phạt bổ sung dành cho

người phạm tội này. Theo quy định của BLHS hiện hành, hệ thống hình phạt đối

66

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gồm:

- Thứ nhất, hình phạt tiền:

Hình phạt tiền được quy định và áp dụng vừa là hình phạt chính, vừa là hình

phạt bổ sung đối với hầu hết các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (08/09 tội

danh, chiếm 88,9%), trừ tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290) không quy định

phạt tiền là hình phạt chính, mà chỉ là hình phạt bổ sung (khoản 5). Phần lớn các

khung hình phạt trong một điều luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đều

có quy định về phạt tiền. Cụ thể: Điều 285, tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc

tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật có 03

khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung là phạt tiền; Điều 291, tội thu thập,

tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân

hàng cũng có 03 khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hay như

ở các Điều 293, 294 thì hình phạt được nêu trong Khoản 1 cũng có quy định cụ

thể về mức phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng.

Có thể khẳng định hình phạt tiền được BLHS quy định áp dụng rất phổ biến

đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Quan điểm cá nhân của

Nghiên cứu sinh đánh giá việc quy định của BLHS hiện hành như vậy cơ bản

phù hợp, xuất phát từ chính động cơ phạm tội của các đối tượng phạm tội trong

lĩnh vực CNTT, MVT thường là vụ lợi. Việc áp dụng hình phạt tiền không chỉ

đạt được mục đích của hình phạt mà còn góp phần khắc phục, bù đắp những hậu

quả, thiệt hại do hành vi phạm tội của đối tượng gây ra.

- Thứ hai, hình phạt cải tạo không giam giữ

Đây là một trong số những hình phạt chính được quy định áp dụng đối với phần

lớn các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Cụ thể, có 07/09 (chiếm 77,8%) các

điều luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp dụng hình phạt này (trừ Điều

287 và Điều 289). Thời hạn cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03

năm (quy định chung tại khoản 1, Điều 36, BLHS năm 2015).

- Thứ ba, hình phạt tù có thời hạn

Tù có thời hạn là hình phạt chính được áp dụng đối với cả 09/09 tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 100%). Đa số các khung hình phạt đều quy

định loại hình phạt khác để lựa chọn thay thế hình phạt tù có thời hạn như phạt tiền,

cải tạo không giam giữ. Theo thống kê, chỉ có 08/25 (chiếm 32,0%) khung hình

67

phạt chính quy định hình phạt tù có thời hạn (khoản 3, Điều 286; khoản 3, Điều

287; khoản 3, Điều 289; các khoản 2, 3 ,4, Điều 290; khoản 2, Điều 293; khoản 2,

Điều 294). Mức phạt tù có thời hạn phổ biến từ 03 tháng đến 07 năm, đặc biệt cũng

đã có khung hình phạt tù có thời hạn đến 12 năm hoặc 20 năm. Cụ thể: khoản 3,

Điều 286; khoản 3, Điều 287; khoản 3, Điều 289; các khoản 3, 4, Điều 290.

Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, BLHS hiện hành đã có

xu hướng hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Trường hợp bắt buộc phải áp

dụng hình phạt này, mức phạt cũng không quá cao, trừ các trường hợp đặc biệt

nghiêm trọng hoặc đối với tội phạm chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn.

- Thứ tư, hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là

hình phạt bổ sung được áp dụng đối với 07/09 điều luật (chiếm 77,8%) của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (trừ Điều 293 và Điều 294). Tuy không phải là

dấu hiệu bắt buộc về chủ thể của tội phạm, nhưng đối tượng phạm tội này hầu hết

là người có kiến thức hiểu biết, kỹ năng về sử dụng CNTT, MVT. Từ đó, BLHS

đặt ra quy định về hình phạt này nhằm cấm họ đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT trong khoảng thời

gian nhất định, giúp ngăn chặn khả năng đối tượng tái phạm tội. Theo quy định

của BLHS, thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc

liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT là từ 01 đến 05 năm (Điều 41).

- Thứ năm, hình phạt tịch thu tài sản

Tịch thu tài sản (có thể là tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản) là hình phạt

bổ sung chỉ được áp dụng đối với một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Có 03 tội danh quy định tại các điều luật gồm Điều 285, Điều 290 và Điều 291,

BLHS hiện hành, cụ thể: đối với các khoản 2, 3 Điều 285; các khoản 2, 3, 4 Điều

290 và khoản 3 Điều 291. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 45 BLHS, hình phạt này

được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng. Mục đích quan trọng để đưa các tài sản tịch thu vào

ngân sách nhà nước, góp phần khắc phục, bù đắp những hậu quả, thiệt hại do tội

phạm gây ra. Mặc dù tịch thu tài sản, song hình phạt cũng thể hiện tính nhân đạo

trong quy định khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình

họ có điều kiện sinh sống.

68

Qua việc nghiên cứu, phân tích các quy định của BLHS năm 2015 về hình

phạt đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có thể rút ra nhận xét: Hệ

thống hình phạt đối với các tội phạm này tương đối đa dạng, rộng mở, gồm: hình

phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, hình phạt

cấm đảm nhiệm chức vụ cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và hình

phạt tịch thu tài sản. Do tính chất, mức độ của loại tội phạm này, BLHS hiện hành

không quy định hình phạt chính là hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân đối

với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Song cũng không có hình phạt

nhẹ ở mức cảnh cáo đối với người phạm tội này.

2.3.2.2. Các biện pháp tư pháp

Các biện pháp tư pháp là hình thức TNHS cùng với hệ thống hình phạt được

BLHS quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy

hiểm cho xã hội. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ là cá nhân,

do đó theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 2015 thì các biện pháp tư pháp

áp dụng đối với người phạm tội bao gồm: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến

tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi;

bắt buộc chữa bệnh. Tuy nhiên, với quan điểm tiếp cận về TNHS là hậu quả pháp lý

bất lợi áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, Nghiên cứu

sinh xác định biện pháp “bắt buộc chữa bệnh” không được coi là một trong những

hình thức của TNHS.

Bên cạnh hình phạt, các biện pháp tư pháp thể hiện chính sách hình sự của

Nhà nước ta nói chung và chính sách đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT nói riêng. Các biện pháp tư pháp mang tính hỗ trợ cho hình phạt trong

trường hợp cần thiết phải xử lý người phạm tội về hành vi nguy hiểm cho xã hội

mà họ gây ra, thể hiện sự công bằng, nghiêm minh của PLHS, đồng thời loại bỏ

những nguyên nhân - điều kiện phạm tội, góp phần đảm bảo an toàn công cộng,

trật tự công cộng. Các biện pháp tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để góp

phần khắc phục hậu quả mà tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gây ra đối với

xã hội, nhất là hậu quả về tài sản, thiệt hại về kinh tế, hoạt động an toàn, ổn định

của hệ thống CNTT, MVT. Các biện pháp tư pháp được áp dụng kèm theo hình

phạt để giải quyết toàn diện, triệt để vụ án hình sự như: tịch thu vật, tiền liên quan

trực tiếp đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc

69

bồi thường thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; buộc công khai xin lỗi.

2.3.2.3. Án tích

Án tích đối với người bị kết án là một trong những hình thức của TNHS. TNHS

và hình phạt luôn gắn với hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích. Án tích gắn

liền với bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đối với người thực hiện

các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và bị áp dụng hình phạt thì sau khi chấp

hành xong bản án của Tòa án, án tích sẽ là một hình thức để tiếp tục ràng buộc họ, vì

nếu họ chưa được xóa án tích về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mà lại phạm

tội mới thì dấu hiệu án tích có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải

quyết vấn đề TNHS của người đó. Người chưa được xóa án tích lại phạm tội mới có

thể bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm và gắn với việc bị coi là tái phạm, tái

phạm nguy hiểm thì người phạm tội phải chịu TNHS nặng hơn những người không

có án tích mà phạm tội khi các điều kiện khác giống nhau (người tái phạm hoặc tái

phạm nguy hiểm có thể bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng của tội phạm đã thực

hiện hoặc bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS áp dụng chung).

Trong số các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được quy định tại BLHS

năm 2015, có 04/09 tội có đề cập đến vấn đề án tích được xác định trong phần mô

tả cấu thành tội phạm, cụ thể: khoản 1 Điều 286: Tội phát tán chương trình tin học

gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;

khoản 1 Điều 287: Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử; khoản 1 Điều 293: Tội sử dụng trái phép

tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ,

cứu nạn, quốc phòng, an ninh; khoản 1 Điều 294: Tội cố ý gây nhiễu có hại. Về

việc tái phạm nguy hiểm, có 08/09 tội đề cập đến vấn đề này trong việc xác định

các tình tiết tăng nặng TNHS của tội phạm (quy định tại các Điều 285, 286, 287,

289, 290, 291, 293, 294 BLHS năm 2015), trừ Tội đưa hoặc sử dụng trái phép

thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288 BLHS năm 2015).

Tiểu kết Chương 2

TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc

phạm tội có thể được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể:

Nhà nước - bên thực hiện TNHS và người phạm tội - bên chịu TNHS. Người

70

phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, của

các biện pháp cưỡng chế nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các

quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng là một dạng trách

nhiệm pháp lý, là nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà

nước của người phạm tội do đã thực hiện hành vi được quy định trong BLHS bị

coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT được thể hiện qua việc người phạm tội bị áp dụng hình phạt

trong bản án kết tội của Tòa án, và/hoặc có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế

khác do PLHS quy định.

Các hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được

Nghiên cứu sinh nghiên cứu bao gồm: hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ

sung), các biện pháp tư pháp và án tích. Cơ sở của TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của một

người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS, có lỗi (cơ sở thực tế) và hành vi đó

thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành một trong các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT được quy định trong BLHS (cơ sở pháp lý). Bên cạnh đó, Chương 2

cũng đã xác định các nguyên tắc, ý nghĩa, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới

hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tạo cơ sở nền tảng

để triển khai nghiên cứu quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm này

71

cũng như thực tiễn áp dụng tại Việt Nam hiện nay ở Chương 3.

Chương 3

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN,

MẠNG VIỄN THÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

3.1. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật quốc tế và

pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015

3.1.1. Quy định của pháp luật quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những đối tượng rất

quan trọng được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế. Trên phương diện pháp luật

quốc tế, Luận án phân tích một số nội dung chủ yếu của các công ước quốc tế và

BLHS của một số quốc gia tiêu biểu, như: Hoa Kỳ, Canada, Nga, Trung Quốc về

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ đó, đưa ra những kinh

nghiệm, nội dung phù hợp để nghiên cứu, vận dụng ở nước ta, góp phần nâng cao

hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này cả ở trong nước và trên thế

giới bởi “tính quốc tế” đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

3.1.1.1. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong một số công ước quốc tế

Thứ nhất, Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng năm 2001

(còn gọi là Công ước Bu-đa-pet năm 2001). Đây là công ước đầu tiên trên thế giới

điều chỉnh hành vi của tội phạm mạng, chia thành 04 nhóm: (1) Những tội phạm

chống lại tính bí mật, toàn vẹn và sẵn có của dữ liệu máy tính và hệ thống máy

tính; (2) Những tội phạm liên quan đến máy tính; (3) Những tội phạm liên quan

đến nội dung; (4) Những tội xâm phạm quyền tác giả và các quyền liên quan.

Tại khoản 1 Điều 12 Công ước thì chủ thể của tội phạm mạng phải chịu

TNHS không chỉ có cá nhân mà còn có cả pháp nhân, rộng hơn cả pháp nhân

thương mại ở nước ta, nếu đáp ứng các điều kiện về: hành vi phạm tội do cá

nhân thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; cá nhân phạm tội là đại diện hoặc là

nhân viên của pháp nhân và nắm vị trí lãnh đạo dựa trên cơ sở: có quyền đại diện

cho pháp nhân; có thẩm quyền ra quyết định nhân danh pháp nhân; có thẩm

quyền thực hiện việc kiểm soát trong nội bộ pháp nhân. Đặc biệt, tại Điều 13

72

Công ước Bu-đa-pet xác định “Biện pháp chế tài và biện pháp khác” [122] đối

với tội phạm này, theo đó, các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện

pháp cần thiết khác để bảo đảm rằng, các tội phạm được nêu trong Công ước

được trừng trị bởi hệ thống chế tài tương xứng, hiệu quả và có tác dụng răn đe,

bao gồm cả việc tước quyền tự do cá nhân. Đối với pháp nhân cũng phải chịu

trách nhiệm phù hợp và bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự hoặc phi hình

sự mang tính tương xứng, hiệu quả và có tính răn đe hoặc các biện pháp khác,

bao gồm cả chế tài phạt tiền.

Thứ hai, Công ước Ả Rập về phòng, chống tội phạm công nghệ thông tin

năm 2010. Công ước Ả Rập năm 2010 có sự khác biệt về tên gọi “tội phạm công

nghệ thông tin”, không giống tên gọi “tội phạm mạng” trong Công ước Bu-đa-pet

năm 2001 nêu trên và không có sự phân chia nhóm mà quy định theo cách liệt kê,

với 13 loại tội phạm cụ thể, liên quan. Về TNHS, Điều 21 Công ước Ả Rập yêu cầu

các quốc gia thành viên phải cam kết về việc tăng nặng TNHS đối với trường hợp

thực hiện tội phạm truyền thống nhưng người phạm tội sử dụng công nghệ thông tin

để thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, Điều 20 của Công ước này quy định các quốc

gia thành viên phải cam kết việc quy định TNHS đối với pháp nhân trong trường

hợp hành vi phạm tội do người đại diện của pháp nhân thực hiện nhân danh pháp

nhân hoặc vì lợi ích pháp nhân và việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân cũng

không làm ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt đối với cá nhân thực hiện hành vi

phạm tội [125].

Thứ ba, Công ước của Liên minh châu Phi về an ninh mạng và bảo vệ dữ

liệu cá nhân năm 2014. Nhằm mục đích thiết lập khung pháp lý cơ bản về an ninh

mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân, trực tiếp góp phần chống lại tội phạm công nghệ

thông tin, theo Công ước này, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin được

phân thành 04 nhóm: (1) Các tội phạm tấn công hệ thống máy tính; (2) Các tội

xâm phạm dữ liệu máy tính; (3) Các tội phạm liên quan đến nội dung; (4) Các tội

xâm phạm tài sản có liên quan đến công nghệ thông tin và truyền thông. Về vấn

đề TNHS, khoản 1 Điều 30 Công ước châu Phi yêu cầu các quốc gia thành viên

phải hình sự hóa các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản có liên quan đến

dữ liệu máy tính, bao gồm: trộm cắp, lừa đảo, tiêu thụ tài sản trộm cắp, lạm dụng

tín nhiệm, cưỡng đoạt tài sản. Đối với tình tiết sử dụng công nghệ thông tin và

truyền thông để thực hiện hành vi phạm tội nêu trên và hành vi khủng bố, rửa tiền,

73

các quốc gia phải coi đó là tình tiết tăng nặng TNHS. Bên cạnh đó, cũng theo

khoản 2 Điều 30 Công ước này thì pháp nhân phải chịu TNHS về những hành vi

phạm tội được quy định nếu hành vi đó do đại diện của pháp nhân thực hiện nhân

danh pháp nhân [124].

Như vậy, có thể thấy điểm chung của cả 03 công ước nêu trên là đều quy định về TNHS của pháp nhân đối với tội phạm công nghệ thông tin khi hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện vì lợi ích của pháp nhân hoặc nhân danh pháp nhân và cá nhân phạm tội là người đại diện của pháp nhân đó. Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân sẽ không loại trừ TNHS của cá nhân trực tiếp thực hiện tội phạm trong lĩnh vực này.

3.1.1.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật một số quốc gia

Một là, trong pháp luật của Hoa Kỳ. Tại Bộ luật số 18 thuộc Bộ tổng luật Hoa Kỳ (viết tắt 18 USC) không có điều khoản riêng quy định về chủ thể của tội phạm nói chung cũng như các tội liên quan đến công nghệ thông tin, viễn thông nói riêng [36]. Nhiều tài liệu về Luật Hình sự của Hoa Kỳ cũng đề cập rằng chủ thể của tội phạm có thể là thể nhân, tổ chức hoặc cả hai. Khi cân nhắc quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, công tố viên phải tuân thủ các nguyên tắc về truy cứu đối với tổ chức [37].

Ngoài các luật chung của Liên bang, pháp luật Hoa Kỳ còn tạo điều kiện cho từng tiểu bang thông qua những sắc luật riêng để phòng, chống tội phạm CNTT, MVT trên cơ sở phù hợp với tình hình của mỗi bang. Ví dụ, New York nghiêm cấm việc sử dụng các công cụ, thiết bị công nghệ cao với mục đích truy cập vào các tài liệu trong máy tính một cách bất hợp pháp (xâm phạm máy tính), với hành vi vi phạm trên có thể áp dụng hình phạt lên đến 4 năm tù hoặc các hình phạt khác lên đến 15 năm tù tùy theo mức độ vi phạm [136].

74

Về dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS theo quy định Luật Hình sự Hoa Kỳ thì “tiền án” cũng được là một dấu hiệu. Tuy nhiên, đối với trị giá tài sản liên quan đến hành vi phạm tội thì pháp luật Hoa Kỳ còn đưa thêm một dấu hiệu để xác định đó là giới hạn thời gian. Điểm lưu ý tiếp theo là hình phạt, cụ thể: hình phạt áp dụng đối với thể nhân là hình phạt tiền hoặc hình phạt tù (gồm tù có thời hạn hoặc tù chung thân) hoặc cả hai. Đối với từng tội phạm cụ thể, Luật Hình sự Hoa Kỳ không quy định mức phạt tù tối thiểu mà chỉ giới hạn mức phạt tối đa, do vậy, Bộ tổng luật Hoa Kỳ cũng chỉ quy định hình phạt tối đa được áp dụng đối với mỗi loại tội phạm và mỗi trường hợp phạm tội liên quan đến CNTT, MVT. Theo Luật Hình sự Hoa Kỳ, hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là tù

chung thân đối với một số trường hợp hành vi phạm tội xâm hại dữ liệu liên quan đến an ninh, quốc phòng hoặc vị thế chính trị hoặc quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ với các nước khác.

Hai là, trong pháp luật của Canada. BLHS của Canada có 28 phần, trong đó có 10 phần quy định về tội phạm cụ thể, nhưng không có phần hay mục nào quy định riêng về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT [101]. Các hành vi phạm tội liên quan đến lĩnh vực này được quy định đan xen trong các phần liên quan. Theo Luật Hình sự Canada, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được đặt ra đối với cả thể nhân và tổ chức. Trong đó, đối với thể nhân, độ tuổi chịu TNHS là từ 12 tuổi (nhỏ hơn so với quy định của PLHS Việt Nam) và quy định rõ ràng về suy đoán đương nhiên có TNHS và “Việc người phạm tội thiếu hiểu biết pháp luật không phải là lý do được chấp thuận để họ thực hiện tội phạm” (s19). BLHS Canada phân loại 02 trường hợp mà tổ chức phải chịu TNHS về tội phạm với lỗi cẩu thả và lỗi không phải do cẩu thả. Tội phạm liên quan đến công nghệ thông tin trong BLHS Canada đều có lỗi cố ý (nghĩa là không có lỗi vô ý do cẩu thả). BLHS này cũng không quy định dấu hiệu định khung tăng nặng riêng đối với các tội phạm liên quan đến CNTT, MVT.

Về hình phạt đối với tội phạm này trong BLHS Canada, gồm: phạt tiền, phạt tù có thời hạn và phạt tù chung thân, được phân hóa theo tội phạm với 03 loại là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm hỗn hợp. Khi áp dụng hình phạt tiền, Tòa án phải nêu rõ số tiền phạt, cách thức nộp tiền phạt, thời hạn nộp phạt, những loại tài sản nào được chấp nhận cho việc nộp phạt. Điểm rất đặc biệt là Canada cho phép quy đổi từ phạt tiền sang phạt tù nếu người phạm tội vi phạm nghĩa vụ nộp phạt (nghĩa là chưa nộp đầy đủ tiền phạt theo thời hạn quy định). Tòa án có thể áp dụng đồng thời hình phạt tiền và hình phạt tù đối với người phạm tội. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng có thể bị áp dụng hình phạt tiền không quá 5.000 USD hoặc hình phạt tù dưới 02 năm hoặc cả hai. Nếu phạm tội nghiêm trọng, hình phạt tù phổ biến là không quá 10 năm. Quy định đó chứng minh quan điểm của nhà làm luật Canada xác định tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những tội nghiêm trọng ở mức trung bình. Đối với tổ chức, BLHS Canada chỉ quy định hình phạt tiền.

Ba là, trong pháp luật của Nga. BLHS Liên bang Nga xác định đối với các tội phạm trong lĩnh vực này là tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính. Trước hết, BLHS Liên bang Nga xác định chủ thể của các tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính là cá nhân và hầu hết là chủ thể thường. Duy chỉ có tội phạm được quy định tại Điều 274.2 (Tội vi phạm các quy tắc quản lý tập trung 75

các phương tiện kỹ thuật để chống lại các mối đe dọa đối với sự ổn định, an ninh và toàn vẹn hoạt động của mạng thông tin và viễn thông “internet” và mạng truyền thông công cộng trên lãnh thổ Liên bang) là chủ thể đặc biệt - người có chức vụ thực hiện.

Nghiên cứu các quy định của BLHS Liên bang Nga về chế tài áp dụng đối với các tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính cho thấy, Nga sử dụng nhiều hình phạt chính không tước tự do, như: phạt tiền, lao động cải tạo, hạn chế tự do, cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, tất cả các tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính đều dự liệu đến việc áp dụng hình phạt tù mà mức tối đa có thể là 03 năm tù, 05 năm tù, thậm chí đến 08 năm tù. BLHS Nga còn quy định các hình phạt bổ sung như phạt tiền, hạn chế tự do, cấm đảm nhiệm chức vụ, một số công việc nhất định. Các quy định này chứng tỏ Nga có sự phân hóa rất rõ ràng trong chính sách hình sự đối với các trường hợp phạm tội cụ thể [102].

Bốn là, trong pháp luật của Trung Quốc. BLHS của Trung Quốc không quy định tên riêng cho các tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông mà quy định tại mục 1, Chương VI. Theo đó, các tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông có thể do cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện. Điều 30, BLHS Trung Quốc quy định: công ty, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức công cộng thực hiện hành vi nguy hại cho xã hội mà hành vi đó được quy định là tội phạm thì phải chịu TNHS, nghĩa là không giới hạn phạm vi pháp nhân và giới hạn nhóm hay loại tội phạm mà pháp nhân phải chịu TNHS. Quy định về tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông tại Điều 285, 286, 286-1, 287-1, 287-2 BLHS chỉ rõ: trường hợp đơn vị phạm tội quy định tại khoản 1 thì đơn vị đó bị phạt tiền, người phụ trách trực tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị xử phạt theo quy định tại khoản 1.

Về hình phạt quy định đối với các tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định của BLHS Trung Quốc chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn, giam giữ ngắn hạn và hình phạt tiền [103]. Xu thế chung của PLHS Trung Quốc là ngày càng trừng phạt nghiêm khắc hơn nữa các tội phạm này.

3.1.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện chế định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông Trên cơ sở pháp luật quốc tế về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT đã nêu trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm của pháp luật quốc tế

76

cho Việt Nam như sau:

Thứ nhất, có thể bổ sung quy định về việc pháp nhân thương mại phải chịu

TNHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS. Các công ước quốc

tế hiện nay đều yêu cầu các nước thành viên phải truy cứu TNHS đối với pháp

nhân khi có tội phạm công nghệ thông tin do cá nhân thực hiện vì lợi ích của

pháp nhân hoặc nhân danh pháp nhân và cá nhân phạm tội là người đại diện của

pháp nhân đó. Thực tiễn ở nước ta đã xảy ra trường hợp pháp nhân được thành

lập chỉ nhằm mục đích thực hiện một số tội phạm công nghệ thông tin nhưng do

BLHS năm 2015 chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm

này, dẫn đến cơ quan chức năng không thể đấu tranh, xử lý được.

Thứ hai, cần làm rõ và phân hóa hơn nữa TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT trong PLHS hiện nay. PLHS nói chung và BLHS Việt Nam

nói riêng cần làm rõ và phân hóa cao độ TNHS đối với từng loại tội phạm cụ thể

trong lĩnh vực CNTT, MVT với xu hướng đa dạng hóa các loại hình phạt chính,

hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp áp dụng đối với chủ thể phạm tội, mở

rộng thêm các hình phạt không tước tự do nhưng vẫn cần thể hiện tính răn đe,

trấn áp nghiêm minh của Nhà nước. Đồng thời, chú trọng xu thế nhân đạo, khắc

phục triệt để hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra và khắc phục nguyên nhân,

điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực này. Nhấn mạnh lại mục đích của TNHS

đối với tội phạm này không phải và không chỉ là trừng trị mà quan trọng là bảo

đảm công lý, công bằng xã hội và làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm.

Thứ ba, cần có sự điều chỉnh độ rộng của khung hình phạt cải tạo không

giam giữ, phạt tiền và phạt tù có thời hạn áp dụng đối với chủ thể phạm tội trong

lĩnh vực CNTT, MVT bảo đảm cân đối, hợp lý, dễ áp dụng, tránh dẫn đến sự tùy

tiện và thể hiện được sự công bằng. Theo đó, BLHS cần giới hạn định mức tối

thiểu và tối đa của khung hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của

tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS

của chủ thể phạm tội trong từng vụ án cụ thể. Riêng đối với hình phạt tiền nên

định lượng theo trị giá tài sản, thiệt hại gây ra hoặc chiếm đoạt được dùng làm

căn cứ quyết định mức phạt. Bên cạnh đó, nên tham khảo kinh nghiệm của

Canada trong việc quy đổi từ phạt tiền sang phạt tù khi người phạm tội vi phạm

quy định về nộp phạt tiền. Đặc biệt, rất cần lưu ý nâng mức phạt tù có thời hạn

lên mức tù chung thân đối với một số tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT,

77

MVT mà gây hậu quả, thiệt hại rất lớn cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự

bảo vệ, ví dụ: hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, tài sản của cơ

quan, tổ chức, cá nhân.

Thứ tư, PLHS Việt Nam cần quy định rõ trong BLHS về việc suy đoán

đương nhiên có TNHS đối với chủ thể là cá nhân phạm tội nói chung, phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng theo kinh nghiệm của Canada. Đồng thời,

phải xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước mà đại diện là các cơ quan

chức năng có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình truy cứu TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Cần xác định rõ vai trò, nghĩa vụ và trách

nhiệm của Nhà nước, cụ thể là các cơ quan nhà nước trong việc phải bảo đảm truy

cứu TNHS một cách đúng đắn, khách quan, trên tinh thần “thượng tôn pháp luật”.

Thứ năm, Việt Nam cần sớm hoàn chỉnh khung pháp lý cần thiết liên quan

đến các hoạt động trên không gian mạng, trong đó tiếp tục xác định rõ ràng, chặt

chẽ những quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Trong đó chú ý vấn đề ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến các hoạt

động trên không gian mạng, các vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT nói riêng và chế tài xử lý đối với các vi phạm đó, bảo đảm cụ

thể, chi tiết, phù hợp và dễ áp dụng trong thực tiễn. Để thực hiện tốt vấn đề này,

chúng ta cần tham khảo việc nội luật hóa một số quy định trong các văn bản pháp

luật quốc tế như: Công ước Bu-đa-pet năm 2001 hay tham khảo kinh nghiệm lập

pháp của một số nước tiên tiến, như: Hoa Kỳ, Canada về chế định TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đặc biệt tới đây, Liên hợp quốc sẽ thông

qua Công ước về tội phạm mạng, Công ước sẽ được mở để ký kết ở Hà Nội (hay

còn gọi là Công ước Hà Nội) vào năm 2025 và tiếp tục mở tại Trụ sở Liên hợp

quốc ở New York (Mỹ) cho đến ngày 31/12/2026. Công ước này tập hợp các quốc

gia tham gia vào một mục tiêu chung: ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm mạng,

tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy hỗ trợ kỹ thuật và phát triển năng lực. Đây là

cơ hội, điều kiện rất lớn để Việt Nam tham gia hội nhập và không ngừng hoàn

thiện hệ thống pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Trên cơ sở những nội dung chủ yếu trong quy định của pháp luật quốc tế về

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cho thấy, nhiều giá trị tiến

bộ, phù hợp và rất khả thi để nước ta tham khảo, điều chỉnh chính sách và quy

định của PLHS liên quan vấn đề này. Thiết nghĩ, BLHS và một số các văn bản

pháp lý khác ở Việt Nam cần có sự tiếp thu, vận dụng trong những lần sửa đổi, bổ

78

sung trong thời gian tới, góp phần hoàn thiện chế định TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống

tội phạm trong tình hình mới.

3.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với

tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trước khi ban

hành Bộ luật Hình sự năm 2015

3.1.2.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến khi ban

hành Bộ luật Hình sự năm 1999

Trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình đời sống kinh tế, xã hội, khoa

học công nghệ ở nước ta còn nhiều khó khăn, CNTT, MVT chưa được ứng dụng

phổ biến, do đó tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng chưa xuất hiện. Có

thể khẳng định BLHS năm 1985 không có quy định nào về tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT. Khi Quốc hội ban hành BLHS năm 1999 thì CNTT, MVT đã

được sử dụng và áp dụng nhiều hơn trong cuộc sống. Các đối tượng đã sử dụng

CNTT, MVT để thực hiện tội phạm cũng như tác động, gây thiệt hại đối với

CNTT, MVT. Các loại tội phạm ấy gây mất an toàn công cộng, trật tự công

cộng, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và có xu

hướng tăng nhanh. BLHS năm 1999 đã quy định về 03 tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT tại Chương XIX. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công

cộng, gồm: Điều 224. Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút

tin học; Điều 225. Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng

mạng máy tính điện tử; Điều 226. Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và

trong máy tính. Tuy vậy, 03 tội này chưa được quy định thành nhóm riêng, chưa

được gọi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như hiện nay mà chỉ là các tội

phạm cụ thể thuộc Chương XIX của BLHS nêu trên.

BLHS năm 1999 quy định phạm vi của tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT rất hạn hẹp, bởi lẽ theo quy định của BLHS năm 1999, khách thể loại của

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là an toàn công cộng, trật tự công cộng.

Điều này cũng lặp lại tương tự trong các lần sửa đổi, bổ sung sau và kể cả BLHS

năm 2015 hiện hành cũng không thay đổi.

Theo quy định của BLHS năm 1999, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT đặt ra như sau:

Thứ nhất, TNHS đối với tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình

79

vi-rút tin học (Điều 224):

Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút được thực hiện bởi

02 hành vi, bao gồm: tạo ra chương trình vi-rút và lan truyền hoặc phát tán

chương trình vi-rút. Chương trình vi-rút là một loại chương trình tin học có tính

năng gây hại, có khả năng “tự động hóa xử lý thông tin, gây ra hoạt động không

bình thường cho thiết bị số hoặc sao chép, sửa đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trong

thiết bị số”. Theo quy định tại Điều 224, BLHS năm 1999, sau khi tạo ra chương

trình vi-rút, người phạm tội đã cố ý lan truyền hoặc phát tán chương trình vi-rút

đó nhằm gây rối loạn hoạt động, phong tỏa, sao chép, làm biến dạng, huỷ hoại

các dữ liệu của máy tính, thiết bị viễn thông, thiết bị số. Trên thực tế, quy định

này là rất hạn chế vì đã thu hẹp khoảng cách bị xử lý hình sự đối với tội phạm

này, vì người phạm tội phải trực tiếp tạo ra chương trình vi-rút và cố ý phát tán,

lan truyền chương trình vi-rút này thì mới thỏa mãn dấu hiệu hành vi trong mặt

khách quan của cấu thành tội phạm. Ngoài ra, chương trình vi-rút tin học chỉ là

một trong số nhiều những chương trình tin học có tính năng gây thiệt hại khác.

Đến khi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009, các nhà làm luật đã khắc phục được

các hạn chế, thiếu sót này.

Về TNHS liên quan, BLHS năm 1999 quy định hình phạt đối với tội phạm

này là phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến

03 năm. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì

bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt

tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Thứ hai, TNHS đối với tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và

sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225):

Tội phạm này có hành vi khách quan là sử dụng mạng máy tính vi phạm

các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính gây rối loạn hoạt

động, phong tỏa hoặc làm biến dạng, làm hủy hoại các dữ liệu của máy tính hoặc

đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Hành vi

“vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính” có

phạm vi rất rộng bao gồm nhiều hành vi khác nhau dẫn đến hậu quả là “gây rối

loạn hoạt động, phong tỏa hoặc làm biến dạng, làm hủy hoại các dữ liệu của máy

tính” và cả những hành vi tuy không dẫn đến hậu quả này nhưng “đã bị xử lý kỷ

luật, xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Điều này làm cho

80

những hành vi không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực CNTT, MVT cũng bị đưa

vào hành vi khách quan của tội này. Điểm bất cập này trong BLHS năm 1999 đã

được sửa đổi, bổ sung khắc phục vào năm 2009, các nhà làm luật đã sửa đổi tên

tội danh thành “tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng

viễn thông, mạng internet, thiết bị số”. Sự thay đổi này đã thu hẹp phạm vi xử lý

hình sự của Điều 225 và thể hiện rõ bản chất của tội phạm này này thông qua

việc xác định đúng đắn hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm, gồm 3

hành vi cụ thể: (1) tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu thiết bị

số; (2) ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn

thông, mạng internet, thiết bị số; (3) hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt

động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số. Đây là

hành vi cố ý của người không có quyền quản lý, vận hành, khai thác mạng máy

tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số đã làm ảnh hưởng đến hoạt

động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị

số bằng việc đưa vào, truyền tải làm hư hỏng, xóa, làm suy giảm, thay thế hoặc

nén dữ liệu máy tính, thiết bị viễn thông hoặc thiết bị số.

Về TNHS liên quan, BLHS năm 1999 quy định hình phạt đối với tội phạm

này là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường

hợp: Có tổ chức; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền

từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Thứ ba, TNHS đối với tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong

máy tính (Điều 226):

Hành vi khách quan của tội là hành vi sử dụng trái phép thông tin trên

mạng và trong máy tính hoặc đưa vào mạng máy tính những thông tin trái với

quy định của pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng. Điều luật này được BLHS

năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đổi tên tội danh thành “tội đưa hoặc sử

dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet”.

Theo đó, hành vi khách quan của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên

mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, bao gồm các hành vi sau: (1)

đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet những thông tin trái với

quy định của pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 88 và

81

Điều 253 của BLHS năm 1999; (2) mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay

đổi hoặc công khai hóa những thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân khác trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet mà không được

phép của chủ sở hữu thông tin đó; (3) hành vi khác sử dụng trái phép thông tin

trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet.

Về TNHS liên quan, BLHS năm 1999 quy định hình phạt đối với tội phạm

này là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến

03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội thuộc một trong các

trường hợp: có tổ chức; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng

thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt

tiền từ 03 triệu đồng đến 30 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

3.1.2.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung

năm 2009 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015

Qua 10 năm triển khai thực hiện, BLHS năm 1999 đã xuất hiện những hạn

chế, bất cập. Trên cơ sở biến đổi của tình hình xã hội, Luật sửa đổi, bổ sung

BLHS năm 1999 ngày 19/6/2009 đã được ban hành. Theo đó, quy định của

BLHS năm 1999 về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng được sửa đổi, bổ

sung tương đối nhiều. Ngoài những sửa đổi, bổ sung trong các điều luật trên,

BLHS năm 1999 còn được sửa đổi, bổ sung thêm các nội dung sau:

Một là, đã quy định bổ sung thêm 02 điều luật mới là Điều 226a. Tội truy cập

bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số

của người khác và Điều 226b. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng

internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Từ đó, nâng tổng số

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 lên

thành 05 tội. Có thể khẳng định 02 tội danh mới này rất phù hợp với xu thế phát

triển và biến đổi của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở trong nước và trên thế

giới lúc bấy giờ.

Hai là, sửa đổi các Điều 224, Điều 225 và Điều 226 cụ thể hơn. BLHS sửa

đổi năm 2009 đã đưa thêm vào cấu thành tăng nặng một số tình tiết định khung

như: “có tổ chức”, “tái phạm nguy hiểm”, “đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật

nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng”... Đồng thời sửa đổi

bằng cách tăng nặng hình phạt tiền “từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng” lên “từ 20

triệu đồng đến 200 triệu đồng” (khoản 1 Điều 224 và Điều 225) và từ 05 triệu

82

đồng đến 50 triệu đồng lên “từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng” (khoản 1 Điều

226). Đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền trong Điều 226 đã tăng từ “03

triệu đồng đến 30 triệu đồng” lên “từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng”.

Về TNHS đối với 05 tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy

định của BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009, như sau:

- Đối với tội phát tán vi-rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho

hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số (Điều

224) là bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm

đến 05 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tổ chức; gây hậu quả

nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Phạm tội

thuộc một trong các trường hợp: đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước;

hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng; đối với cơ sở hạ tầng thông tin

quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài

chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông; Gây hậu quả đặc

biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức

vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

- Đối với tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng

viễn thông, mạng internet, thiết bị số (Điều 225) là bị phạt tiền từ 20 triệu đồng

đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội thuộc một

trong các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng

viễn thông, mạng internet; gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 03 năm

đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Đối với hệ thống dữ liệu

thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng; đối với

cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc

gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao

thông; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu

đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ

01 năm đến 05 năm.

- Đối với tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng

viễn thông, mạng internet (Điều 226) là bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100

triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến

03 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng quyền

83

quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet; thu lợi bất chính từ 100

triệu đồng trở lên; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì

bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt

tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

- Đối với tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông,

mạng internet hoặc thiết bị số của người khác (Điều 226a) là bị phạt tiền từ 20

triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội thuộc

một trong các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; thu lợi bất

chính lớn; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm

đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: đối với hệ thống dữ liệu

thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng; đối với

cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia;

hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông;

thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc

biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội

còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức

vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

- Đối với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc

thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b) là bị phạt tiền từ 10

triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội

thuộc một trong các trường hợp: có tổ chức; phạm tội nhiều lần; có tính chất

chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu

đồng; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm

đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: chiếm đoạt tài sản có giá

trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: chiếm

đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người

phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tịch thu một

phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Ở giai đoạn phát triển tiếp theo (từ năm 2010 đến năm 2015) những thủ

đoạn phạm tội mới xuất hiện đặt ra vấn đề cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn

84

thiện quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đáp ứng yêu

cầu cấp bách trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng, BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ

sung đáng kể trong các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT so với

BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), trong đó có những quy định về

TNHS đối với loại tội phạm này.

3.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối

với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông hiện nay

3.2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được biểu hiện ra bên

ngoài bằng các hình thức cụ thể. Nó phản ánh mức độ phải chịu TNHS của

người phạm tội, cũng như quyền, nghĩa vụ và địa vị pháp lý của các bên trong

mối quan hệ PLHS. Hình thức TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc

người đó đã thực hiện tội phạm này. Nghiêm khắc và nổi bật nhất trong các hình

thức TNHS đối với tội phạm đó là hình phạt và đi kèm là án tích. Đối với các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì hình phạt được quy định ngay trong chế tài

của các tội phạm tại mục 2, chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng,

trật tự công cộng của BLHS năm 2015.

Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT không chỉ giới hạn ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt, mà còn phải chịu

sự tác động của các hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, bị áp dụng các biện

pháp cưỡng chế TNHS (hình phạt và các biện pháp tư pháp) và bị mang án tích.

Kể cả trong trường hợp người phạm tội được miễn TNHS thì trước khi miễn

TNHS, hành vi mà người đó thực hiện vẫn bị coi là tội phạm và người đó vẫn bị

coi là người có tội. Vì thế, người đó phải có nghĩa vụ pháp lý là gánh chịu các biện

pháp cưỡng chế hình sự đặt ra. Bởi lẽ, TNHS xuất hiện từ khi người đó thực hiện

hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Việc người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được miễn TNHS chính là

việc chấm dứt TNHS đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn TNHS được

quy định tại BLHS năm 2015. Theo đó, họ không phải gánh chịu hậu quả bất lợi

mà luật quy định đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, do cơ quan

85

có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt hay các dạng

TNHS khác đối với họ là không cần thiết và vì thế họ được miễn TNHS. Khi

người phạm tội bị tác động bởi hình thức TNHS phổ biến là hình phạt, hay ngay

cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều có hậu quả là họ bị mang án tích

trong một thời hạn nhất định. Nếu chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì

tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

3.2.1.1. Về hình phạt chính

Hình phạt chính đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm 3/7

loại hình phạt chính theo quy định tại Điều 32 BLHS hiện hành đó là: phạt tiền,

cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Còn đối với hình phạt trục xuất, theo quy

định tại Điều 37, BLHS hiện hành thì hình phạt này chỉ áp dụng đối với người

nước ngoài phạm tội và được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt

bổ sung tùy từng trường hợp cụ thể. Như vậy, đối với 09 tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT sẽ không có tội nào mà người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù

chung thân hoặc tử hình, nhưng cũng không có tội nào mà chỉ bị áp dụng hình

phạt cảnh cáo. Có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của các hình phạt chính

được áp dụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:

Một là, về tần suất quy định các loại hình phạt chính trong tổng số 09 tội danh

trong lĩnh vực CNTT, MVT (xem phụ lục 1). Qua đó cho thấy, tần suất quy định

loại hình phạt chính là phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn tương đối

đồng đều trong tổng số các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nhiều nhất là

hình phạt tù có thời hạn được quy định ở 09/09 tội (chiếm 100%), kế tiếp là hình

phạt tiền được quy định ở 08/09 tội (chiếm 88,89%) và sau cùng là hình phạt cải tạo

không giam giữ được quy định ở 07/09 tội (chiếm 77,78%).

Như vậy hình phạt được áp dụng phổ biến nhất đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT là hình phạt tù có thời hạn. Hình phạt này cũng có sự phân

hóa, giới hạn nhất định giữa các tội phạm này (xem phụ lục 2).

Hai là, các quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

trong BLHS năm 2015 đã thể hiện rõ chính sách hình sự của nước ta theo Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020: “... đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc

xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt

cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm...”, với quan điểm áp dụng

86

TNHS tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT gây ra đối với xã hội, cụ thể: chỉ có 03/07 hình phạt chính trong

BLHS được áp dụng đối với tội phạm này, trong đó mức phạt nhẹ nhất là phạt tiền

từ 20 triệu đồng và mức phạt nặng nhất là phạt tù có thời hạn đến 20 năm.

Căn cứ Điều 9, BLHS hiện hành về phân loại tội phạm thì đối với 09 tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở cấu thành cơ bản, thì có 08/09 tội là tội

phạm ít nghiêm trọng (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03

năm); 01/09 tội là tội phạm nghiêm trọng (đến 05 năm tù): Điều 289. Tội xâm

nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử

của người khác.

Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở khung cấu thành tăng

nặng, thì không có tội nào là tội phạm ít nghiêm trọng; có 05/09 tội là tội phạm

nghiêm trọng (phạt tù đến 05 năm hoặc phạt tù đến 07 năm); 03/09 tội là tội

phạm rất nghiêm trọng (phạt tù đến 12 năm) và 01/09 tội là tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng (phạt tù đến 20 năm).

Ba là, khoảng cách thời hạn phạt tù giữa mức khởi điểm thấp nhất và mức

cao nhất của khung hình phạt tù có thời hạn còn chênh lệch khá lớn. Cụ thể: từ

03 tháng đến 02 năm; từ 06 tháng đến 03 năm; từ 01 năm đến 05 năm; từ 02 năm

đến 07 năm; từ 03 năm đến 07 năm; từ 07 năm đến 12 năm; từ 07 năm đến 15

năm; thậm chí là từ 12 năm đến 20 năm (khoảng cách rất lớn đến 08 năm). Việc

BLHS hiện hành quy định khoảng thời hạn phạt tù có sự chênh lệch lớn trong

khung hình phạt mặc dù tạo sự linh hoạt, cơ động cho Tòa án khi xét xử, quyết

định hình phạt, nhưng chính nó cũng gây nhiều khó khăn cho Tòa án khi áp dụng

TNHS. Đồng thời việc này cũng chưa thể hiện sự phân hóa rõ nét về TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Bốn là, mức khởi đầu của một số khung hình phạt tù có thời hạn rất thấp,

chỉ từ 03 tháng tù. Theo Nghiên cứu sinh, 03 tháng tù là quá ngắn để trừng trị

người bị coi là phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, mức phạt này khó có thể

răn đe, giáo dục, cải tạo người bị kết án cũng như tạo ra sự phòng ngừa chung

đối với xã hội. Đây thực sự là hạn chế trong quy định về TNHS đối với các tội

phạm cụ thể được quy định bởi khung hình phạt này, không riêng gì đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Năm là, mức án phạt tù có thời hạn cao nhất và cũng là khung hình phạt cao

87

nhất được áp dụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định của

BLHS hiện hành là 20 năm tù (khoản 4, Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) thuộc

một trong các trường hợp: chiếm đoạt tài sản từ 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại

500 triệu đồng trở lên hoặc số lượng thẻ giả (thẻ ngân hàng giả) 500 thẻ trở lên.

Theo Nghiên cứu sinh, mức cao nhất của hình phạt tù có thời hạn là 20 năm tù đối

với tội phạm có cấu thành tăng nặng nêu trên là tương đối nhẹ. Đặc biệt, cũng chỉ

duy nhất khoản 4, Điều 290 có mức hình phạt cao nhất này trong số tất cả hình phạt

áp dụng đối với nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Điều đó cho thấy tính

nghiêm khắc của PLHS đối với loại tội phạm này còn hạn chế, nhất là trong bối

cảnh tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT diễn biến vô cùng gay gắt,

phức tạp, để lại nhiều hậu quả lớn trong xã hội như hiện nay. Rất cần thiết phải tăng

chế tài áp dụng đối với loại tội phạm này trong thời gian tới.

3.2.1.2. Về hình phạt bổ sung

Theo quy định tại Khoản 2, Điều 32, BLHS năm 2015, hình phạt bổ sung đối

với người phạm tội bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu

tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp

dụng là hình phạt chính. Bên cạnh đó, khoản 3, Điều 32 này cũng quy định: “Đối

với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị

áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”.

Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì hình phạt bổ sung được

quy định bao gồm: phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Qua nghiên cứu quy

định của BLHS hiện hành về hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với các tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, rút ra một số điểm đáng chú ý sau:

Một là, về tần suất quy định các loại hình phạt bổ sung, qua thống kê 09 tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhận thấy: hình phạt bổ sung được quy định để

áp dụng với tỷ lệ tương đối cao. Cụ thể có 07/09 tội có quy định về hình phạt bổ

sung ở khoản cuối cùng trong điều luật (chiếm 77,78%). Có 02/09 tội không quy

định hình phạt bổ sung (chiếm 22,22%) đó là “tội sử dụng trái phép tần số vô

tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,

quốc phòng, an ninh” (Điều 293) và “tội cố ý gây nhiễu có hại” (Điều 294).

88

Đúng như tên gọi của hình phạt bổ sung, theo đó hình phạt này chỉ quy định

để áp dụng đối với các tội phạm cụ thể, chứ không quy định áp dụng đối với tất

cả tội phạm trong BLHS nói chung, tất cả tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

nói riêng. Bởi đây là các hình phạt bổ sung cho hình phạt chính, góp phần hỗ trợ

đạt được mục đích, giúp thực hiện hiệu quả mục đích của hình phạt tại Điều 31,

BLHS hiện hành. Theo đó, đối với các tội phạm mà hình phạt chính được quy

định chưa đủ sức răn đe, trừng trị và giáo dục cũng như chưa thể hiện hết yêu

cầu, mục đích của hình phạt thì có thể áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với

người phạm tội ấy.

Hai là, hình phạt bổ sung được quy định đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT cũng mang tính tùy nghi khi tại khoản cuối cùng trong các Điều 285,

286, 287, 288, 289, 290, 291 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị ...”, với 02

hình phạt bổ sung xuất hiện trong cả 07 điều luật nêu trên là: phạt tiền, cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Riêng đối với hình

phạt bổ sung là “tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” có thể được áp dụng đối

với 03 tội, đó là: “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị,

phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” (Điều 285); “tội sử dụng mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản” (Điều 290) và “tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái

phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291).

Điều này cho thấy đặc thù của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT như đã phân tích nêu trên, cần có sự trừng trị thêm của hình phạt bổ

sung để hỗ trợ, tăng cường hiệu quả đối với hình phạt chính. Từ đó, cho thấy

TNHS đối với nhóm tội này vừa thể hiện được quan điểm trừng trị, vừa nhằm

phòng ngừa, răn đe các trường hợp khác trong xã hội, qua đó giúp Nhà nước

khắc phục tốt nhất các thiệt hại do tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gây ra.

Ba là, các hình phạt bổ sung không được quy định áp dụng đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT là: trục xuất, quản chế, tước một số quyền công dân,

cấm cư trú. Bởi trên thực tế, các hình phạt bổ sung này không phù hợp với đặc

điểm của chủ thể phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT như đã phân tích trong

phần cơ sở của TNHS đối với tội phạm này ở trên. Đồng thời, trong yêu cầu

phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng không cần

thiết đặt ra yêu cầu áp dụng các hình phạt bổ sung này (xem phụ lục 3).

Bốn là, trong 03 loại hình phạt bổ sung nêu trên, thì phổ biến hơn cả là phạt

89

tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính và cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành

nghề hoặc làm công việc nhất định. Theo Nghiên cứu sinh, quy định này rất phù

hợp bởi lẽ một trong những mục đích quan trọng mà người phạm tội mong muốn

đạt được khi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT là chiếm đoạt tiền hoặc tài

sản. Đồng thời, vị trí công việc, nghề nghiệp hay tính chất việc làm của người

phạm tội này trước đó chính là những nguyên nhân - điều kiện thuận lợi để họ

lợi dụng thực hiện tội phạm, mặc dù tội phạm này không đòi hỏi chủ thể phạm

tội là chủ thể đặc biệt. BLHS hiện hành quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định rất có ý

nghĩa không chỉ trong việc khắc phục hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra, mà

còn góp phần hạn chế, loại bỏ khả năng, điều kiện để người bị kết án tái phạm

hoặc vi phạm pháp luật khác.

Năm là, đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền thì BLHS hiện hành cũng quy

định mức phạt rất đa dạng và tùy nghi áp dụng theo phán quyết của Tòa án. Quy

định này rất tạo điều kiện để Tòa án chủ động, vận dụng và quyết định linh hoạt

trong việc có hay không việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Cùng

với đó, giới hạn định mức phạt tiền từ thấp nhất đến cao nhất được quy định khá

rộng, thường có khoảng cách khá xa. Qua thống kê cho thấy: mức phạt cao nhất

gấp nhiều lần mức khởi điểm (từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng; từ 5 triệu đồng

đến 100 triệu đồng; từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng; từ 20 triệu đồng đến 100

triệu đồng; từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng; từ 30 triệu đồng đến 200 triệu

đồng). Khoảng cách chênh lệch lớn nhất trong giới hạn liệt kê nêu trên là 20 lần

(từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng). Tuy nhiên, nếu nhìn ở một góc độ khác, quy

định này có thể coi là một hạn chế của BLHS hiện hành khi có thể dẫn tới việc cơ

quan có thẩm quyền không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung hoặc có áp

dụng nhưng rất dễ áp dụng tùy tiện (xem phụ lục 4).

3.2.1.3. Các biện pháp tư pháp

Biện pháp tư pháp là một hình thức TNHS mang tính cưỡng chế nhằm thay

thế hình phạt hoặc hỗ trợ hình phạt theo các điều kiện và căn cứ do PLHS quy

định. Theo đó, khi xét xử, Tòa án sẽ căn cứ các quy định của PLHS hiện hành để

quyết định áp dụng biện pháp tư pháp cụ thể đối với người phạm tội trong lĩnh

vực CNTT, MVT. Khoản 1, Điều 46 BLHS hiện hành quy định các biện pháp tư

pháp đối với người phạm tội bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến

tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin

90

lỗi; Bắt buộc chữa bệnh. Riêng đối với biện pháp “bắt buộc chữa bệnh”, như đã

nêu ở phần trên, vì TNHS là những hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu, do đó thì “bắt buộc chữa bệnh” sẽ

không phải là hình thức của TNHS mà chỉ là một biện pháp tác động hình sự

khác được áp dụng dành cho người phạm tội trong trường hợp họ bị mắc bệnh

tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển

hành vi của mình. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh bên cạnh việc phòng ngừa

người phạm tội gây thiệt hại thì bản thân nó còn mang tính nhân đạo sâu sắc, vì

thế không thể coi đây là “hậu quả pháp lý bất lợi” với tư cách là TNHS áp dụng

đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Trong mục 2, chương XXI, BLHS hiện hành về các tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT không quy định trực tiếp biện pháp tư pháp cụ thể nào được áp dụng

đối với tội phạm trong lĩnh vực này. Qua nghiên cứu cho thấy, các biện pháp tư

pháp phổ biến áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, đó là:

- Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47, BLHS hiện

hành): Việc tịch thu tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm sung vào ngân sách nhà

nước hoặc tịch thu vật liên quan đến tội phạm để tiêu hủy được áp dụng đối với:

Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc

do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm

tội; Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Bên cạnh đó, đối với

vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu

mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Ngoài ra, đối với vật,

tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người

phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.

- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi

(Điều 48 BLHS hiện hành). Theo đó, người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm

đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường

thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Bên cạnh đó, trong

trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải

bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.

Các biện pháp tư pháp bị áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT chủ yếu nhằm thu hồi tài sản đã bị chiếm đoạt, trực tiếp góp phần

khắc phục hậu quả do người phạm tội gây ra, hạn chế thiệt hại cho cơ quan, tổ

91

chức, cá nhân liên quan.

3.2.1.4. Án tích

Án tích trong TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT

theo quy định của BLHS năm 2015 cơ bản tương tự so với người phạm các loại

tội phạm khác. Khoản 1 Điều 69 BLHS năm 2015 quy định: “Người được xóa

án tích coi như chưa bị kết án”. Điều đó có nghĩa rằng người mang án tích phải

là người bị kết án và án tích chính là hậu quả pháp lý sau cùng của người phạm

tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Việc xóa án tích đối với người bị kết án về tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được thực hiện theo quy định chung tại các

Điều 69, 70, 72 và 73 thuộc Chương X của BLHS hiện hành, trừ Điều 71. Xóa

án tích theo quyết định của Tòa án, bởi trường hợp xóa án tích theo quyết định

của Tòa án chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về một trong các tội quy

định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI

(các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) của BLHS,

nghĩa là việc xóa án tích đối với người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT chỉ được thực hiện trong 02 trường hợp: đương nhiên được xóa án

tích (Điều 70) và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72). Những quy

định này đã thể hiện rõ nét chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta đối với

người bị kết án, trong đó có những người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT nhằm tạo động lực để họ chấp hành nghiêm túc bản án của Tòa án

đã tuyên và có hiệu lực, đồng thời có ý thức tuân thủ pháp luật sau khi đã chấp

hành xong bản án đó.

3.2.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm cụ thể trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015

3.2.2.1. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội sản xuất, mua bán, trao

đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái

pháp luật

TNHS đặt ra đối với người phạm tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng

cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều

285 BLHS) gồm 03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với

mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội là hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc

tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục đích trái pháp luật.

92

Trong trường hợp này người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 20 triệu

đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù

từ 03 tháng đến 02 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phạm tội 02

lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới

500 triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; tái

phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 100 triệu

đồng đến 500 triệu đồng (gấp 05 lần mức phạt ở khung cơ bản) hoặc phạt tù từ 01

năm đến 05 năm.

Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội thu lợi bất chính 500 triệu đồng

trở lên; gây thiệt hại về tài sản 1 tỷ đồng trở lên thì người phạm tội có thể bị áp dụng

hình phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

có thể áp dụng đối với người phạm tội này, đó là: phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 100

triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

3.2.2.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phát tán chương trình tin

học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

TNHS đặt ra đối với người phạm tội phát tán chương trình tin học gây hại

cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều

286 BLHS) gồm 03 khung hình phạt theo mức độ tăng dần tương ứng với mức

độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi cố ý phát tán

chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp: Thu lợi bất chính từ 50 triệu

đồng đến dưới 200 triệu đồng; gây thiệt hại từ 50 triệu đồng đến dưới 300

triệu đồng; làm lây nhiễm từ 50 phương tiện điện tử đến dưới 200 phương

tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 50 người sử dụng đến dưới 200

người sử dụng; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị

kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong các trường

hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến

200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06

tháng đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; thu lợi bất

93

chính từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây thiệt hại từ 300 triệu đồng

đến dưới 1 tỷ đồng; làm lây nhiễm từ 200 phương tiện điện tử đến dưới 500

phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 200 người sử dụng đến dưới 500

người sử dụng; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt

tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội đối với hệ thống dữ liệu thuộc

bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ

sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia;

hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao

thông; thu lợi bất chính 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 1 tỷ đồng trở lên;

làm lây nhiễm 500 phương tiện điện tử trở lên hoặc hệ thống thông tin có từ 500

người sử dụng trở lên thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 07

năm đến 12 năm trong trường hợp:

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

đối với người phạm tội này, đó là: phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.

3.2.2.3. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội cản trở hoặc gây rối

loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

TNHS đặt ra đối với người phạm tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động

của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287 BLHS) gồm

03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng

của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi tự ý xóa, làm

tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc

truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

hoặc có hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau

đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 286 và Điều 289 của

BLHS: Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; gây thiệt

hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; làm tê liệt, gián đoạn, ngưng

trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 30

phút đến dưới 24 giờ hoặc từ 03 lần đến dưới 10 lần trong thời gian 24 giờ;

làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ đến dưới 72 giờ; đã bị

xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa

94

được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong các trường hợp này, người phạm tội

có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù

từ 06 tháng đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; lợi dụng

quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông; tái phạm nguy hiểm; thu lợi bất

chính từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; gây thiệt hại từ 500 triệu đồng đến

dưới 1,5 tỷ đồng; làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 24 giờ đến dưới 168 giờ hoặc từ 10 lần

đến dưới 50 lần trong thời gian 24 giờ; làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ

chức từ 72 giờ đến dưới 168 giờ thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt

tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội đối với hệ thống dữ liệu thuộc

bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở

hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ

thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông;

Thu lợi bất chính 1 tỷ đồng trở lên; Gây thiệt hại 1,5 tỷ đồng trở lên; Làm tê liệt,

gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử 168 giờ trở lên hoặc 50 lần trở lên trong thời gian 24 giờ, Làm đình

trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức 168 giờ trở lên thì người phạm tội có thể bị áp

dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.

3.2.2.4. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội đưa hoặc sử dụng trái

phép thông tin máy tính, mạng viễn thông

TNHS đặt ra đối với người phạm tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin

máy tính, mạng viễn thông (Điều 288 BLHS) gồm 02 khung hình phạt chính theo

mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là việc thực hiện một trong

các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu

đồng hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc gây

dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân: Đưa lên mạng

máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật,

95

nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điều 117, 155,

156 và 326 của BLHS; mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc

công khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên

mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông

tin đó; hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng

viễn thông. Trong các trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình

phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03

năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo và cũng là mức cao nhất, trong trường hợp phạm

tội có tổ chức; lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông; thu lợi

bất chính 200 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; xâm phạm

bí mật cá nhân dẫn đến người bị xâm phạm tự sát; gây ảnh hưởng xấu đến an

ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc quan hệ đối ngoại của Việt Nam; dẫn đến biểu

tình thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1

tỷ đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.

3.2.2.5. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội xâm nhập trái phép vào

mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác

TNHS đặt ra đối với người phạm tội xâm nhập trái phép vào mạng máy

tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289

BLHS) gồm 03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức

độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã

truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương

thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc

phương tiện điện tử của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào

chức năng hoạt động của phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm

giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ. Trong các trường hợp này,

người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu

96

đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; lợi dụng

chức vụ, quyền hạn; thu lợi bất chính từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;

gây thiệt hại từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; đối với trạm trung chuyển

internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền và hệ thống máy chủ tên miền

quốc gia; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền

từ 300 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.

Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí

mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở hạ

tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống

thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông; thu lợi bất

chính 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 1 tỷ đồng trở lên thì người phạm tội có

thể bị áp dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm.

3.2.2.6. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

TNHS đặt ra đối với người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290

BLHS) gồm 04 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức

độ tăng nặng của cấu thành tội phạm (là tội có số lượng khung hình phạt chính

nhiều nhất và cao nhất trong tất cả các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được

quy định trong BLHS năm 2015), cụ thể:

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội là hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng

viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau

đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và

Điều 174 của BLHS: Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ

quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc

thanh toán hàng hóa, dịch vụ; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ

ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh

toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ

chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại điện tử,

thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc

97

giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp

trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong các

trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam

giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng thứ hai, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phạm tội

02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới

200 thẻ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; gây

thiệt hại từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng; tái phạm nguy hiểm thì người

phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Ở mức tăng nặng thứ ba, trong trường hợp phạm tội chiếm đoạt tài sản trị

giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây thiệt hại từ 300 triệu đồng

đến dưới 500 triệu đồng; số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ thì người

phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.

Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500

triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; số lượng thẻ giả 500 thẻ

trở lên thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

3.2.2.7. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội thu thập, tàng trữ, trao

đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

TNHS đặt ra đối với người phạm tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán,

công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291 BLHS) gồm

03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng

của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi thu thập, tàng trữ,

trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

của người khác với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50 tài khoản hoặc thu

lợi bất chính từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Trong các trường hợp

này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100

triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội thu thập, tàng trữ, trao

98

đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người

khác với số lượng từ 50 tài khoản đến dưới 200 tài khoản; có tổ chức; có tính chất

chuyên nghiệp; thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; tái phạm

nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 100 triệu đồng đến

200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua

bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác

với số lượng 200 tài khoản trở lên; thu lợi bất chính 200 triệu đồng trở lên thì

người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu

đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung

đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng,

cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01

năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

3.2.2.8. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội sử dụng trái phép tần số

vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu

nạn, quốc phòng, an ninh

TNHS đặt ra đối với người phạm tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện

dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc

phòng, an ninh (Điều 293 BLHS) gồm 02 khung hình phạt chính theo mức độ

tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi sử dụng trái phép

tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu

hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh vào mục đích khác gây thiệt hại từ 200 triệu

đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành

vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Trong các trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50

triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo và cũng là mức cao nhất, trong trường hợp phạm

tội có tổ chức; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm thì người

phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Đáng chú ý, BLHS năm 2015 không quy định về hình phạt bổ sung đối với

99

người phạm tội này.

3.2.2.9. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây nhiễu có hại TNHS đặt ra đối với người phạm tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294 BLHS) gồm 02 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.

Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi cố ý gây nhiễu có hại, cản trở hoạt động bình thường của hệ thống thông tin vô tuyến điện gây thiệt hại từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong các trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Ở mức tăng nặng tiếp theo và cũng là mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Tương tự như đối với Điều 293, BLHS năm 2015 cũng không quy định về

hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cố ý gây nhiễu có hại này.

Tóm lại, qua nghiên cứu TNHS đối với các tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS hiện hành cho thấy, chính sách hình sự thể hiện trong quy định của BLHS cơ bản đã phân hóa rõ nét TNHS, cá thể hóa chi tiết TNHS đối với người phạm tội, thông qua các hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác, cơ bản phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và yêu cầu đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta hiện nay.

3.3. Thực tiễn áp dụng quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam (từ năm 2013 đến 6/2024)

100

Thời gian qua, sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, MVT đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội ở nước ta; song nó cũng làm phát sinh các loại tội phạm trong lĩnh vực này. Hiện nay, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đang tiếp tục gia tăng và có những diễn biến phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Các đối tượng phạm tội thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn, gây ra nhiều khó khăn trong việc phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2013 - 6/2024, cả nước xét xử 884 vụ án, với 1.787 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Bảng 3.1. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT ở nước ta từ năm 2013 đến 6/2024

Số bị cáo

Năm

Chiếm tỷ lệ (%)

Tổng số bị cáo bị xét xử

Chiếm tỷ lệ (%)

2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 6/2024 Tổng

Số vụ án Tổng số vụ án hình sự đưa ra xét xử 67.779 64.321 61.158 60.343 58.312 58.587 62.514 64.086 66.601 69.095 76.454 38.023 747.273

17 47 70 85 63 49 44 42 84 104 175 104 884

0,02 0,7 0,11 0,14 0,11 0,08 0,07 0,07 0,13 0,15 0,23 0,27 1,12

51 135 139 202 118 87 68 76 135 205 374 197 1.787

119.889 115.349 107.241 100.494 95.995 98.508 104.180 110.581 115.605 128.375 142.129 71.537 1.309.883

0,04 0,12 0,13 0,20 0,12 0,09 0,07 0,07 0,12 0,16 0,26 0,27 0,14

(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)

3.3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích

3.3.1.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt

Trong áp dụng TNHS thì áp dụng hình phạt là hình thức nổi bật nhất, là minh

chứng rõ nét cho hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,

MVT phải gánh chịu do việc họ đã thực hiện hành vi phạm tội này, việc phân tích,

làm rõ thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

có tác dụng quan trọng trong việc góp phần hoàn thiện chính sách hình sự để có

những kiến nghị, hoàn thiện PLHS hiện hành.

Kết quả áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT của

các Tòa án trong cả nước còn được thể hiện trong các quy định về tội danh cụ

thể. Trong đó, giai đoạn từ năm 2013 - 2017 và giai đoạn từ năm 2018 - 6/2024

101

cũng có sự khác biệt.

Bảng 3.2. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo từng Điều luật giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024

* Giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017 (theo BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ

2013

2014

2015

2016

2017

sung năm 2009)): Năm

Vụ

0

0

0

0

0

Điều 224

Bị cáo

0

0

0

0

0

Vụ

0

0

1

1

0

Điều 225

Bị cáo

0

0

1

2

0

Vụ

2

8

12

10

7

Điều 226

Bị cáo

9

21

19

17

10

Vụ

1

1

1

1

5

Điều 226a

Bị cáo

2

2

1

2

16

Vụ

14

38

56

73

51

Điều 226b

Bị cáo

40

112

118

181

92

17

47

Vụ

70

85

63

Tổng

51

135

Bị cáo

139

202

118

(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Toà án nhân dân tối cao) * Giai đoạn từ năm 2018 đến 6/2024 (kể từ khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2017) có hiệu lực):

Năm

2018 2019 2020

2021

2022

2023

6/2024

1

1

Vụ

0

0

Điều 285

2

0

2

2

3

Bị cáo

0

0

8

1

9

Vụ

1

0

Điều 286

0

0

0

0

0

Bị cáo

1

0

0

0

0

0

0

1

1

Vụ

0

0

Điều 287

0

1

1

1

1

Bị cáo

0

0

0

1

1

Vụ

3

4

Điều 288

0

0

1

5

9

Bị cáo

3

6

0

0

1

20

38

5

1

Vụ

1

10

Điều 289

6

7

13

7

1

Bị cáo

1

19

11

14

25

Vụ

64

42

44

48

Điều 290

67

80

109

Bị cáo

104

77

68

95

199

104

140

102

Vụ

1

26

Điều 291

0

0

8

11

41

Bị cáo

1

66

0

0

11

29

102

Vụ

0

0

Điều 293

0

0

0

0

0

Bị cáo

0

0

0

0

0

0

0

Vụ

0

Điều 294

0

0

0

0

0

0

Bị cáo

0

0

0

0

0

0

0

Tổng

Vụ

49

47

53

104

84

104

175

Bị cáo

87

73

100

195

135

205

374

(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Toà án nhân dân tối cao) Qua bảng số liệu này cho thấy một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bị xét xử nhiều là: tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện việc chiếm đoạt tài sản (Điều 226b BLHS năm 1999 và Điều 290 BLHS năm 2015), tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 226a BLHS năm 1999 và Điều 289 BLHS năm 2015), tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 226 BLHS năm 1999 và Điều 288 BLHS năm 2015). Ngược lại, một số tội phạm dù đã có quy định song chưa được áp dụng hoặc ít khi được áp dụng như: Điều 224 BLHS năm 1999, Điều 286, Điều 291, Điều 293, Điều 294 BLHS năm 2015. Các điều luật còn lại như Điều 225 BLHS năm 1999, Điều 285, Điều 287 BLHS năm 2015 cũng ít khi được áp dụng. a. Áp dụng hình phạt chính Hình phạt tiền: Đây là hình phạt chính, được quy định ở 08/09 tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 88,89%). Theo số liệu thống kê, từ 2013 - 6/2024, số bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp dụng loại hình phạt tiền là hình phạt chính là 103/1.787 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,76%). Trung bình mỗi năm, Tòa án các cấp áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với khoảng 09 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Hình phạt cải tạo không giam giữ: Như đã phân tích ở phần trên, hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định ở 07/09 tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 77,78%). Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2013 - 6/2024, số bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp dụng loại hình phạt cải tạo không giam giữ so với tổng số bị cáo phạm tội bị xét xử về các tội này là 58/1.787 bị cáo (chiếm tỷ lệ 3,25%). Bình quân mỗi năm, Tòa án các cấp áp dụng hình phạt này đối với khoảng 05 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Số bị cáo bị áp dụng cải tạo không giam giữ nhiều nhất là về tội sử dụng 103

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290), với 31/58 bị cáo (chiếm 53,45%) và Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288) với 12/58 bị cáo (chiếm 20,69%). Việc quyết định áp dụng loại hình phạt này chiếm tỷ lệ như trên là rất nhỏ so với các loại hình phạt khác trong cùng các loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là vì PLHS quy định chặt chẽ về điều kiện để áp dụng: theo đó, Tòa án chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội (khoản 1, Điều 36, BLHS hiện hành).

Hình phạt tù có thời hạn: Hình phạt này được quy định ở 09/09 tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 100%), với mức phạt tù thấp nhất là 03 tháng và mức phạt tù cao nhất là 20 năm. Thực tiễn xét xử, áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chứng tỏ: hình phạt tù có thời hạn là hình phạt được áp dụng nhiều nhất đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong đó, mức hình phạt từ 03 năm trở xuống chiếm tỷ lệ cao (chiếm 39,89% tổng số bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian từ năm 2013 đến 6/2024). Trong số đó thì có tới 65,84% số bị cáo được cho hưởng án treo. Số bị cáo bị phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm chiếm 24,41%, còn lại, bị cáo bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm là 21,72%, phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm là 2,56%.

Bảng 3.3. Tình hình áp dụng loại hình phạt chính và mức hình phạt chính đối

với bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm

2013 đến 6/2024

TT

Hình phạt chính

103

Số bị cáo Bị cáo được hưởng án treo

Tổng số bị cáo được hưởng án treo (tất cả các tội phạm)

Chiếm tỷ lệ (%)

Phạt tiền Cải tạo không giam giữ

1 2

58

Trục xuất

3

0

Tù từ 3 năm trở xuống

370

238.867

0,15

4

562

Tù trên 3 - 7 năm

5

344

Tù từ trên 7 - 15 năm

6

306

7

36

Tù từ trên 15 năm đến 20 năm

Tổng

1.409

104

(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)

Từ số liệu thực tiễn và biểu đồ minh họa nêu trên cho thấy việc xét xử quyết

định cho bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được hưởng án treo còn

chiếm tỷ lệ lớn, trong khi mức hình phạt tù có phần thấp… Điều này cho thấy việc

quyết định áp dụng TNHS đối với tội phạm này chưa thực sự thể hiện được tính

trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước trong việc đấu tranh, xử lý tội phạm xâm

phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói chung và tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT nói riêng.

b. Áp dụng hình phạt bổ sung

Theo số liệu tổng hợp từ Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao, đặc biệt là

thông qua Báo cáo công tác hằng năm trong giai đoạn 2013 - 6/2024 của ngành Tòa

án cho thấy: có 55 bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung (khi không

áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính) trong tổng số 63 bị cáo bị áp dụng hình

phạt bổ sung đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chiếm tỷ lệ 87,31%.

Con số này cũng cho thấy phạt tiền là hình phạt bổ sung được quyết định áp dụng

tương đối nhiều, đã phần nào phát huy tác dụng, hiệu quả của hình phạt tiền trong

xử lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm

2017 - 2020, xu hướng áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung có sự tăng cao, phù

105

hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn đó.

Bảng 3.4. Tình hình áp dụng loại hình phạt bổ sung đối với bị cáo bị xét xử về tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024

TT

Hình phạt bổ sung

Số bị cáo Tổng số bị cáo bị

Tỷ lệ (%)

áp dụng hình

phạt bổ sung

Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

1

63

1,58

1

Phạt tiền

55

63

87,31

2

2

63

3

Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

3,17

Trục xuất

5

63

7,94

4

(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)

Qua bảng số liệu và biểu đồ minh họa trên cho thấy, các hình phạt bổ sung

được áp dụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chủ yếu là hình

phạt tiền, còn lại hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm

nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và trục xuất thì

được áp dụng rất ít, lần lượt chỉ chiếm 1,58%, 3,17% và 7,94% trong tổng số bị

cáo bị áp dụng hình phạt bổ sung. Trong đó:

- Đối với hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản: Trên thực tế,

dường như các Tòa án đã quyết định áp dụng hình phạt tiền để góp phần khắc

phục hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra, có tâm lý cho rằng phạt tiền khi

không áp dụng là hình phạt chính sẽ thay thế hình phạt bổ sung là tịch thu một

phần hoặc toàn bộ tài sản, vừa thể hiện tính răn đe, vừa thể hiện tinh thần nhân

đạo trong quyết định hình phạt của Nhà nước đối với bị cáo phạm tội trong lĩnh

vực CNTT, MVT.

106

- Đối với hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định: Thời gian bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm

công việc trong lĩnh vực liên quan đến CNTT, MVT chủ yếu là từ 02 đến 05 năm.

3.3.1.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp và án tích

a. Áp dụng các biện pháp tư pháp

Các biện pháp tư pháp là một trong những hình thức thể hiện của TNHS bên

cạnh hình thức nổi bật là hình phạt. So với hình phạt thì tính chất cưỡng chế về hình

sự của biện pháp tư pháp ít nghiêm khắc hơn. Trên thực tế hiện nay, chưa có thống

kê của cơ quan chức năng về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với các bị cáo

phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Do vậy, việc tiếp cận vấn đề này của

Nghiên cứu sinh rất khó khăn. Trên cơ sở thực hiện phương pháp nghiên cứu

điển hình các bản án của Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT trên địa bàn cả nước giai đoạn từ 2013 - 6/2024 (xem phụ

lục 5), rút ra một số kết quả như sau:

- Đối với biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm: Qua

thống kê các bản án điển hình, việc tịch thu tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm

để sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu vật liên quan đến tội phạm để tiêu

hủy chủ yếu được áp dụng đối với tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290

BLHS) với 28/70 vụ, chiếm 40%; còn lại đối với tội “Sử dụng trái phép thông tin

mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS) chiếm tỷ lệ ít hơn (03/70

vụ, chiếm 4,29%) và tội “Mua bán phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp

luật” (Điều 285 BLHS) chỉ có 01/70 vụ (chiếm 1,43%).

- Đối với biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc

công khai xin lỗi: Qua nghiên cứu có 13/70 vụ án có áp dụng biện pháp tư pháp

bồi thường thiệt hại (chiếm 18,57%), chủ yếu đối với tội “Sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”

(Điều 290 BLHS) và “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn

thông” (Điều 288 BLHS). Bên cạnh đó, trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại

về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai

xin lỗi người bị hại. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít khi áp dụng biện pháp buộc công

khai xin lỗi. Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, cần bắt buộc người phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT phải công khai xin lỗi không những trước cơ quan, tổ

chức, cá nhân bị thiệt hại mà còn trước Nhà nước và pháp luật.

107

Qua nghiên cứu các bản án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có áp

dụng các biện pháp tư pháp nêu trên, chưa thấy có tồn tại lớn trong quá trình áp

dụng. Nhưng qua thực tiễn cũng phản ánh việc áp dụng các biện pháp tư pháp

nhằm mục đích hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt áp dụng đối với người phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT chưa thực sự được chú trọng, vẫn có tư tưởng nặng

về áp dụng hình phạt, do vậy chưa phát huy tính hiệu quả trong thực tế xử lý tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

b. Áp dụng án tích

Án tích là một trong những hậu quả pháp lý bất lợi mà người bị kết án về

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu do việc người đó đã phạm

tội này và bị kết án. Như phần trên đã phân tích, đây cũng là hậu quả pháp lý sau

cùng của việc phạm tội. Hiện nay, chưa có thống kê chính thức về thực tiễn áp

dụng án tích và xóa án tích đối với người bị kết án về các tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT trên cả nước. Tuy nhiên, qua trao đổi thực tiễn, việc áp dụng

quy định về án tích đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT dường như

chưa có vấn đề vướng mắc, bất cập lớn. Theo đó, người bị kết án về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT được xóa án tích theo quy định tại các điều 69, 70,

72 và 73 của BLHS hiện hành. Khi đã được xóa án tích thì người đó coi như

chưa bị kết án.

3.3.2. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn

chế trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

3.3.2.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự

Trong thời gian qua, có thể khẳng định việc áp dụng TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta cơ bản là đúng đắn so với quy định của

PLHS. Tòa án các cấp đã xem xét, đánh giá, cân nhắc cụ thể tính chất, mức độ của

tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án để quyết định

thực hiện TNHS phù hợp với người phạm tội. Các bản án, quyết định của Tòa án đã

tuyên nhìn chung là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các nguyên tắc

của TNHS đối với tội phạm này.

Quá trình xem xét, quyết định áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và các biện

pháp tác động hình sự khác đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, Tòa

án luôn chú trọng việc khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra, bảo đảm quyền, lợi ích

hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Đồng thời chú trọng

việc giáo dục người phạm tội nhận thức sai lầm, ăn năn hối cải và cải tạo để trở thành

108

đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

người có ích cho xã hội, thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của nước ta. Việc quy

định và đảm bảo áp dụng tốt các quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền

con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong đó có cả

quyền và lợi ích của chính người phạm tội này, góp phần xây dựng Nhà nước pháp

quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đẩy mạnh công tác đấu tranh

phòng, chống tội phạm nói chung, phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT nói riêng vốn đang có sự diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay. Đồng thời

tạo được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận, củng cố niềm tin của Nhân dân vào công lý, công bằng, kỷ cương và sự phát triển trong xã hội.

3.3.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT trong thời gian qua (từ năm 2013 đến 6/2024), bên cạnh những kết

quả tích cực đã đạt được, có thể thấy còn có những hạn chế trong áp dụng như sau:

Một là, còn xảy ra tình trạng nhầm lẫn về định tội danh khi xét xử đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT với các loại tội phạm “truyền thống”

rất dễ bị nhầm lẫn với nhau nếu không nghiên cứu, đánh giá và phân biệt rạch

ròi, nhất là đối với dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của cấu thành tội

phạm. Trong đó, nổi bật phải kể đến là việc nhầm lẫn giữa tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

(Điều 290) với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) hoặc tội trộm cắp tài

sản (Điều 173) của BLHS năm 2015.

Ví dụ: Trần Hoàng N và Ngải Seo Ng là bạn làm chung tại Công ty K.Bang

Việt Nam. Quá trình làm việc, cả hai ở lại Công ty theo hình thức “ba tại chỗ”, N

nhiều lần được Ng nhờ cài đặt các ứng dụng trên điện thoại của Ng. Từ đó, N đã

biết được mật khẩu điện thoại của Ng và biết Ng có nhiều tiền trong tài khoản

ngân hàng nên nảy sinh và đã thực hiện ý định chiếm đoạt tiền tiêu xài của Ng. Cụ

thể: Ngày 18/10/2021, Ng đưa điện thoại cho N để khai báo y tế hộ. N lấy điện

thoại mở máy rồi vào ứng dụng ví điện tử MoMo sau đó nhập mật khẩu của ứng

dụng (mật khẩu này do N nhìn thấy Ng đã từng nhập trước đó) rồi chuyển tiền từ

tài khoản của Ng vào số tài khoản 15716207 mang tên “TRAN PHU S” số tiền 5

triệu đồng. N đã ngay lập tức xóa tin nhắn báo số dư còn lại trong tài khoản của

Ng và nói với Ng là không khai báo y tế được. Đến ngày 20/10/2021, N mượn 109

điện thoại của Ng và tiếp tục sử dụng để chuyển tiền như lần trước vào số tài

khoản 1014415654 mang tên “HOANG VAN T” số tiền 19 triệu đồng. Sau đó, N

thực hiện rút tiền từ 02 tài khoản này chuyển về tài khoản của N để chiếm đoạt số

tiền 24 triệu đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 89/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án

nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định: “bị cáo đã lén lút lấy tài

sản của người khác” và “hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài

sản của công dân” nên định tội của bị cáo N là “Trộm cắp tài sản” (Điều 173

BLHS). Sau đó, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã kháng nghị phúc

thẩm đối với một phần bản án hình sự sơ thẩm nêu trên. Tại bản án hình sự phúc

thẩm số 05/2023/HS-PT ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương

nhận định: bị cáo đã thực hiện hành vi “truy cập bất hợp pháp vào tài khoản cá

nhân (tài khoản ví điện tử) của bị hại” và hành vi “chiếm đoạt 24 triệu đồng của

bị hại”. 02 hành vi này tác động đến hai đối tượng tác động khác nhau là tài khoản

cá nhân và tiền; xâm phạm cùng lúc đến 02 khách thể, đó là: an toàn thông tin tài

khoản cá nhân và quyền sở hữu tài sản nên xác định tội danh của N là “Sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS).

Hay như một ví dụ khác: Từ tháng 6/2020, trên mạng xã hội, Hoàng Hữu A,

sinh năm 1996, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T sử dụng tài khoản facebook có tên

“Quậy Harold”, vào các nhóm của cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, lao

động tại nước ngoài, gửi lời kết bạn đến các thành viên trong nhóm. Sau khi kết

bạn, A vào trang cá nhân của họ tìm kiếm thông tin cá nhân (họ tên, ngày, tháng,

năm sinh) để dò tìm mật khẩu. Khi tìm được mật khẩu, A thay đổi mật khẩu và

chiếm đoạt quyền sử dụng các tài khoản facebook này, đồng thời vào danh sách

bạn bè của họ, xem nội dung, lịch sử tin nhắn trong mục Messenger để mạo danh

nhắn tin đề nghị họ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của mình, với lý do cần

tiền để giải quyết công việc hoặc các lý do khẩn cấp khác, rồi chiếm đoạt. A đã

chiếm đoạt được tài khoản facebook “Van H Nguyen” của anh Nguyễn Văn H, là

người tỉnh B, đang làm việc tại Đức. A đã sử dụng tài khoản facebook này, mạo

danh anh H, nhắn tin bằng ứng dụng Messenger cho tài khoản “H Nước” của anh

Lê Thanh H (sinh năm 1974, trú tại phường Đ, thành phố H) và tài khoản

facebook “Nguyễn Thị D” của chị Nguyễn Thị D (sinh năm 1971, trú tại huyện Q,

110

tỉnh B), đề nghị anh H và chị D chuyển tiền sau đó chiếm đoạt. Tổng số tiền A đã

chiếm đoạt là 109,5 triệu đồng, trong đó của chị Nguyễn Thị D là 37,5 triệu đồng

và của anh Lê Thanh H là 72 triệu đồng.

Trong vụ án này, Hoàng Hữu A bị xét xử về “Tội sử dụng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, theo điểm

đ khoản 2 Điều 290 BLHS hiện hành. Về vụ án này, Nghiên cứu sinh nhận thấy

một số vấn đề về định tội danh như sau:

Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các công cụ phạm tội như sử dụng máy

tính, mạng viễn thông, mạng internet và thiết bị số theo quy định tại Điều 290

BLHS năm 2015 thể hiện ở một số dạng sau: (1) Sử dụng thông tin về tài khoản,

thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài

khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; (2) Làm, tàng trữ, mua bán, sử

dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ

thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; (3) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản

của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; (4) Lừa đảo trong thương

mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa

cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; (5) Thiết

lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.

Do đó, nếu một hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm không

thuộc một trong các hành vi trên thì không thể xét xử người đó về “Tội sử dụng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản” theo Điều 290 BLHS hiện hành được. Trong vụ án này, dấu hiệu thuộc hành

vi khách quan của các bị cáo bị xét xử về “Tội sử dụng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” là không thỏa

mãn bất cứ hành vi nào trong 05 loại hành vi khách quan theo quy định tại Điều

290 BLHS nêu trên. Ở đây, hành vi tìm được, lấy được mật khẩu để chiếm đoạt tài

khoản facebook của người khác, sau đó tiếp tục lừa đảo chiếm đoạt tài sản của

người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt không phải

là hành vi được quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 290 BLHS hiện hành.

Thực chất ở đây đã có sự nhầm lẫn, cụ thể thuật ngữ “tài khoản” quy định tại Điều

290 BLHS năm 2015 là nói đến tài khoản về tiền được đăng ký ở các tổ chức tín

dụng, nghĩa là khi xảy ra việc sử dụng thông tin về tài khoản, truy cập bất hợp

pháp vào tài khoản là ngay sau đó có thể chiếm đoạt được tiền, tài sản; còn “tài

khoản facebook” không liên quan gì đến tiền, tài sản. Việc chiếm đoạt được tài

111

khoản facebook của người khác thực chất chỉ là việc có được mật khẩu facebook

của họ, nên có được những thông tin và đăng được những thông tin trên đó, đồng

thời, thay đổi mật khẩu để người chủ tài khoản facebook ban đầu không vào được

facebook của họ nữa. Việc chiếm đoạt facebook không liên quan gì đến việc chiếm

đoạt tiền, tài sản. Muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác, người chiếm đoạt tài

khoản facebook phải có thêm hành vi khác, đó là: giả danh người chủ tài khoản

facebook để liên hệ với bạn bè, người thân của họ, từ đó yêu cầu những người này

chuyển tiền vào một tài khoản ngân hàng nào đó mà người đã chiếm đoạt tài khoản

facebook đang quản lý để chiếm đoạt khi tiền được chuyển đến. Như vậy, hành vi

chiếm đoạt tài khoản facebook, sau đó lừa những người thân quen của những người

có tài khoản facebook bị chiếm đoạt để chiếm đoạt tài sản của họ cũng không phải là

hành vi được quy định tại 03 điểm còn lại là: b, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS hiện

hành. Theo đó, việc xét xử các bị cáo trong vụ án này về “Tội sử dụng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, theo

Điều 290 BLHS năm 2015 là không thỏa đáng [52]. Theo Nghiên cứu sinh, trường

hợp vụ án này, Tòa án phải xét xử các bị cáo về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

(Điều 174 BLHS năm 2015).

Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy các cơ quan chức năng còn gặp khó khăn

trong việc phân hóa tội phạm, xác định tội danh giữa Điều 285, Điều 286 BLHS

hiện hành. Trong đó, Điều 285 quy định: "Người nào sản xuất, mua bán, trao đổi

hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử…" và Điều 286 BLHS quy định: "Người nào

cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử…". Với quy định tại 02 điều luật trên, chúng ta nhận thấy:

Đầu tiên, xem xét về mặt khái niệm: "Phát tán" là hành vi truyền đi các

thông tin, tài liệu, đồ vật, hình ảnh, âm thanh… bằng các hình thức khác nhau

cho nhiều người biết. Như vậy, với quy định "sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc

tặng cho" cũng là một phương thức để phát tán. Nhưng điểm khác biệt ở hai điều

luật này là: Hành vi quy định tại Điều 285 có thể gây hại hoặc không gây hại cho

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử và dấu hiệu mục đích của

hành vi là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm, còn hành vi quy định tại

Điều 286 phải gây nguy hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thì mới đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

Tiếp theo, xem xét quy định về "Chương trình tin học" và "Phần mềm":

112

"Chương trình tin học" là một chuỗi các lệnh, được viết để thực hiện một nhiệm

vụ nhất định trên máy tính. "Phần mềm" là chương trình máy tính được mô tả

bằng hệ thống ký hiệu, mã hoặc ngôn ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện

chức năng nhất định. Điều này trái ngược với phần cứng vật lý, từ đó hệ thống

được xây dựng và thực sự thực hiện công việc. Trong khoa học máy tính và kỹ

thuật phần mềm, phần mềm máy tính là tất cả thông tin được xử lý bởi hệ thống

máy tính, chương trình và dữ liệu. Phần mềm máy tính bao gồm các chương

trình máy tính, thư viện và dữ liệu không thể thực thi liên quan, chẳng hạn như

tài liệu trực tuyến hoặc phương tiện kỹ thuật số.

Như vậy, một phần mềm cần phải có một hoặc nhiều chương trình tin học, có

nghĩa là, phần mềm sẽ chứa đựng chương trình tin học. Trên thực tế rất khó xác

định đâu là phần mềm và đâu là chương trình tin học một cách đơn thuần mà cần

phải có chuyên gia xem xét, đánh giá. Bởi lẽ, một hành vi phạm tội nếu phát tán

(bao hàm cả việc sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho) chương trình tin học

chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 286 BLHS vì không gây hại

(như đã phân tích trên) nhưng thỏa mãn các quy định tại Điều 285 BLHS thì có truy

tố theo tội danh này không vì Điều 285 BLHS quy định là "…phần mềm…".

Hơn nữa, nếu hành vi phát tán có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại

Điều 286 BLHS, nhưng điều luật này quy định hậu quả là yếu tố bắt buộc, còn

Điều 285 BLHS thì hậu quả là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự,

trong khi đó mức hình phạt ở hai tội danh này khác nhau. Vậy một hành vi vừa

thỏa mãn cấu thành tội phạm theo Điều 286, vừa thỏa mãn cấu thành tội phạm và

tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 285 thì áp dụng điều luật nào để

xử lý là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi và khó xác định.

Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi rao bán chương trình theo dõi tin nhắn

trên mạng xã hội, đánh cắp dữ liệu, thông tin, thay đổi cài đặt máy tính, chiếm

đoạt điều khiển của đối phương khi đã cài đặt chương trình này vào máy và máy

tính có kết nối internet. Sau một thời gian rao bán và giao dịch, khi phát hiện A

đã thu lợi bất chính từ hành vi này là 50 triệu đồng. Như vậy, hành vi của A thỏa

mãn quy định tại Điều 286 BLHS, nhưng khi đánh giá, các chuyên gia cho rằng,

chương trình tin học mà A phát tán là một phần mềm, mà phần mềm đó có tính

năng tấn công máy tính đối phương khi đã cài đặt, vậy hành vi A thỏa mãn cấu

thành quy định tại khoản 2 Điều 285 BLHS. Điều này cũng còn gây tranh cãi

113

chưa thống nhất.

Hai là, việc Tòa án quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT còn chưa đúng, chưa thống nhất

Trong quá trình xét xử vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, Tòa

án một số nơi đã có sự nhầm lẫn và chưa thống nhất về việc áp dụng hình phạt

đối với tội phạm này, nhất là đối với các căn cứ quyết định hình phạt và quyết

định hình phạt cụ thể, đó là:

- Đối với tình tiết “Phạm tội nhiều lần” (theo BLHS năm 1999) hoặc “phạm

tội từ 02 lần trở lên” (theo BLHS năm 2015). Qua các bản án Nghiên cứu sinh đã

nghiên cứu cho thấy còn một số bản án áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm

tội nhiều lần” hoặc “phạm tội từ 02 lần trở lên” không đúng pháp luật. Có vụ án

người phạm tội đã thực hiện tội phạm rất nhiều lần trong thời gian dài, đối với

nhiều nạn nhân khác nhau nhưng Tòa án nhân dân lại không áp dụng tình tiết

tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần”. Ví dụ: từ tháng 12/2012 đến tháng

4/2015, Đ đã bán phần mềm theo dõi điện thoại cho khách hàng, đồng thời hỗ trợ

cài đặt phần mềm đó vào điện thoại của khách hàng, với tổng số 87 lượt khách

hàng mua và cài đặt phần mềm. Nhưng bản án số 361/2017/HS-PT ngày

20/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn không

áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần” này là không đúng pháp

luật. Trong khi có nhiều bản án đã áp dụng đúng pháp luật đối với tình tiết này.

Ví dụ: P là nhân viên của Công ty Bảo Nam, do bị cho nghỉ việc nên P cảm thấy

rất bực, P đã nhiều lần xâm nhập vào trang mạng của công ty để phá hoại gây

thiệt hại cho công ty gần 09 triệu đồng. Hành vi của P đã bị Tòa án nhân dân

huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh kết án phạm tội truy cập bất hợp pháp

vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của người

khác (Điều 226a BLHS năm 1999) và áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS là

“phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 [44].

- Đối với tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu” thuộc khoản 2 Điều

46 BLHS năm 1999 cũng có bản án áp dụng sai. Ví dụ: Bị cáo phạm tội sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản (Điều 226b) 04 lần với 04 nạn nhân khác nhau vào ngày 08/9/2016,

29/9/2016, 03/10/2016 và đầu tháng 10/2016. Tuy nhiên, trong bản án số

26/2017/HSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh,

Tòa án đã nhận định “bị cáo phạm tội lần đầu,... đây không phải là tình tiết

114

giảm nhẹ nhưng cũng cần thiết xem xét khi lượng hình phù hợp với quy định

của khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999”. Việc nhận định và áp dụng tình tiết

“phạm tội lần đầu” trong trường hợp này theo Nghiên cứu sinh là không đúng.

Bởi lẽ, bị cáo đã 04 lần phạm tội này với 04 nạn nhân khác nhau vào các mốc

thời gian nêu trên (hành vi phạm tội lặp đi lặp lại tương tự). Điều đó đã được giải

thích tại Văn bản giải đáp nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017

của Tòa án nhân dân tối cao: Nếu trước đó đã phạm tội và chưa bị kết án, chưa

hết thời hiệu truy cứu TNHS, nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau

thì không được coi là phạm tội lần đầu [44].

- Một số bản án áp dụng Điều 47 (Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định

của BLHS) không đúng, do không áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội

nhiều lần” hoặc “phạm tội từ 02 lần trở lên”, đồng thời lại áp dụng sai tình tiết

giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 48 BLHS năm 1999. Ví dụ: Tại bản án số

361/2017/HS-PT ngày 20/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ

Chí Minh, bị cáo Đ có hành vi bán phần mềm theo dõi điện thoại cho khách

hàng, đồng thời hỗ trợ cài đặt phần mềm đó vào điện thoại của khách hàng trong

suốt thời gian từ tháng 12/2012 đến tháng 4/2015, với tổng cộng 87 lượt khách

hàng mua và cài đặt phần mềm. Bị cáo bị kết tội “Truy cập bất hợp pháp vào

mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của người

khác”, áp dụng điểm c khoản 3 Điều 226a; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47

của BLHS năm 1999. Như vậy, vì có 02 tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết

tăng nặng TNHS nên Hội đồng xét xử đã áp dụng Điều 47 của BLHS năm 1999.

Tuy nhiên, bản án đã có phần sai sót khi không áp dụng tình tiết tăng nặng

TNHS là “phạm tội nhiều lần” (87 lượt khách hàng đã mua và cài đặt phần

mềm), dẫn đến áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 là không phù hợp. Vì nếu có

02 tình tiết giảm nhẹ TNHS và 01 tình tiết tăng nặng TNHS thì sẽ không thể áp

dụng Điều 47 BLHS năm 1999 [44].

Bên cạnh đó, còn trường hợp áp dụng không đúng tinh thần của Điều 47

BLHS năm 1999, cụ thể: Theo điểm c khoản 10 Nghị quyết số 01/2000/NQ-

HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng

dẫn áp dụng một số quy định phần chung BLHS năm 1999, những trường hợp

nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo bị xử phạt ở mức cao của khung

hình phạt, thì (khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ) Tòa án nhân dân có thể quyết định

một hình phạt ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử, không thể áp

115

dụng hình phạt ở dưới khung. Nhưng một số bản án đã không áp dụng đúng tinh

thần này. Ví dụ: Trong bản án số 41/2017/HSST ngày 27/12/2017 của Tòa án

nhân dân tỉnh Quảng Trị, bị cáo D phạm tội “sử dụng mạng internet thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản” 03 lần với 03 nạn nhân khác nhau, tổng giá trị tài sản

mà D chiếm đoạt được là 274 triệu đồng. D bị Tòa án quyết định áp dụng điểm a

khoản 3 Điều 226b BLHS năm 1999, với khung hình phạt từ 7 đến 15 năm đối

với trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đến dưới 500 triệu. Bị

cáo D có 2 tình tiết giảm nhẹ và 01 tình tiết tăng nặng TNHS nhưng Tòa án vẫn

áp dụng Điều 47 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình

phạt là 03 năm tù. Việc áp dụng Điều 47 trong trường hợp này là không phù hợp

vì D tuy có 02 tình tiết giảm nhẹ nhưng lại có 01 tình tiết tăng nặng TNHS

(phạm tội nhiều lần, với nhiều nạn nhân khác nhau). Ngoài ra, số tiền mà D

chiếm đoạt được là 274 triệu đồng, đây là con số ở mức cao của khung hình phạt

tại điểm a khoản 3 Điều 226b BLHS năm 1999 [44].

Ba là, còn hạn chế trong việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt đối

với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT ở những vụ án đồng phạm

Quá trình khi áp dụng TNHS đối với người phạm tội nói chung, người

phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng ở những vụ án có đồng phạm,

Tòa án cần làm tốt việc phân hóa TNHS, quyết định hình phạt đối với từng loại

người cho phù hợp, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành

vi, vai trò và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo, nhân thân và các tình

tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với từng bị cáo. Song trên thực tế, có những

vụ việc, Tòa án khi xét xử đã chưa thực hiện tốt việc này. Ví dụ: Tòa án cấp sơ

thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Quốc V, Vũ Ngọc T về tội “Sử dụng mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

sản” (điểm a khoản 4 Điều 290 BLHS năm 2015). Đây là vụ án đồng phạm,

trong đó bị cáo Nguyễn Quốc V đóng vai trò chính, là người khởi xướng kế

hoạch chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Trong khi bị cáo Vũ Ngọc T chỉ là người

bị V rủ rê, lôi kéo, sau khi V và T đã thống nhất được phương thức chiếm đoạt

tài sản, để tránh bị phát hiện. Ở đây, T chỉ tham gia giúp sức cho V thực hiện tội

phạm và việc rút tiền chỉ được thực hiện sau khi tội phạm đã hoàn thành và theo

yêu cầu của V. Bị cáo T chỉ được hưởng lợi một số tiền nhỏ trong tổng số tiền

mà V chiếm đoạt được (619,5 triệu đồng/44 tỷ 423 triệu đồng). Tòa án đã xử

phạt 02 bị cáo này mức án như nhau là 07 năm tù. Cho đến khi T kháng cáo, Tòa

116

án cấp phúc thẩm đã phải nhận định: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo

Vũ Ngọc T là có phần nghiêm khắc, chưa cá thể hóa hình phạt và chưa phân hóa

vai trò chủ mưu, cầm đầu và vai trò đồng phạm giúp sức của các bị cáo trong

cùng vụ án. Từ đó quyết định giảm mức án phạt đối với Vũ Ngọc T còn 05 năm

tù về tội danh nêu trên (Bản án số 253/HS-PT ngày 21/6/2021 của Tòa án nhân

dân cấp cao tại Hà Nội).

Bốn là, chưa có sự đồng bộ trong việc quyết định cho người phạm tội trong

lĩnh vực CNTT, MVT được hưởng án treo

Trong giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024, quá trình xét xử, Tòa án nhân dân

các cấp đã cho các bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được hưởng án treo

nhiều, chiếm tới hơn 20,71% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội phạm này. Điều

đáng nói là việc áp dụng cho hưởng án treo lại không thống nhất: có trường hợp tội

nặng lại cho hưởng án treo, ngược lại có trường hợp tội nhẹ vẫn phải chấp hành án

phạt tù. Trường hợp phạm tội nặng song vẫn được hưởng án treo, đó là: bị cáo D

phạm tội “sử dụng mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” chiếm đoạt

274 triệu của 03 người khác nhau, bị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 226b BLHS

năm 1999, bị phạt 03 năm tù và cho hưởng án treo (Bản án số 41/2017/HSST ngày

27/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị). Trong khi đó, bị cáo H cũng

phạm tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện

hành vi chiếm đoạt” của 01 nạn nhân, với số tiền chỉ có 2,2 triệu đồng, bị áp dụng

khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 (điều khoản có lợi cho người phạm tội của

BLHS hiện hành so với khoản 1 Điều 226b BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm

2009)), bị cáo H có 03 tình tiết giảm nhẹ, đặc biệt là không có tình tiết tăng nặng

TNHS nào song cũng bị phạt tù giam 6 tháng, không được hưởng án treo (Bản án

số 59/2017/HSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh

Vĩnh Phúc) [44].

Năm là, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,

MVT còn nhẹ, chưa áp dụng nhiều hình phạt bổ sung

Qua nghiên cứu các bản án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian

qua cho thấy: Tòa án nhân dân chủ yếu áp dụng các hình phạt được quy định tại

khoản 1, khoản 2 của các Điều luật về tội phạm này trong BLHS, với hình phạt chủ

yếu được áp dụng như đã phân tích thực trạng số liệu nêu ở phần trên, mà mức phạt

cao nhất đối với bị cáo theo khoản 2 trong các tội phạm này là không quá 07 năm

tù. Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh thì mức hình phạt như vậy khá là nhẹ,

117

chưa tương xứng với tính chất, mức độ thiệt hại và những diễn biến phức tạp, nhức

nhối mà loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã và đang gây ra cho xã hội.

Bên cạnh đó, hình phạt bổ sung cũng ít được Tòa án áp dụng, làm cho hình phạt bổ

sung chưa phát huy được ý nghĩa, mục đích của nó. Trong các hình phạt bổ sung,

thì hình phạt tiền ít được áp dụng (vì hình phạt tiền thường được áp dụng là hình

phạt chính). BLHS năm 2015 quy định nhiều loại hình phạt bổ sung đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhất là hình phạt tiền và tịch thu một phần hoặc

toàn bộ tài sản. Song hình phạt tịch thu tài sản dường như chưa được Tòa án áp

dụng [44]. Theo thống kê cho thấy chỉ có 103/1.787 bị cáo (chiếm 5,76%) bị áp

dụng hình phạt tiền là hình phạt chính và 55/1.787 bị cáo (chiếm 3,08%) bị áp dụng

hình phạt tiền là hình phạt bổ sung khi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tìm

hiểu nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý của các cán bộ cơ quan chức năng ngại tiến

hành việc điều tra, xác minh điều kiện sinh sống, tình trạng kinh tế của bị cáo, dẫn

đến thiếu cơ sở để áp dụng hình phạt bổ sung, nhất là tịch thu tài sản, trong khi Điều

45, BLHS năm 2015 quy định: “Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết

án và gia đình họ có điều kiện sinh sống”.

Sáu là, khi áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn

nhiều trường hợp chứa đựng mâu thuẫn với những quan điểm khác nhau

Trong quá trình tố tụng đối với vụ án phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT,

thực tế giữa Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án còn có quan điểm khác

nhau trong nhiều trường hợp, dẫn đến việc áp dụng TNHS đối với tội phạm này

chưa thống nhất, đồng bộ. Thực trạng được thể hiện thông qua số vụ án mà Tòa

án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung. Theo kết quả thống kê, tỷ lệ

này luôn trong khoảng từ 15% - 20% số vụ án thụ lý về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT (tương đối cao so với các vụ án khác). Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ cho

Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung khi thụ lý các vụ án về tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT gấp 2,0 đến 2,2 lần các vụ án khác. Nhưng điều đáng nói là có

những vụ án khi Tòa án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung nhưng

Viện Kiểm sát lại không nhất trí [44]. Điều đó chứng tỏ quan điểm giải quyết

của các cơ quan tiến hành tố tụng về những trường hợp chung còn chưa thống

nhất, xuất hiện những ý kiến trái chiều nhau.

Ví dụ điển hình như: Trong vụ án Sa Thị H đưa lên mạng các nội dung mang

tính bịa đặt, xúc phạm danh dự, uy tín của tập thể, cá nhân các đồng chí lãnh đạo

huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp ngày 24/7/2021 và 26/7/2021. Xoay quanh việc tổ

118

quản lý đất công của chính quyền địa phương đến kiểm tra, đo đạc phần đất bãi bồi

bị bao chiếm, Sa Thị H đã dùng điện thoại livestream (phát trực tiếp) trên mạng xã

hội và có nhiều lời nói bịa đặt, sai sự thật, xúc phạm danh dự của các tập thể, cá

nhân liên quan (Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hồng N, các thành viên

trong tổ công tác...). Sa Thị H bị truy cứu TNHS về tội “Đưa trái phép thông tin

mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015).

Ở vụ việc khác có tính chất tương tự, đó là vụ án Hoàng Thị S đã đăng tải

các bài viết, video lên Facebook, Youtube với lời lẽ xuyên tạc, phát ngôn không

đúng sự thật, xâm phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của một số cán bộ huyện H,

lý do Hoàng Thị S không đồng tình với kết quả trả lời, giải quyết đơn thư của

các cơ quan, người có thẩm quyền huyện H với nội dung phản ánh của mình xảy

ra ngày 06/02/2023. Trong vụ án này, Tòa án cho rằng bị cáo đã thực hiện hành

vi “đăng tải, phát tán trên mạng xã hội những bài viết không đúng sự thật, có nội

dung tiêu cực, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân” và đã xét xử Hoàng Thị S về tội “Lợi dụng các quyền tự

do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân” (Điều 331 BLHS năm 2015).

Qua hai vụ án trên cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng đã có quan điểm

khác nhau về cùng một hành vi, liên quan đến xác định khách thể và đối tượng tác

động của tội phạm, dẫn đến việc định tội danh, áp dụng TNHS không thống nhất.

Bảy là, quá trình áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội trong

lĩnh vực CNTT, MVT còn kém hiệu quả trong việc tịch thu tiền liên quan trực

tiếp đến tội phạm

Căn cứ quy định tại Điều 46, Điều 47 BLHS năm 2015, quá trình xét xử vụ án

về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đặc biệt là xét xử các tội phạm “Sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt

tài sản” (Điều 290 BLHS) trong thời gian qua, Tòa án đã quyết định áp dụng biện

pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhằm hỗ trợ đạt được mục

đích của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên, trên thực

tế, việc tịch thu tiền liên quan đến tội phạm nhiều lúc chưa đạt được hiệu quả, số

lượng tịch thu chưa đáng kể so với hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra. Điều này

xuất phát từ đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bởi hành vi phạm tội

thường diễn ra trên không gian mạng, số tiền bị chiếm đoạt thường là tiền ảo, dưới

dạng tài khoản số, lượng tiền bị chiếm đoạt được các đối tượng “chia nhỏ”, chuyển

119

vào nhiều tài khoản khác nhau, nhất là các tài khoản ở nước ngoài, dẫn đến khó tịch

thu triệt để, toàn bộ số tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm nhằm khắc phục hậu

quả của tội phạm.

Tám là, quá trình áp dụng quy định về xóa án tích có lúc còn vướng mắc, bất

cập về trường hợp đương nhiên xóa án tích và khó khăn trong việc xác minh, cấp lý

lịch tư pháp xác nhận xóa án tích

Như phần thực trạng áp dụng án tích nêu trên, Nghiên cứu sinh đã chỉ rõ: Hiện

tại chưa có thống kê của cơ quan chức năng về việc áp dụng án tích đối với người bị

kết án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên, trong thực tế quá trình

áp dụng quy định về xóa án tích đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cơ

quan tiến hành tố tụng cũng gặp phải một số khó khăn trong việc thực hiện quy định

về trường hợp đương nhiên xóa án tích và khó khăn trong việc xác minh lý lịch tư

pháp và cấp giấy chứng nhận xóa án tích đối với người bị kết án về tội phạm này.

Trước hết, về trường hợp đương nhiên xóa án tích: Người được đương nhiên

xóa án tích sẽ không phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi từ bản án kết tội đã

được xóa trước đây trong trường hợp họ thực hiện tội phạm mới. Theo đó, họ sẽ

không bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi

cho họ hòa nhập với xã hội, cộng đồng một cách tích cực. Điểm vướng mắc, bất cập

trên thực tiễn là khi người chấp hành án đã chấp hành xong hình phạt chính hoặc

hết thời gian thử thách án treo, đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích (căn

cứ Điều 70 BLHS) song họ chưa thi hành hình phạt bổ sung và nộp tiền án phí hình

sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án. Nguyên nhân là do không nhận được

thông báo và quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, thì họ vẫn bị

xác định là chưa hết án tích (áp dụng theo Mục 7 Công văn số 64/TANDTC-PC

ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về thông báo kết quả giải đáp trực

tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính đã hướng dẫn:

“Điều 70 của BLHS quy định về các điều kiện đương nhiên được xóa án tích,

trong đó có điều kiện: Người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong hình phạt

chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong

hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, BLHS không quy

định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp hành xong hình phạt bổ

sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Hơn nữa, pháp luật

thi hành án dân sự quy định nhiều phương thức thi hành để người phải thi hành

án có quyền lựa chọn như: Tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án hoặc nhờ

120

thân nhân nộp thay. Do vậy, trường hợp người bị kết án (sau này là bị can, bị

cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và quyết định thi hành án

của cơ quan Thi hành án dân sự nên chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp

tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án là chưa chấp

hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trong trường

hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại

Điều 70 của BLHS”.

Ngược lại, trong trường hợp khác, cơ quan chức năng áp dụng theo hướng

có lợi cho người bị kết án (thực hiện theo Mục 7 Công văn số 4632/VKSTC-V7

ngày 30/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc trả lời thỉnh thị

hướng dẫn: “… Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể trường hợp đã hết

thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự có được coi là “đã chấp hành xong” các

quyết định khác của bản án hình sự hay không hoặc có được coi là đủ điều kiện

để đương nhiên xóa án tích theo Điều 70 BLHS hay không. Tuy nhiên, theo quy

định tại Điều 70 BLHS, đương nhiên được xóa án tích không chỉ áp dụng đối với

người bị kết án mà còn áp dụng trong trường hợp hết thời hiệu thi hành bản án.

Do đó, trường hợp này đã hết thời hiệu để thi hành nên xử lý theo hướng có lợi

cho bị án cần được coi là không có tiền án”), tức người bị kết án từ khi hết thời

hiệu thi hành bản án mà họ không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn

quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015 thì đương nhiên được xóa án tích.

Vấn đề tiếp theo là khó khăn trong việc xác minh lý lịch tư pháp và cấp Phiếu

lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích đối với người bị kết án về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT. Theo khoản 4, Điều 70 của BLHS năm 2015: “Cơ quan

quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình

hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp

xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản

3 Điều này”. Do đó, người bị kết án nếu có đủ điều kiện luật định nêu trên sẽ

đương nhiên được xóa án tích mà không phải thực hiện thủ tục pháp lý nào.

Trong trường hợp họ có nhu cầu thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

sẽ cấp Phiếu lý lịch tư pháp để xác nhận là không có án tích. Song trên thực tế,

cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa được thu thập, quản lý đồng bộ, việc cập nhật

thông tin xóa án tích diễn ra chậm trễ, dẫn đến trường hợp người đã đủ điều kiện

xóa án tích về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhưng vẫn gặp khó khăn khi

đi xin việc làm hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác, một phần xuất phát từ

121

tính đặc thù của loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đó là có tính quốc tế

(người phạm tội là người nước ngoài, hành vi phạm tội xuyên quốc gia, không bị

giới hạn bởi không gian địa lý, tiền tài khoản chiếm đoạt được “chia nhỏ”,

chuyển ra nước ngoài qua đường truyền dẫn thông tin), dữ liệu điện tử dễ bị tiêu

hủy,... ảnh hưởng rất lớn đến việc kiểm tra, xác minh tiền án hoặc vấn đề tái

phạm, phạm tội mới của người bị kết án về tội phạm này.

3.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng trách nhiệm

hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

a. Nguyên nhân từ pháp luật

BLHS là công cụ sắc bén để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói

chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Các quy định của BLHS

đã đóng góp quan trọng vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Quy định của BLHS là cơ sở nền tảng quyết định

việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên, trên

thực tế để đáp ứng tốt các yêu cầu về đấu tranh phòng, chống tội phạm thì các quy

định của BLHS hiện hành vẫn còn những bất cập nhất định, đó là:

Thứ nhất, bất cập trong một số quy định cụ thể về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT

Từ góc độ lập pháp đến áp dụng pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua cho thấy trong BLHS năm 2015 có những

quy định về tội phạm này đã thể hiện sự hạn chế, bất cập, như sau:

- Điều 285. “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi tặng cho công cụ, thiết bị, phần

mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” quy định về dấu hiệu “để sử dụng

vào mục đích trái pháp luật” là chưa phù hợp, nhất là so với văn bản pháp luật

quốc tế và xu hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay. Bởi lẽ trả lời cho

“mục đích trái pháp luật” thì phạm vi trái pháp luật là rất rộng, dễ dẫn đến việc

tràn lan trong xử lý hình sự. Trong khi tham khảo văn bản pháp luật quốc tế quy

định về tội phạm này chỉ giới hạn mục đích của hành vi sản xuất, mua bán công

cụ, thiết bị, phần mềm là để thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, hẹp

hơn và cụ thể hơn rất nhiều về mục đích của tội phạm trong Điều 285 BLHS

hiện hành ở nước ta.

- Điều 286. “Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, tên điều luật có cụm từ

“hoạt động của... ”, nhưng trong mô tả hành vi khách quan của tội này chỉ có là:

122

“Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, như vậy là thiếu cụm từ “hoạt động của”

trước cụm từ “mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”.

- Điều 287. “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử” chưa xác định đủ hết nội dung của điều

luật. Có 02 đối tượng tác động của tội phạm này là “mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử” và “dữ liệu điện tử”, nhưng tên của điều luật chỉ xác

định 01 đối tượng tác động là mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện

tử, đối tượng tác động còn lại là dữ liệu điện tử chưa được xác định.

- Điều 288. “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng

viễn thông” không quy định dấu hiệu định khung tăng nặng “tái phạm nguy

hiểm” là không đồng bộ với 08 điều luật còn lại về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT. Trong khi Điều 288 này vẫn có thể quy định được dấu hiệu định

khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”. Sự bất cập này đã ảnh hưởng đến việc

phân hoá TNHS trong nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung,

của tội phạm quy định tại Điều 288 này nói riêng.

Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa giải thích cụ thể thế

nào là “thông tin trái với quy định của pháp luật” trong Điều 288, BLHS năm

2015. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều cách tiếp cận nội dung này

với khía cạnh và phạm vi khác nhau. Cụ thể tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013;

các Điều 8, 16, 17 và 18 quy định về các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia,

trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng của Luật An ninh mạng năm 2018;

khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ

về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (sửa đổi

bổ sung một số điều bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của

Chính phủ). Chính vì vậy đã dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng TNHS

đối với tội phạm tại Điều 288 này. Bên cạnh đó, cũng rất khó khăn trong việc

xác định người đăng tải, đưa lên thông tin trái với quy định của pháp luật trên

mạng cũng như việc xử lý đối với người chia sẻ những thông tin đó. Thời gian

qua, đã có rất nhiều thông tin trái với quy định pháp luật, thông tin sai sự thật

nhưng được lan truyền nhanh chóng gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến

hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, ví dụ: Thông tin cấm xuất cảnh

với tỷ phú Phạm Nhật Vượng, thông tin về việc sắp xếp, sáp nhập các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam... Những thông tin trên tiếp cận

123

đến nhiều người dùng mạng, nhất là mạng xã hội với tốc độ rất nhanh chóng.

Trong khi việc truy tìm nguồn gốc thông tin rất khó khăn. Các quy định của

pháp luật hiện hành đã phát hiện, xử lý đối với tội phạm này nhưng lại chưa

xác định xử lý trách nhiệm đối với những người chia sẻ thông tin, trong khi đó

chính là người lan truyền thông tin nhanh chóng cũng như để lại những hậu quả

xấu cho xã hội [28].

- Điều 290. “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện

tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” còn có lỗi kỹ thuật lập pháp, chưa phù hợp,

thậm chí gây hiểu nhầm khi định tội danh và áp dụng TNHS đối với tội phạm đó.

Qua nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng cho thấy: BLHS không cần phải

quy định trường hợp loại trừ tại khoản 1 Điều 290 “nếu không thuộc trường hợp

quy định tại Điều 173 và Điều 174”. Bởi lẽ quy định như vậy vừa thừa, vừa dễ gây

hiểu nhầm khi định tội danh và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT nói chung, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS) nói riêng.

Khi xử lý tội phạm ở Điều 290, trên thực tế có những vụ án có tới hàng trăm

người bị hại ở khắp các nơi, nhưng BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)

quy định “bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là

cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”

(Điều 62). Do đó, cơ quan chức năng phải lấy đầy đủ lời khai của các bị hại để xác

định thiệt hại dẫn đến yêu cầu này vượt quá khả năng của Cơ quan điều tra, trong khi

đó, thời hạn kiểm tra, xác minh tin báo, kể cả gia hạn giải quyết tin báo tối đa là 04

tháng. Mặt khác, theo quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 10 về xác định bị hại

thì: “Trong quá trình điều tra vụ án hình sự về các tội trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và viễn thông, các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp để

xác minh, lấy lời khai người bị hại theo quy định của pháp luật. Trường hợp vì lý do

khách quan, không thể xác định được người bị hại (do người bị hại sống ở nước

ngoài; không xác định được người bị hại cụ thể hoặc không xác định được họ tên và

địa chỉ thật của người bị hại do người phạm tội và người bị hại không tiếp xúc trực

tiếp với nhau mà chỉ thông qua mạng internet, mạng viễn thông; người bị hại không

hợp tác vì không muốn lộ danh tính, số tiền thiệt hại không nhiều...), nhưng căn cứ

vào tài liệu, chứng cứ thu thập được, có cơ sở xác định bị can, bị cáo đã thực hiện

hành vi phạm tội thì việc không xác định được người bị hại hoặc xác định không đủ

số người bị hại không làm ảnh hưởng đến việc xác định bản chất vụ án và việc khởi

124

tố, điều tra, truy tố, xét xử là có căn cứ pháp luật”. Hướng dẫn này tuy có tạo điều

kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý vụ án, nhưng nó

cũng mang tính định tính, tùy nghi. Trong khi đó, định khung tăng nặng quy định ở

khoản 2, 3, 4 Điều 290 BLHS năm 2015 lại quy định cụ thể giá trị tài sản bị chiếm

đoạt. Điều này rất dễ xảy ra mâu thuẫn trong quá trình áp dụng. Xét về khoa học pháp

lý, trong vụ án có tính chiếm đoạt mà không xác định được bị hại, thì chưa đủ cơ sở

pháp lý để định tội danh. Từ đó tạo ra những khó khăn, thiếu thống nhất trên thực tế

áp dụng, dễ dẫn đến tùy tiện khi áp dụng PLHS. Do vậy cần có hướng dẫn áp dụng

thống nhất trên toàn quốc về vấn đề này.

Còn có sự chênh lệch rất lớn trong quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt

cao nhất tại Điều 290 so với hình phạt cao nhất tại Điều 174. Hình phạt cao nhất đối

với “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản” tại khoản 4 Điều 290 chỉ là 20 năm tù. Trong khi hình

phạt cao nhất đối với “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại khoản 4 Điều 174 là tù

chung thân. Điều đó không thể hiện sự công bằng, vì cùng chiếm đoạt từ 500 triệu

đồng trở lên nhưng tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện

tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất nguy hiểm hơn, thực tế BLHS

năm 2015 cũng luôn coi dấu hiệu sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử thực hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu định khung tăng nặng

trong các tội tương ứng thì hình phạt nhẹ hơn, còn trong Điều 174 về “Tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản”, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả

(không đúng sự thật) làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người

phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như: bằng lời

nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động và bằng nhiều hình thức khác như giả

vờ vay, mượn, thuê,... để chiếm đoạt tài sản. So với hành vi sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thì tính chất, mức độ hành vi của Điều 174

đơn giản hơn nhưng mức hình phạt áp dụng ở khung cao nhất lại nặng hơn.

- Điều 294. “Tội cố ý gây nhiễu có hại” cũng còn có lỗi kỹ thuật lập pháp.

Theo Nghiên cứu sinh không cần thiết quy định cụm từ “cố ý” bởi trong mặt chủ

quan của tất cả các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đều là lỗi cố ý. Người

thực hiện hành vi gây nhiễu có hại đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy

hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó mà vẫn mong muốn nó

xảy ra hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.

Thứ hai, các quy định về tình tiết định khung tăng nặng đối với tội phạm

125

trong lĩnh vực CNTT, MVT chưa đầy đủ và thống nhất

Trên cơ sở Điều 52 BLHS, cần xem xét bổ sung một số tình tiết cho phù

hợp với quy định tại các điều từ Điều 285 đến Điều 294, BLHS. Bởi trên thực tế,

các tình tiết đó làm gia tăng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,

chứa đựng khả năng và thực tế làm phát sinh thêm hậu quả, thiệt hại. Đặc biệt

cần xử lý nghiêm khắc hơn đối với những người lợi dụng quyền hạn, vị trí công

tác, nhiệm vụ được giao để thực hiện tội phạm đó. Ví dụ: Về tình tiết “Phạm tội

02 lần trở lên” có thể bổ sung vào cấu thành tăng nặng trong các Điều 286, 287,

289, 291, 293, 294 hay như tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” có thể bổ

sung vào cấu thành tăng nặng trong các Điều 285, 290, 291. Bởi nếu chủ thể của

tội phạm trong các Điều này là người có quyền hạn đã lợi dụng quyền hạn của

mình để thực hiện hành vi phạm tội thì không chỉ gây hậu quả nguy hiểm mà còn

làm trái các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn được giao, cần có chế tài xử lý cao

hơn so với người khác. Hay như hậu quả “Gây thiệt hại về tài sản từ ...” trong

cấu thành tăng nặng ở Điều 285 BLHS chưa đồng bộ, thống nhất với hậu quả

“Gây thiệt hại từ ...” (không có cụm từ “về tài sản”) trong các Điều 286, 287,

289, 290, 293, 294 BLHS.

Thứ ba, BLHS chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

Như đã phân tích một phần nêu trên, hiện nay, BLHS năm 2015 chỉ quy

định chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là cá nhân, không có pháp

nhân thương mại. Trong khi thực tế đã nảy sinh những vụ án về tội phạm trong

lĩnh vực này có sự tham gia, chỉ đạo của pháp nhân thương mại hoặc các cá nhân

phạm tội vì lợi ích của pháp nhân thương mại. Đáng lẽ phải xử lý triệt để các

pháp nhân thương mại này, phải truy cứu TNHS đến cùng đối với các pháp nhân

thương mại phạm tội, thay vì chỉ xử lý được các cá nhân người phạm tội. Điều

đó tạo ra “khoảng trống lớn”, là điều kiện để pháp nhân thương mại lợi dụng vi

phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực CNTT,

MVT được PLHS bảo vệ. Trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền không thể áp

dụng các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản của pháp nhân hoặc đình chỉ hoạt

động vĩnh viễn, chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân khi pháp nhân được thành lập

chỉ nhằm mục đích thực hiện tội phạm [38].

Tham khảo quy định của pháp luật quốc tế về TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT đã xác định chủ thể của loại tội phạm này không chỉ có cá

126

nhân mà còn có cả pháp nhân. Cụ thể, khoản 1, Điều 12 Công ước Bu-đa-pét;

Điều 20 Công ước Ả Rập về phòng, chống tội phạm công nghệ thông tin năm

2010 (Công ước Ả Rập); khoản 2, Điều 30 Công ước của Liên minh châu Phi về

an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2014 (Công ước Châu Phi) hay như

tham khảo quy định của BLHS Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc cũng đều xác định

phải truy cứu TNHS đối với pháp nhân thực hiện tội phạm trong lĩnh vực này.

Việc BLHS nước ta chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT dẫn đến cơ quan chức năng của chúng ta

không có cơ sở pháp lý để đấu tranh, ngăn chặn, xử lý. Đây thực sự là một “lỗ

hổng” mà theo Nghiên cứu sinh cần sớm được bổ sung, hoàn thiện.

b. Nguyên nhân từ công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình

sự về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Trong các quan hệ xã hội mà Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại thì

quan hệ xã hội trong lĩnh vực CNTT, MVT có tính đặc thù rất cao. Đó là lĩnh vực

liên quan đến khoa học kỹ thuật, công nghệ cao. Nếu không có kiến thức, kinh

nghiệm chuyên môn sâu sắc về lĩnh vực CNTT, MVT sẽ rất khó hiểu, khó áp

dụng để xác định TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này. Thực tế

nghiên cứu và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, các

cơ quan và người có thẩm quyền liên quan cũng nhận thấy quy định của BLHS

thời gian qua về tội phạm trong lĩnh vực này còn chung chung, khái quát. Trước

khi Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-

TANDTC ngày 10/9/2012 được ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng dường

như không xét xử được vụ án nào về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Sau

này, các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã được xử lý nhiều hơn

vì được hướng dẫn chi tiết một số nội dung quan trọng theo Thông tư liên tịch số

10 nêu trên.

Từ khi có hiệu lực ngày 01/01/2018 đến nay, BLHS năm 2015 đã khắc phục

được phần nào hạn chế của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) bằng

những quy định cụ thể, chi tiết hơn. Song trong mục 2, Chương XXI, BLHS năm

2015 về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT vẫn còn những quy định chưa cụ

thể như: “công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính,

mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử”, “mục đích trái pháp luật” tại Điều

285; “thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” và “dẫn đến biểu

tình” tại Điều 288 đến nay vẫn chưa có văn bản giải thích, hướng dẫn chi tiết. Từ

127

đó tạo ra những khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng TNHS đối với

tội phạm này. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải sớm giải thích, hướng dẫn áp dụng

các quy định của BLHS về loại tội phạm đặc thù này một cách cụ thể. Nhưng

thực tế những năm qua cho thấy việc giải thích, hướng dẫn này chưa được quan

tâm thực hiện kịp thời.

Bên cạnh đó, sự giải thích, hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về xóa

án tích đối với người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thuộc

trường hợp đương nhiên được xóa án tích còn mâu thuẫn, chưa thống nhất giữa

các cơ quan chức năng. Tiếp nữa là việc kiểm tra, cập nhật, bổ sung thông tin về

tình hình lý lịch tư pháp của người phạm tội trong lĩnh vực này do cơ quan quản

lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ. Nguồn dữ

liệu bị phân tán, quản lý bởi nhiều cơ quan, chủ thể khác nhau rất vụn vặt làm

ảnh hưởng đến căn cứ kết luận tình trạng án tích của người bị kết án khi họ có

yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

c. Nguyên nhân từ phía chủ thể áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Bên cạnh nguyên nhân từ phía PLHS thì những hạn chế trong thực tiễn áp

dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn xuất phát từ chính

các chủ thể áp dụng (hay còn gọi là nguyên nhân chủ quan), cụ thể như sau:

Một là, đội ngũ nhân lực thực hiện công tác đấu tranh với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT còn hạn chế

Các loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xuất hiện ở nước ta chưa lâu,

với các hình thức rất phong phú và đa dạng, đồng thời rất phức tạp. Hoạt động

của chúng thường không dễ phát hiện, đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên và

Thẩm phán phải có kiến thức chuyên sâu về CNTT, MVT để nắm bắt phương

thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng phạm tội, chủ động, thường xuyên

truy cập vào các trang mạng, diễn đàn CNTT để chủ động nắm thông tin, tình

hình cũng như các công cụ, phương tiện mà đối tượng sử dụng. Tuy nhiên trên

thực tế, một bộ phận không nhỏ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa

hiểu rõ về CNTT, MVT. Cùng với đó, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công

tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng chưa đầy

đủ, đặc biệt là kinh nghiệm đấu tranh đối với loại tội phạm này không nhiều.

Nhận thức của các chủ thể tiến hành áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT cũng không đồng đều, trong đó một phần nguyên nhân là do

128

BLHS năm 1999 (có bổ sung thêm một số tội danh mới năm 2009), nhưng đến

năm 2012 mới có văn bản hướng dẫn thi hành là Thông tư liên tịch số

10/2012/BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSTC-TANDTC ngày 10/9/2012 của Bộ

Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. Tại Điều 10 Thông tư này

hướng dẫn “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc

thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 226b BLHS), nay đã được

pháp điển hóa tại Điều 290 BLHS năm 2015. Chính vì vậy dẫn đến nhận thức

chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng qua các giai đoạn hiệu lực

khác nhau của BLHS.

Phải nhấn mạnh thêm, để giải quyết vụ án hình sự về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT, ngoài kiến thức về pháp luật, người tiến hành tố tụng phải có kiến

thức, hiểu biết nhất định về lĩnh vực CNTT, MVT. Trong khi hiện nay, người tiến

hành tố tụng còn hạn chế về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Điều đó gây ra những khó khăn rất lớn trong quá trình áp dụng quy định của

PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Hiện tại, mặc dù trình độ và khả

năng về CNTT, MVT của người tiến hành tố tụng đã được cải thiện, nhưng vẫn

chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm này, nhất là khi tội

phạm này hoạt động ngày càng tinh vi, phức tạp với những phương thức, thủ đoạn

hoạt động mới, ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ.

Kinh nghiệm đấu tranh đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT của

người tiến hành tố tụng thời gian qua còn thiếu và yếu. Có nhiều Tòa án nhân

dân (cả cấp tỉnh) cũng chưa xét xử vụ án nào về tội phạm này, nên sẽ gặp nhiều

lúng túng, khó khăn khi giải quyết, đặc biệt là trong hoạt động thu thập, đánh

giá, sử dụng chứng cứ và chứng minh trong vụ án, định tội danh và quyết định

TNHS đối với người phạm tội.

Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT, các cơ quan, người có thẩm quyền còn chủ quan, chưa

bám sát các căn cứ định tội danh và quyết định hình phạt, biện pháp tư pháp và các

vấn đề khác có liên quan. Có trường hợp còn chưa thực hiện đúng căn cứ quy định

của PLHS về tội phạm này cũng như chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hoặc bỏ sót, lọt các tình tiết tăng nặng, tình

tiết giảm nhẹ TNHS hoặc xem xét không kỹ lưỡng nhân thân của người phạm tội

dẫn đến áp dụng TNHS không đồng bộ, thống nhất. Một phần nguyên nhân dẫn đến

129

tình trạng trên là do hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là

chuyên môn trong lĩnh vực CNTT, MVT của một số Thẩm phán.

Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều Thẩm phán, cán bộ Tòa án chưa nhận thức

đúng đắn, đầy đủ về vai trò của khoa học kỹ thuật, trong đó có lĩnh vực công

nghệ thông tin, viễn thông đối với hoạt động của Tòa án, năng lực nghiên cứu và

kỹ năng xét xử các loại án liên quan đến CNTT, MVT còn hạn chế. Biên chế

hiện tại của cơ quan Tòa án còn rất thiếu nhân lực công nghệ thông tin, nhất là

đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, cán bộ phụ trách công nghệ thông tin tại đây

hầu hết đều kiêm nhiệm. Họ vừa phải thực hiện công việc chuyên môn của thư

ký viên, thẩm tra viên vốn dĩ đã quá tải, vì thông thường 01 thư ký Tòa án phải

giúp việc cho 02 - 03 Thẩm phán, với lượng án thụ lý luôn ở mức cao, mà lại

phải thực hiện thêm công việc phụ trách công nghệ thông tin. Trong khi đội ngũ

này là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động chuyển đổi số

trong lĩnh vực công tác của Tòa án nhân dân đồng thời là là lực lượng tư vấn, hỗ

trợ đắc lực cho đội ngũ Thẩm phán trước và trong quá trình xét xử loại tội phạm

đặc thù này. Nhiều cán bộ Tòa án chưa quen việc thay đổi trạng thái làm việc từ

môi trường truyền thống lên môi trường điện tử, chưa thường xuyên ứng dụng

khoa học kỹ thuật, công nghệ trong công việc hoặc có ứng dụng, khai thác nhưng

còn hình thức, chưa triệt để. Ngoài ra cũng phải kể đến việc một bộ phận người

có thẩm quyền chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu thận trọng, khách quan,

công bằng trong xem xét và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT làm giảm hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm này.

Hai là, trang thiết bị, cơ sở vật chất để đấu tranh đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT chưa được đầu tư, kịp thời đáp ứng

Một trong những đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là

hành vi phạm tội thường để lại các dấu vết là các dữ liệu điện tử, tồn tại dưới

dạng điện tử và rất dễ bị tác động, thay thế, sửa chữa và xóa bỏ. Để áp dụng

chính xác TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này, buộc cơ quan tiến

hành tố tụng nói chung, Tòa án nói riêng phải thu thập, phân tích, kiểm tra, đánh

giá và sử dụng hiệu quả nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Do đó, các vụ án

thuộc lĩnh vực CNTT, MVT, việc phát hiện, thu thập, bảo quản chứng cứ điện tử

đóng vai trò rất quan trọng. Việc này chắc chắn phải có sự hỗ trợ của các loại

máy móc, thiết bị đặc biệt, chuyên dùng. Trong khi chủ thể phạm tội thường sử

130

dụng những kỹ thuật, thiết bị mới, hiện đại để phạm tội thì các cơ quan tiến hành

tố tụng cũng cần phải được trang bị những thiết bị mới, hiện đại hơn cả để phòng

ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Các trang thiết bị đó sẽ góp phần

hiệu quả trong việc thu thập, phân tích, phục hồi và bảo quản chứng cứ điện tử,

tạo cơ sở vững chắc để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Từ đó các cơ

quan chức năng mới có căn cứ để áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Song điều kiện thực tế hiện nay, các loại máy móc,

thiết bị, cơ sở vật chất trang bị cho lực lượng chức năng chưa đáp ứng được yêu

cầu công tác. Nó vừa thiếu về số lượng vừa lạc hậu về chất lượng, có thể nói đôi

lúc là “đi sau tội phạm”. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên, quan

tâm đầu tư hiện đại hóa, trong đó có hiện đại hóa về cơ sở vật chất, trang thiết bị,

phương tiện cho lực lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT, song thực tế triển khai còn chậm, hạn mức đầu tư còn eo hẹp,

chưa theo kịp và đáp ứng được đòi hỏi của tình hình thực tiễn.

Bên cạnh đó, cơ sở vật chất liên quan trực tiếp đến quá trình áp dụng TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là hệ thống phòng xét xử tại các

Tòa án. Nhiều phòng xử án được xây dựng từ những năm 90 của thế kỷ XX, nay

đã xuống cấp trầm trọng, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến, ứng dụng công nghệ

thông tin, xây dựng Tòa án điện tử hay thực hiện hoạt động chuyển đổi số, vận

hành phần mềm trợ lý ảo giám sát, điều hành của Tòa án cũng còn gặp rất nhiều

khó khăn, do phương tiện, thiết bị công nghệ thiếu đồng bộ, hạ tầng kỹ thuật

không đảm bảo. Các trang thiết bị phục vụ xét xử trực tuyến tại các tòa án và

điểm cầu thành phần tại các cơ sở giam giữ chưa được đầu tư nâng cấp, cải thiện,

nhiều khi Tòa án phải thuê mượn hoặc chuyển đổi từ phòng hội nghị sang để tổ

chức phiên tòa xét xử trực tuyến, trong khi lượng án về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT ngày càng có chiều hướng gia tăng, diễn biến hết sức phức tạp, tạo

áp lực rất lớn cho Tòa án các cấp.

Ba là, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết nhiều vụ án về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT liên quan đến người nước ngoài trong khi hoạt động

hợp tác quốc tế chưa thực sự phát huy hiệu quả

Trong các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, số bị cáo là người

nước ngoài chiếm tỷ lệ khá cao. Trung bình tỷ lệ bị cáo là người nước ngoài phạm

131

tội này trong giai đoạn 2013 - 6/2024 là 5,98%.

Bảng 3.5. Số lượng bị cáo là người nước ngoài bị xét xử sơ thẩm về tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ năm 2013 đến 6/2024

Năm

2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 6/2024

51

135

139

202

118

87

73

100

135

205

374

197

Tổng số

bị cáo

phạm tội CNTT,

MVT

18

14

19

8

4

8

2

11

1

0

3

0

Bị cáo

người nước

ngoài

phạm tội

CNTT,

MVT

125

121

116

101

88

130

119

138

109

82

111

47

Tổng số

bị cáo là

người

nước

ngoài bị

xét xử (tất cả

các tội

phạm)

Tỷ lệ

(%) so

14,4

0

11,57 16,38 7,92 4,55

6,15

1,68

7,97

0,92

0

2,70

với tổng số

(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)

132

Một trong những đặc điểm quan trọng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đó là mang tính quốc tế, xuyên biên giới, không bị giới hạn bởi lãnh thổ, khu vực. Các vụ án về tội phạm này do người nước ngoài thực hiện hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngoài cao chiếm tỷ lệ khá cao, gây ra nhiều áp lực, khó khăn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án. Trong đó

có việc áp dụng TNHS đối với tội phạm này. Bởi khi giải quyết các vụ án đó, cán bộ phải có yêu cầu cao về năng lực chuyên môn, trình độ, nhất là trình độ ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật quốc tế. Lẽ tất nhiên, giải quyết các vụ án liên quan đến người nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế. Trong khi hoạt động này liên quan đến pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia mà người đó là công dân, đến hoạt động và phối hợp của cơ quan tư pháp quốc tế trong điều tra, khám phá và xử lý tội phạm. Trong khi hiện nay còn thiếu cơ sở pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế. Cụ thể, Việt Nam chưa tham gia các công ước quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với 27 quốc gia; nhiều quy định của pháp luật Việt Nam chưa tương thích với luật pháp các nước, nên gặp khó khăn trong thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế trong xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, làm hạn chế hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT liên quan đến yếu tố nước ngoài.

d. Nguyên nhân khách quan do tính phức tạp, đặc thù của quá trình chứng

minh vụ án về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Từ quá trình nghiên cứu và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trên thực tiễn, Nghiên cứu sinh nhận thấy quá trình chứng minh vụ án về tội phạm này nói chung, việc xác định các tình tiết, căn cứ để quyết định TNHS đối với người phạm tội này cũng gặp rất nhiều khó khăn bởi một phần nguyên nhân khách quan đến từ tính chất phức tạp, đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể:

Một là, thực tiễn phát sinh các phương thức, thủ đoạn phạm tội mới trong

lĩnh vực CNTT, MVT làm cho các cơ quan có thẩm quyền gặp lúng túng

Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT do tính chất đặc thù của lĩnh vực này

đã luôn nảy sinh những hành vi mới, với phương thức, thủ đoạn mới, rất tinh vi,

biến động khó lường. Nhiều hành vi chưa được quy định cụ thể trong BLHS hiện

hành hoặc chưa được hướng dẫn của các cơ quan liên ngành, trên thực tế đòi hỏi

các cơ quan tiến hành tố tụng phải linh hoạt, khéo léo vận dụng quy định hiện

hành để giải quyết. Đây cũng là lý do dẫn đến còn nhiều quan điểm giải quyết vụ

án không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, đặc biệt là

những quan điểm trái chiều nói riêng khi xét xử vụ án này. Ví dụ: Trong BLHS

133

năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) chưa quy định cụ thể về hành vi lắp đặt,

thuê kênh riêng, sử dụng dịch vụ viễn thông để chiếm đoạt tiền cước viễn thông

dẫn đến việc xử lý hành vi này xuất hiện rất nhiều quan điểm trái chiều. Có quan

điểm cho rằng: hành vi này phạm tội kinh doanh trái phép (Điều 159 BLHS năm

1999). Quan điểm khác khẳng định đây là tội vi phạm các quy định về nghiên

cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 172 BLHS năm 1999) hoặc phạm tội sử

dụng trái phép tài sản (Điều 142 BLHS năm 1999). Ngoài ra, còn có ý kiến ủng

hộ quan điểm cho rằng hành vi này là phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS

năm 1999). Trên thực tế, đa số các bản án của Tòa án đã xét xử hành vi này

về tội trộm cắp tài sản [44]. Theo Nghiên cứu sinh, hành vi mới này rất cần thiết

phải được “hình sự hóa” cụ thể trong BLHS để việc áp dụng được thống nhất và

hơn cả là đảm bảo tính chính xác, đúng tội, đúng pháp luật.

Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền còn vấp phải lúng túng, khó khăn

khi phải xử lý những hành vi phạm tội mới xuất hiện trong khi BLHS chưa quy

định rõ ràng. Ví dụ: Theo bản án hình sự phúc thẩm số 361/2017/HS-PT ngày

20/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đ đã có

hành vi mua, sau đó bán phần mềm nghe lén, theo dõi điện thoại trên các thiết bị

di động cho các khách hàng. Khách hàng nào không biết cài đặt thì Đ cài đặt hộ

và hướng dẫn cách sử dụng. Trong khoảng thời gian từ 2012 - 2015, Đ đã bán

cho rất nhiều khách hàng khác nhau. Trong vụ án này, bản chất hành vi phạm tội

của Đ là hành vi mua bán trái phép phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp

luật. Nhưng tại thời điểm từ năm 2012 - 2015, BLHS năm 1999 không quy định

về tội này nên các cơ quan tiến hành tố tụng buộc phải chứng minh Đ có hành vi

cài đặt phần mềm này cho khách hàng để vận dụng xử vào tội truy cập bất hợp

pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của

người khác (Điều 226b). Nếu giả sử Đ chỉ bán phần mềm cho khách hàng mà

không hỗ trợ cài đặt hộ cho khách thì sẽ không xử lý vào tội này được [44].

Hai là, khó khăn trong vấn đề thu thập, sử dụng chứng cứ là dữ liệu điện

tử đối với các vụ án phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT

Hầu hết các tội phạm trên lĩnh vực này không phải là phạm tội quả tang, mà chủ yếu qua lời khai của bị hại. Do đó, gây khó khăn trong việc truy vết dữ liệu điện tử, nguồn gốc tội phạm; thủ phạm triệt để xóa dấu vết nên dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ chuyên môn còn hạn chế trong việc phục hồi, phân tích, đánh giá, bảo quản chứng cứ là dữ liệu điện tử được tạo ra trong lĩnh vực CNTT, MVT. Việc chuyển hóa chứng cứ điện tử, 134

giám định điện tử thành các tài liệu có thể đọc, nghe, nhìn được để làm nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) rất khó khăn. Việc xác định đối tượng phạm tội đã tạo ra những dữ liệu điện tử đó cũng rất khó xác định.

Khi có yêu cầu của các cơ quan có chức năng về việc cung cấp lịch sử cuộc gọi, cung cấp các giao dịch liên quan đến hoạt động ngân hàng thì các công ty viễn thông và ngân hàng thường từ chối, bởi liên quan đến việc bảo mật thông tin cá nhân khách hàng, quá thời hạn lưu trữ thông tin cũng như tâm lý ngại va chạm, tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết vụ án hình sự.

Ba là, việc xác định hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu

thành tội phạm cơ bản của một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT rất khó

khăn, nên một số điều luật ít được áp dụng hoặc không được áp dụng được để xử

lý đối với các hành vi phạm tội trên thực tế đã xảy ra

Từ bảng số liệu 3.2 nêu trên cho thấy, một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT ít được áp dụng hoặc chưa được áp dụng trong thực tiễn như Điều 286, Điều

287, Điều 291, Điều 293, Điều 294 BLHS năm 2015. Trong cấu thành tội phạm

cơ bản của các điều luật này thường có dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc, nên

khi cơ quan có thẩm quyền chưa xác định được hậu quả của tội phạm thì sẽ chưa

thể xử lý được. Điều đặc trưng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là các

hậu quả, dấu vết để lại ở dạng dữ liệu điện tử, thậm chí nhiều nạn nhân còn không

biết mình bị tội phạm xâm hại. Trên thực tế cũng chứng minh việc xác định hậu

quả của tội phạm này rất khó khăn, đã có hành vi phạm tội xảy ra, nhưng các cơ

quan có thẩm quyền không biết hoặc có biết nhưng không xác định được chính

xác những hậu quả do tội phạm này gây ra. Theo quy định của BLHS hiện hành,

để áp dụng TNHS đối với một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thuộc một

trong các Điều 286, 287, 291, 293, 294 nêu trên thì bắt buộc phải xác định được

dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm. Nhưng thực tiễn có nhiều vụ việc mới

chỉ có hành vi phạm tội xảy ra, chưa gây ra hậu quả nhưng đã cho thấy tính chất

rất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Ví dụ như: hành vi cản trở hoặc gây rối

loạn đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ

quốc phòng, an ninh. Thời gian tới, cần có những kiến nghị, đề xuất cụ thể để tăng

tính răn đe, chủ động phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả hơn nữa với tội phạm này

135

nói chung, các hành vi nguy hiểm nêu trên nói riêng.

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 của Luận án đã khái quát quy định của pháp luật quốc tế và lịch sử

quy định của pháp luật Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT trước khi ban hành BLHS năm 2015 đồng thời chỉ ra những kinh

nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện chế định về TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực này. Đến khi BLHS năm 2015 ra đời, đã phản ánh thêm rõ nét

quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT mang tính nhân văn, tiến bộ, cơ bản phù hợp và thích đáng.

Bên cạnh hình phạt chính, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

cũng thể hiện đặc trưng thông qua các hình phạt bổ sung, bao gồm: phạt tiền, cấm

đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần

hoặc toàn bộ tài sản. Quy định cũng như thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung này

cho thấy yêu cầu đặt ra cao trong việc thu tài sản, góp phần khắc phục thiệt hại do tội

phạm gây ra, vừa đảm bảo tính răn đe, vừa đảm bảo tính phòng ngừa tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT.

Qua thực tiễn công tác xét xử của ngành Tòa án trong giai đoạn từ năm

2013 đến 6/2024 cho thấy, số vụ và số bị cáo phạm các tội trong lĩnh vực CNTT,

MVT có sự biến động, tăng, giảm không đồng đều, thể hiện sự phức tạp. Mỗi

năm trung bình Tòa án các cấp xét xử khoảng 80 vụ với 162 bị cáo phạm tội

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong số đó, nhiều nhất là Tội sử dụng mạng máy

tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

(Điều 290), chiếm 77,60% về số vụ và 74,42% về số bị cáo; Tội cản trở hoặc

gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện

tử (Điều 287) chiếm tỷ lệ thấp nhất, với 0,68% về số vụ và 0,39% về số bị cáo.

Chương 3 của Luận án đã mô tả khái quát bức tranh toàn cảnh về tình hình áp

dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở Việt Nam từ năm

2013 đến 6/2024, bao gồm thực tiễn việc áp dụng các hình phạt chính, áp dụng

hình phạt bổ sung và áp dụng các biện pháp tư pháp, án tích... Từ thực tiễn nhận

thấy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong công tác xét xử bảo đảm

áp dụng đúng TNHS đối với các bị cáo, ngược lại vẫn có một số hạn chế, thiếu

136

sót trong quy định của PLHS hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nổi bật như: xét xử chưa đúng tội

danh, chưa đồng bộ trong quyết định hình phạt, quyết định hình phạt chưa tương

xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, chưa thống nhất

trong xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS hay như áp dụng án

treo còn nhiều và chưa thể hiện sự công bằng,...

Bên cạnh đó, Chương 3 của Luận án cũng làm rõ những vướng mắc, bất

cập trong các quy định của PLHS hiện nay liên quan đến áp dụng TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đồng thời phân tích, làm sáng tỏ nguyên

nhân của những khó khăn, vướng mắc, bất cập đó, tạo cơ sở cho việc đưa ra các

kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện quy định của PLHS về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT và hệ thống các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả

TNHS đối với tội phạm này trong thời gian tới, nội dung này sẽ được trình bày ở

137

Chương cuối cùng của Luận án.

Chương 4

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM

ÁP DỤNG HIỆU QUẢ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM

TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG

4.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và yêu

cầu nâng cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh

vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

4.1.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Trong thời gian tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và

khó khăn, thách thức mới đan xen. An ninh truyền thống và phi truyền thống diễn

biến phức tạp; âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo

quyệt; tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, trong đó có tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, với tính chất, mức độ

nghiêm trọng ngày càng cao; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ... tác

động sâu sắc, đa chiều đến an ninh, trật tự của đất nước ta, đặt ra nhiều khó khăn,

thách thức đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự nói chung, công tác đấu tranh, xử

lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Một trong những nhiệm vụ quan

trọng đặt ra là tiếp tục hoàn thiện PLHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

để góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm này.

Ngày 10/8/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 964/QĐ-TTg

phê duyệt Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các

thách thức từ không gian mạng đến năm 2025, tầm nhìn 2030, trong đó khẳng

định quan điểm: “An toàn, an ninh mạng là trọng tâm của quá trình chuyển đổi

số, là trụ cột quan trọng tạo lập niềm tin số và sự phát triển thịnh vượng trong kỷ

nguyên số. An toàn, an ninh mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài

nhằm khởi tạo và duy trì môi trường mạng an toàn, lành mạnh, tin cậy cho các cơ

quan, tổ chức và mỗi người dân. Đầu tư cho an toàn, an ninh mạng là đầu tư cho

phát triển bền vững và tạo ra giá trị”. Đồng thời, Chiến lược này cũng nêu rõ

quyết tâm “... chủ động phòng ngừa, sẵn sàng ứng phó để hạn chế các tác động

tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự an toàn

xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước trong thời đại Cách mạng

138

công nghiệp lần thứ tư”. Đặc biệt, Chiến lược chỉ ra tầm nhìn đến năm 2030 Việt

Nam sẽ “trở thành quốc gia tự chủ về an toàn, an ninh mạng để bảo vệ sự thịnh

vượng của Việt Nam trên không gian mạng”, với mục tiêu tổng quát: “Không

gian mạng quốc gia được xây dựng, phát triển văn minh, lành mạnh, là động lực

tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Năng lực quốc gia về bảo đảm

an toàn, an ninh mạng được nâng cao, chủ động, sẵn sàng ứng phó với các nguy

cơ, thách thức từ không gian mạng nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích,

quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ chủ quyền quốc gia

trên không gian mạng và công cuộc chuyển đổi số quốc gia, quyền và lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên không gian mạng”.

Theo thống kê của BKAV: Năm 2023, thiệt hại do vi-rút máy tính gây ra

đối với người dùng Việt Nam ở mức 17,3 nghìn tỷ VND (tương đương 716 triệu

USD), tiếp tục giảm so với các năm trước. Tình hình an ninh mạng trong nước

vẫn nổi cộm nhiều vấn đề nóng khi tình trạng tấn công bằng vi-rút mã hóa dữ

liệu tiếp tục gia tăng, nhằm vào các máy chủ trọng yếu; máy tính không có kết

nối internet cũng có thể bị tấn công gián điệp APT (Advanced Persistent

Threats); lừa đảo tài chính trực tuyến không có dấu hiệu hạ nhiệt bởi nguồn cơn

là tài khoản ngân hàng rác… Báo cáo ghi nhận tỷ lệ người dùng nhận được tin

nhắn, cuộc gọi lừa đảo tiếp tục gia tăng. Nếu năm 2022, tỷ lệ người dùng nhận

được các tin nhắn, cuộc gọi lừa đảo là khoảng 69,6% thì trong năm 2023 đã tăng

lên khoảng hơn 73%. Lừa đảo tài chính qua mạng bùng nổ phức tạp trong những

năm gần đây và trở thành vấn nạn khi nạn nhân thuộc mọi tầng lớp và sinh sống,

làm việc ở bất cứ đâu. Trong các vụ lừa đảo với mục đích tài chính, kẻ xấu yêu

cầu người dùng chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng. Nhưng khi điều tra, các tài

khoản này hầu hết đều không chính chủ, khiến cơ quan chức năng gặp khó khăn

để tìm ra người phạm tội và ngăn chặn, xử lý vấn nạn lừa đảo.

Cũng trong năm 2023, hệ thống giám sát và cảnh báo vi-rút của BKAV ghi

nhận có tới 745.000 máy tính bị nhiễm vi-rút đánh cắp tài khoản (Facebook,

ngân hàng), tăng 40% so với năm 2022, phát tán mạnh nhất phải kể đến các dòng

như RedLineStealer, ArkeiStealer, Fabookie… đều nằm trong top 20 dòng vi-rút

lây nhiễm mạnh ở Việt Nam. Năm 2022, các vi-rút này vẫn còn “sơ khai”, chỉ

đánh cắp dữ liệu tài khoản, mật khẩu, cookies… thì năm 2023, chúng đã được

“nâng cấp” để đặc biệt nhắm vào các tài khoản Facebook Bussiness, truy vấn

139

thêm các thông tin về phương thức thanh toán, số dư... Khai thác thành công,

hacker sử dụng chính tài khoản nạn nhân để âm thầm chạy quảng cáo thay vì

ngay lập tức chiếm tài khoản hòng kiếm thêm lợi nhuận, nâng cao thứ hạng

(SEO) các trang web phát tán mã độc... Các dòng vi-rút đánh cắp tài khoản chủ

yếu lây lan qua các phần mềm bị bẻ khóa (crack). Điều này cũng phù hợp với kết

quả khảo sát của Bkav khi có tới 53% máy tính tại Việt Nam có sử dụng phần

mềm crack. Dẫn tới việc, khoảng 10% người dùng tại Việt Nam bị mất tài khoản

mạng xã hội, email, ngân hàng... Những tài khoản bị đánh cắp này sẽ bị kẻ xấu

sử dụng để tiếp tục lừa đảo bạn bè, người thân của nạn nhân. Trong các cơ quan,

tổ chức, dữ liệu tối mật thường được lưu trữ trên những máy tính được ngắt kết

nối khỏi internet nhằm đảm bảo an toàn trước các mối nguy hại từ tấn công

mạng. Tuy nhiên, việc này không an toàn tuyệt đối.

Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ

mang lại những lợi ích rõ ràng mà còn tạo ra những nguy cơ đáng kể cho an ninh

mạng. Thách thức lớn nhất đối diện với công nghệ AI ngày nay là lừa đảo và tấn

công có chủ đích, với mức độ ngày càng phức tạp của các kịch bản lừa đảo, đặc biệt

khi kết hợp giữa Deepfake và GPT. Khả năng thu thập và phân tích dữ liệu người

dùng thông qua AI cho phép tạo ra những vụ việc lừa đảo tinh vi, khiến việc nhận

diện lừa đảo sẽ khó khăn hơn đối với người dùng. Việc tăng cường an ninh cho AI

trở thành một xu hướng không thể phủ nhận. Cộng đồng thế giới và trong nước sẽ

cần hợp tác chặt chẽ để phát triển các biện pháp bảo mật mới, cùng việc nâng cao

kiến thức và nhận thức của người dùng về những rủi ro tiềm ẩn của AI.

Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), chính sách

PLHS luôn phải gắn với quy luật vận động của cuộc cách mạng này. Công nghệ

mới đang mở ra những thuận lợi cho các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

và tạo ra những thách thức mới cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự. PLHS cần

đảm bảo trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân liên quan đến các vấn đề

an ninh mạng, đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động thu thập và sử dụng dữ

liệu cá nhân và đồng thời đảm bảo quyền riêng tư của người dân. Một thách thức

lớn nữa, các công nghệ mới như AI, Blockchain đặt ra TNHS hay không, nếu đặt

ra thì “chủ thể nào” phải chịu TNHS?

Từ thực tiễn đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian

qua nhận thấy: tội phạm này diễn ra hết sức phức tạp, với tính chất, mức độ nguy

140

hiểm ngày càng cao, xuất hiện nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, tinh

vi, xảo quyệt. Các đối tượng phạm tội lợi dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật ở

trình độ cao hơn để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho xã

hội, nhất là các hành vi: sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; phát tán chương trình tin học gây

hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; cản

trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử... Bối cảnh tình hình đó cho thấy sự cần thiết, cấp bách của việc tiếp

tục hoàn thiện PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta hiện

nay, trong đó có TNHS đối với loại tội phạm này. Từ những đòi hỏi khách quan

của tình hình kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ của

thế giới và trong nước cùng những diễn biến phức tạp, nguy hiểm của các hành

vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực CNTT, MVT cần được “tội phạm hóa” hoặc

đổi mới cách tiếp cận về TNHS đối với tội phạm này. Qua nghiên cứu các chế

định TNHS đối với phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như thực tiễn áp

dụng TNHS đối với tội phạm này đã cho thấy không ít các quy phạm liên quan

đến chế định TNHS trong BLHS hiện hành còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót

nhất định, gây khó khăn cho việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT trong thực tế.

4.1.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Ngoài việc khắc phục các nguyên nhân của những hạn chế nêu tại Chương

3, áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn phải đảm

bảo các yêu cầu cụ thể, đó là:

4.1.2.1. Yêu cầu đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong áp dụng trách nhiệm

hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi hoạt động áp dụng TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp

luật. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xử lý người phạm tội trong lĩnh

vực CNTT, MVT phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các quy định của pháp luật, đảm

bảo tính công bằng, khách quan, minh bạch, phù hợp các quy định của pháp luật.

Đáp ứng được yêu cầu này thì mới đảm bảo hiệu quả tích cực trong áp dụng

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như trong công tác

141

phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.

Thực tế cho thấy còn một số hạn chế, thiếu sót trong phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, áp dụng TNHS đối với tội

phạm này nói riêng từ phía các cơ quan chức năng, đặt ra yêu cầu cần sớm khắc

phục, nhất là trong việc định tội danh, quyết định áp dụng hình thức, mức độ

TNHS đối với chủ thể phạm tội phải đảm bảo đúng pháp chế XHCN, theo nguyên

tắc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không được bỏ lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội và tránh nặng - nhẹ bất công bằng. Yêu cầu tiếp tục

hoàn thiện PLHS và bảo đảm hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT đã, đang được đặt ra cấp bách và phải đảm bảo công bằng, bình

đẳng, theo đúng PLHS nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện rõ

nét chính sách hình sự của nước ta.

4.1.2.2. Yêu cầu bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân trong

chính sách hình sự

Quyền con người, quyền công dân được coi là những điểm sáng, tiến bộ vượt

bậc trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Theo đó, việc phòng ngừa và đấu tranh

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, áp dụng TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng phải đặc biệt coi trọng việc bảo vệ

quyền con người, quyền công dân mà trước đó là tôn trọng và bảo vệ công lý, lẽ

phải và sự công bằng. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc hoàn thiện PLHS nói chung,

trong đó có PLHS về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải đề

cao và đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo pháp luật, hạn chế ở mức

thấp nhất và tránh việc xâm phạm, làm ảnh hưởng đến các quyền này mà pháp luật

đã xác định. Theo đó, các quy định của PLHS cần minh bạch, rõ ràng để tránh sự

lạm dụng, áp dụng tùy tiện dẫn đến gây thiệt hại cho chủ thể liên quan.

Yêu cầu này được quán triệt, thực hiện tốt sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý vững

chắc, nhằm bảo vệ an toàn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tránh khỏi những tác

động tiêu cực không đáng có và không được phép có khi tiến hành áp dụng

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, giúp bảo vệ tốt hơn quyền

con người, quyền công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói

chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Qua đó thể hiện được

công lý và củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào công lý, lẽ phải và sự

142

công bằng trong chính sách hình sự của nước ta.

4.1.2.3. Yêu cầu tiếp tục đổi mới, cải cách tư pháp, đặc biệt là tư pháp hình sự

Việc nâng cao hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT phải gắn kết chặt chẽ với yêu cầu tiếp tục đổi mới, cải cách tư

pháp, nhất là cải cách tư pháp hình sự ở Việt Nam trong bối cảnh tình hình mới.

Trong vấn đề này, phải chú trọng gắn việc hoàn thiện quy định của PLHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có quy định của PLHS về TNHS

đối với tội phạm này với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát

triển CNTT, MVT cũng như chiến lược cải cách tư pháp (trong đó có tư pháp

hình sự) thời gian tới. CNTT, MVT ngày càng có vai trò quan trọng trong sự

nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong Nghị quyết số

52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia

cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Bộ Chính trị xác định: “Tập trung phát

triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như: Công nghiệp công nghệ

thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo

thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch

số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo”. Để làm tốt việc hoàn

thiện PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

này cần quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong

đổi mới, cải cách tư pháp, trong đó có cải cách tư pháp hình sự hiện nay.

Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn

thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã xác định cụ

thể: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn

trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng

ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư

pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xây dựng chế định tố tụng tư

pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân

chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo

đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố

tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các

phương thức tố tụng tư pháp”. Đó là căn cứ quan trọng để chúng ta tiếp tục hoàn

thiện PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

143

CNTT, MVT trong thời gian tới. PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

cần bổ sung các tình tiết định tội, định khung tăng nặng TNHS; cụ thể hoá các

tình tiết định tính trong các cấu thành tội phạm, đồng thời sửa đổi các tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT; xác định rõ ràng cơ sở của TNHS và các hình thức

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhằm bảo đảm phù hợp với

thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

4.1.2.4. Yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Trong thời gian qua cũng như tương lai sắp tới, CNTT, MVT tiếp tục có sự

phát triển rất mạnh mẽ, với nhiều ứng dụng ngày càng đa dạng trong đời sống

kinh tế, xã hội ở cả thế giới và trong nước. Có thể thấy, lĩnh vực nào hiện nay

cũng đều có sự ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ, đặc biệt

là CNTT, MVT. Cùng với các thời cơ và thuận lợi mang lại, sự phát triển ấy cũng

kéo theo nhiều nguy cơ, hiểm họa nghiêm trọng gây mất an ninh, an toàn, mà tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là minh chứng rõ nét, cụ thể. Trước bối cảnh

tình hình mới, Việt Nam phải đặt ra yêu cầu cao hơn, cấp bách hơn trong công tác

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Theo đó,

cần chú ý những phương thức, thủ đoạn phạm tội mới được thực hiện với quy mô

lớn hơn, tính chất phức tạp hơn và nhất là khó khăn hơn trong việc điều tra, xử lý,

áp dụng TNHS. Việc hoàn thiện quy định về PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải xem xét toàn diện các

yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý, đạo đức,... để đề xuất những vấn đề

cần sửa đổi, bổ sung về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có cả

các quy định về TNHS đối với tội phạm này trong BLHS hiện hành.

PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, PLHS về TNHS

đối với tội phạm này nói riêng phải đảm bảo thuận lợi cho hoạt động áp dụng,

phân hóa và đánh giá chính xác mức độ chịu TNHS của chủ thể phạm tội. Hệ

thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT cần tạo hành lang pháp lý

an toàn, ổn định để thúc đẩy người dân, doanh nghiệp tham gia đầu tư, quản lý,

khai thác và sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng CNTT, MVT cũng như phát huy

được trách nhiệm trong bảo vệ an toàn cơ sở hạ tầng thông tin của quốc gia, góp

phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới,

144

kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang diễn ra mạnh mẽ.

Thực tế phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT cũng cho thấy nhiều vướng mắc, bất cập, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn

thiện PLHS cũng như bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT như: chưa hình sự hóa một số hành vi nguy hiểm đáng kể

cho xã hội trong lĩnh vực CNTT, MVT, một số tội phạm trong lĩnh vực này chưa

được quy định cụ thể và giải thích rõ ràng, chưa rõ ranh giới giữa các tội phạm

cụ thể trong cùng nhóm tội này, giữa tội phạm trong nhóm này với một số tội

phạm khác, việc quy định và áp dụng các hình thức của TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực này cũng chưa hoàn toàn phù hợp, chưa thực sự thống nhất, đồng

bộ cũng như chưa phát huy hiệu quả của TNHS đối với chủ thể phạm tội.

4.1.2.5. Yêu cầu hội nhập quốc tế

Đất nước ta đã và đang rất tích cực tham gia quá trình toàn cầu hóa, đẩy

mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập về pháp luật, hội nhập tư

pháp. Quá trình hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập trong lĩnh vực CNTT, MVT

của nước ta là một xu thế tất yếu, không thể phủ nhận. Nó sẽ mang lại những kết

quả tốt đẹp, nhưng cũng sẽ có không ít nhưng khó khăn, thách thức và cả nguy

cơ đe dọa khi tình hình tội phạm trong lĩnh vực này đã và sẽ có chiều hướng gia

tăng và diễn biến phức tạp.

Qua nghiên cứu quy định của luật pháp quốc tế cho thấy tính phù hợp của

việc quy định pháp nhân thương mại có thể là chủ thể của tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT cũng như việc mở rộng phạm vi bị coi là tội phạm đối với một

số hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, việc BLHS hiện hành ở nước ta chưa

xác định chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là pháp nhân thương

mại cũng như xác định giới hạn hạn chế đối với các hành vi nguy hiểm bị coi là

tội phạm trong lĩnh vực này đang thực sự là những “rào cản” trong quá trình áp

dụng pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện TNHS đối với tội phạm này.

Yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung ở nước ta

liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có PLHS về tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT nói riêng cần có sự điều chỉnh, bổ sung cho tương thích, phù

hợp, tạo nền tảng để hợp tác quốc tế sâu rộng, hiệu quả, đồng thời phục vụ đắc

lực cho công tác phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT vốn có tính quốc tế này. Cùng với đó, cũng cần chú ý sự phù hợp trong các

145

quy định với các cam kết của Việt Nam khi tham gia các điều ước quốc tế, thỏa

thuận quốc tế về song phương và đa phương có liên quan trong lĩnh vực CNTT,

MVT cũng như phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kinh tế, xã hội, khoa học

kỹ thuật, CNTT, MVT.

4.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm

trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Trên cơ sở các quy định của BLHS năm 2015 về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT cũng như kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như tham khảo pháp luật quốc tế

liên quan, theo Nghiên cứu sinh, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần tiếp tục được hoàn thiện

theo các nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể trong BLHS về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT

- Điều 285. “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị,

phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” cần quy định bổ sung các hành vi

“chiếm hữu, sở hữu nhằm cho người khác sử dụng” và “đề nghị người khác sử

dụng, nhập khẩu” công cụ, thiết bị, phần mềm và thay cụm từ “mục đích trái pháp

luật” bằng cụm từ “mục đích phạm tội”.

Trên thực tế chúng ta thấy, những hành vi “chiếm hữu, sở hữu nhằm cho

người khác sử dụng” hoặc “đề nghị người khác sử dụng, nhập khẩu” công cụ, thiết

bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích phạm tội cũng nguy hiểm không kém gì so

với hành vi mua bán, trao đổi, tặng cho quy định tại Điều 285 BLHS năm 2015.

Những hành vi như vậy đã, đang và sẽ diễn ra ngày càng nhiều. Việc bổ sung các

hành vi này và Điều luật sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý đối với những hành vi

nguy hiểm này khi xảy ra trong thực tiễn.

Bên cạnh đó, việc thay cụm từ “mục đích trái pháp luật” tại tên điều luật và

khoản 1, Điều 285 bằng cụm từ “mục đích phạm tội” để thu hẹp phạm vi xử lý

hình sự, rất phù hợp xu thế nhân đạo, hướng thiện trong việc hoàn thiện PLHS

hiện nay ở đất nước ta. Vì “mục đích trái pháp luật” có phạm vi rất rộng, bao gồm

cả vi phạm hành chính, vi phạm dân sự. Tham khảo Công ước Bu-đa-pet 2001,

Luật mẫu 2002 đều quy định đối tượng phạm tội của tội này là các công cụ, thiết

bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Do

146

đó, việc sửa đổi để thu hẹp phạm vi đối tượng tác động của tội phạm này là cần

thiết và phù hợp. Lúc này tên của Điều 285 sẽ là “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi,

tặng cho, chiếm hữu, sở hữu nhằm cho người khác sử dụng hoặc đề nghị người khác

sử dụng, nhập khẩu công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích phạm tội”.

Cuối cùng, để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất về kỹ thuật lập pháp khi

quy định về tình tiết tăng định khung đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT, nên bỏ cụm từ “về tài sản” tại điểm đ, khoản 2 và điểm b, khoản 3 Điều

285 BLHS hiện hành.

- Điều 286. “Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, bổ sung cụm từ “... hoạt

động của... ” vào mô tả hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm của tội này

(đảm bảo kỹ thuật lập pháp) cho phù hợp với tên điều luật. Theo đó, khoản 1

Điều 286 sẽ là: “1. Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho

hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một

trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ...”:

- Điều 287. “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử” đang có sự bất cập về tội danh: không

bao gồm hết tất cả các đối tượng điều chỉnh trong nội dung của điều luật. Cụ thể,

theo tội danh chỉ có đối tượng là “mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử” nhưng nội dung điều chỉnh thì có thêm “dữ liệu điện tử”. Do đó cần sửa

tội danh của Điều 287 thành: “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc dữ liệu điện tử”.

Ngoài ra, cần tăng mức phạt tiền trong định khung hình phạt của Điều 287

bởi lẽ hiện tại quy định về định mức phạt tiền so với hậu quả thiệt hại do tội phạm

gây ra và so với số tiền thu lợi bất chính của người phạm tội thì còn chưa phù hợp.

Cụ thể, khoản 1 quy định mức phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng nhưng

một trong các trường hợp người phạm tội lại thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến

dưới 200 triệu đồng (mức tối thiểu của khung hình phạt tiền nhỏ hơn mức tối thiểu

từ số tiền thu lợi bất chính), theo quan điểm của Nghiên cứu sinh thì số tiền bị

phạt ít nhất cũng phải bằng hoặc lớn hơn số tiền thu lợi bất chính mà người phạm

tội có được hoặc so với số giá trị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.

- Điều 288. “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng

viễn thông”, bổ sung thêm đối tượng là “những thông tin có khả năng gây tác

147

hại lớn đối với xã hội” vào cấu thành cơ bản của tội phạm. Bên cạnh đó, cần

nâng mức tối thiểu của khung hình phạt tiền ít nhất phải bằng mức tối thiểu từ số

tiền mà người phạm tội đã thu lợi bất chính. Theo đó, Điều 288 BLHS năm 2015

sẽ như sau: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất

chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ

100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm

uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc đối với những thông tin có khả năng

gây tác hại lớn đối với xã hội thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến

200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ

06 tháng đến 03 năm ...”

Bên cạnh đó, bổ sung dấu hiệu tăng nặng định khung “tái phạm nguy

hiểm” vào khoản 2 Điều 288. Như vậy, dấu hiệu “tái phạm nguy hiểm” được sử

dụng là dấu hiệu định khung tăng nặng tại khoản 2 của tất cả các tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT sẽ đảm bảo tính thống nhất. Đồng thời, khi có quy định

dấu hiệu này sẽ góp phần tốt hơn trong việc phân hoá TNHS. Các nội dung còn

lại của Điều 288 giữ nguyên.

- Điều 290. “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” cần bỏ cụm từ “nếu không thuộc trường

hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này” tại khoản 1. Cụm từ

này là thừa, thực sự không cần thiết, vừa dễ gây ra hiểu nhầm. Bởi vì tội sử dụng

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản (Điều 290) được coi là điều luật riêng cụ thể so với tội trộm cắp tài

sản (Điều 173) và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Nếu người phạm tội

sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài

sản thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều

290 thì mới bị xử lý về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu không thoả mãn yếu tố cấu

thành của tội này nhưng thoả mãn cấu thành tội phạm tại Điều 173 hoặc Điều

174 thì xử lý về tội trộm cắp tài sản hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tiếp đó, cần điều chỉnh mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội sử

dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản lên tù chung thân. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với

tội này theo quy định tại khoản 4 Điều 290 BLHS hiện hành là 20 năm tù. So sánh

148

giữa tội này và tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

(Điều 174) chỉ khác nhau cơ bản về công cụ thực hiện tội phạm là sử dụng CNTT,

MVT, điều đó làm cho tính chất của tội phạm tại Điều 290 trở nên nguy hiểm hơn.

Song BLHS năm 2015 lại quy định hình phạt của tội này lại nhẹ hơn so với tội lừa

đảo chiếm đoạt tài sản (mức hình phạt cao nhất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

là tù chung thân (khoản 4 Điều 174)). Vì vậy, Nghiên cứu sinh đề nghị sửa đổi

hình phạt tại khoản 4 Điều 290 lên mức cao nhất là tù chung thân, vừa thể hiện sự

răn đe, trừng trị thích đáng với người phạm tội, vừa thể hiện sự công bằng, nghiêm

minh của pháp luật. Tất nhiên, đây cũng là định khung hình phạt cao nhất áp dụng

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Với loại tội phạm này, không cần

thiết và chưa đến mức phải áp dụng hình phạt tử hình (đi ngược với xu hướng

nhân đạo hóa trong Luật Hình sự Việt Nam hiện nay).

- Điều 294. “Tội cố ý gây nhiễu có hại”, có thể bỏ cụm từ “cố ý” trong tên

Điều luật, chỉ còn là “Tội gây nhiễu có hại”. Đồng thời cũng bỏ cụm từ này ở

trong khoản 1 của Điều luật để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất.

Thứ hai, quy định thêm tình tiết tăng nặng định khung đối với một số tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

(1) Bên cạnh việc bổ sung dấu hiệu tăng nặng định khung “tái phạm nguy

hiểm” vào khoản 2 Điều 288. “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy

tính, mạng viễn thông” đã nêu ở trên, Nghiên cứu sinh cũng đề xuất quy định thêm

dấu hiệu tăng nặng định khung “... hoặc bị ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe,

tinh thần” sau quy định “Xâm phạm bí mật cá nhân dẫn đến người bị xâm phạm

tự sát” quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 288. Bởi lẽ nếu hành vi phạm tội này xâm

phạm bí mật cá nhân dẫn đến việc người bị xâm phạm tự sát hoặc bị ảnh hưởng

nghiêm trọng tới sức khỏe, tinh thần, như: dẫn đến bị thần kinh, tâm thần,.. thì cũng

cần thiết phải có chế tài nặng hơn đối với người phạm tội.

(2) Bổ sung tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” vào cấu thành tăng nặng

trong các Điều 286, 287, 289, 291, 293, 294

(3) Bổ sung tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” vào cấu thành tăng

nặng trong các Điều 285, 290, 291 để xử lý nghiêm khắc hơn đối với những

người lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác, nhiệm vụ được giao để thực

hiện tội phạm đó.

Việc bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung đối với một số tội phạm

149

trong lĩnh vực CNTT, MVT nêu trên vừa thể hiện sự đồng bộ, thống nhất trong

cùng nhóm tội phạm, vừa góp phần phân hóa tội phạm, tạo cơ sở để xử lý tội

phạm và chủ thể phạm tội một cách phù hợp, thích đáng.

Thứ ba, nghiên cứu điều chỉnh một số quy định về hình phạt chính, hình phạt

bổ sung và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT trong BLHS hiện hành

Tại BLHS năm 2015, trong quy định về hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối

với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT thì khoảng cách thời hạn phạt tù

giữa mức khởi điểm thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt tù có thời

hạn còn chênh lệch khá lớn: từ 03 tháng đến 02 năm; từ 06 tháng đến 03 năm; từ

01 năm đến 05 năm; từ 02 năm đến 07 năm; từ 03 năm đến 07 năm; từ 07 năm

đến 12 năm; từ 07 năm đến 15 năm; thậm chí là từ 12 năm đến 20 năm (chênh

lệch đến 08 năm). Do vậy, cần điều chỉnh thu hẹp khoảng cách này lại, tránh gây

khó khăn cho Tòa án khi xác định TNHS, đồng thời phân hóa rõ nét TNHS đối

với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Bên cạnh đó, mức khởi đầu của một số khung hình phạt tù có thời hạn rất thấp,

chỉ từ 03 tháng tù. Chúng ta có thể thấy 03 tháng tù là quá ngắn để trừng trị người bị

coi là phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Do đó, nhằm tăng cường tính răn đe,

giáo dục, cải tạo người bị kết án cũng như tạo ra sự phòng ngừa chung đối với xã

hội, BLHS cần điều chỉnh tăng mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn từ 03

tháng lên 06 tháng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền thì BLHS hiện hành quy định mức phạt

rất đa dạng và tùy nghi áp dụng. Đặc biệt là giới hạn định mức phạt tiền từ thấp nhất

đến cao nhất được quy định khá rộng: mức phạt cao nhất gấp nhiều lần mức khởi

điểm, đáng chú ý có hình phạt tiền mà khoảng cách chênh lệch lớn nhất là 20 lần (từ

5 triệu đồng đến 100 triệu đồng), dễ dẫn tới việc cơ quan có thẩm quyền không áp

dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung hoặc có áp dụng nhưng rất dễ áp dụng tùy

tiện. Để thuận tiện và mang lại hiệu quả trong việc áp dụng hình phạt bổ sung là

hình phạt tiền, theo Nghiên cứu sinh, BLHS nên quy định không theo một số tiền

chung mà theo mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc số tiền, tài sản mà

người phạm tội chiếm đoạt được trong vụ án (phạt tiền từ 01 lần đến 05 lần giá trị

tiền, tài sản chiếm đoạt được hoặc thiệt hại do tội phạm gây ra).

Ngoài ra, trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc

150

người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại. Thực tế

rất ít khi áp dụng biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi. Theo đó, cần bắt buộc

người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải công khai xin lỗi cơ quan, tổ chức,

cá nhân bị thiệt hại và cả trước Nhà nước và pháp luật. Cũng cần lưu ý rằng, pháp

luật quy định biện pháp này chỉ do Tòa án áp dụng và nó có thể được áp dụng cùng

với hình phạt hoặc thay cho hình phạt khi người phạm tội được miễn hình phạt hay

miễn TNHS. Buộc người phạm tội công khai xin lỗi bị hại chỉ có thể được áp dụng

trên cơ sở tự nguyện của người phạm tội và sự đồng ý của bị hại.

Thứ tư, bổ sung quy định về việc pháp nhân thương mại phải chịu TNHS

về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS

Trên cơ sở tham khảo pháp luật quốc tế và thực tiễn tình hình áp dụng TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian qua cho thấy yêu

cầu cần thiết sớm phải bổ sung quy định về chủ thể phạm tội trong lĩnh vực

CNTT, MVT ngoài là cá nhân thì cần phải có pháp nhân thương mại. Việc bổ

sung này sẽ lấp đầy “khoảng trống” hiện tại đang tạo kẽ hở cho các hoạt động

phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT

vốn ngày một phức tạp. Khi được bổ sung quy định này, BLHS sẽ thực sự phát

huy hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng, góp phần khắc phục tốt hơn những thiệt hại

do tội phạm gây ra, giúp tịch thu tài sản, tăng nguồn công quỹ, đền bù xứng đáng

cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do tội phạm gây ra và quan trọng

hơn cả là phân hóa rõ nét TNHS giữa pháp nhân thương mại và cá nhân người

phạm tội trong cùng một vụ án.

Cùng với sự cần thiết, việc bổ sung này còn mang tính cấp bách, bởi lẽ: (1)

nếu pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm này sẽ gây ra hậu quả rất lớn với

tính chất khác hẳn so với cá nhân thực hiện; (2) động cơ phạm tội của tội này

thường là vụ lợi, trong khi đó pháp nhân thương mại là tổ chức hoạt động nhằm

mục đích lợi nhuận nên hoàn toàn và rất dễ có thể thực hiện tội phạm này. Một

số văn bản quốc tế như Công ước Bu-đa-pet năm 2001 tuy không quy định bắt

buộc nhưng cũng đã đề cập đến việc xử lý TNHS của pháp nhân đối với tội này,

kể cả biện pháp xử lý hình sự.

Thứ năm, BLHS phải tiếp tục làm rõ và phân hóa cao độ TNHS đối với từng

loại tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT với xu hướng đa dạng hóa các

151

hình thức TNHS đối với tội phạm này

Đối với loại hình phạt chính, hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp áp

dụng đối với chủ thể phạm tội này, nhà làm luật cần chú ý mở rộng thêm các

hình phạt không tước tự do (như hình phạt cảnh cáo) nhưng vẫn phải đảm bảo

tính răn đe của PLHS. Đặc biệt phải chú trọng và đảm bảo xu thế nhân đạo theo

PLHS hiện đại. Từ đó, Nghiên cứu sinh đề xuất một số gợi mở như: Xem xét

miễn, giảm TNHS đối với chủ thể phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT trong

trường hợp người phạm tội đã khắc phục triệt để hậu quả, thiệt hại do tội phạm

gây ra và góp phần giải quyết hiệu quả những nguyên nhân, điều kiện của tội

phạm trong lĩnh vực này, nhất là đối với các loại tội phạm thuộc loại ít nghiêm

trọng. Bên cạnh đó, cần phân hóa, làm rõ và áp dụng chính xác TNHS đối với

các giai đoạn cụ thể trong quá trình thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội,

phạm tội chưa đạt trong quy định của một số Điều luật như: Điều 285, 286, 287,

288, 290, 291 của BLHS hiện hành.

Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự theo hướng nâng

cao tính khả thi, tính dự báo trong các quy định của BLHS và mở rộng nguồn

quy định về tội phạm và TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

Nghiên cứu bổ sung vào Phần chung hoặc Phần các tội phạm của BLHS các

quy định mang tính giải thích, định nghĩa rõ ràng một số khái niệm cơ bản như:

TNHS; cơ sở TNHS; thời điểm phát sinh và kết thúc TNHS; thẩm quyền xác định

TNHS. Đặc biệt là khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,... để làm căn

cứ xem xét TNHS, vấn đề truy cứu TNHS nói chung, TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng (tại mục 2, chương XXI, BLHS hiện hành).

Nghiên cứu sinh cũng kiến nghị xây dựng 01 Chương riêng quy định về các

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS thay vì chỉ có một mục trong

Chương XXI của BLHS hiện nay. Theo đó, Chương về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT sẽ bao gồm 09 tội danh được quy định tại Mục 2 Chương XXI của

BLHS hiện hành và bổ sung thêm những tội danh mới, quy định về những hành

vi phạm tội mới được dự báo sẽ phát sinh trong tương lai.

Ngoài ra, nên mạnh dạn nghiên cứu để sớm có thể quy định về tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đối với các tội phạm đó trong các luật chuyên

ngành. Đề xuất này tuy vượt ra khỏi quan niệm về phạm vi “tội phạm chỉ được quy

định trong BLHS”, song không phải là không có tính khả thi. Việc sửa đổi BLHS

152

theo hướng quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đặt ra

đối với các tội phạm này không chỉ được quy định trong BLHS mà còn có thể

được quy định trong các luật chuyên ngành (Luật Công nghệ thông tin, Luật

Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Giao dịch điện tử, Luật Tần số vô

tuyến điện, Luật An ninh mạng, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước,...) sẽ tạo ra sự linh

hoạt trong đấu tranh với các loại tội phạm mới xuất hiện, đặc biệt là tội phạm mới

trong lĩnh vực CNTT, MVT, giúp tăng cường răn đe, đồng thời tạo sự ổn định cần

thiết của BLHS, tránh phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung BLHS. Khi đã mở rộng

nguồn của luật hình sự thì các hành vi phạm tội mới sẽ liên tục được cập nhật khi

Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành mà không

cần phải sửa đổi BLHS. Kiến nghị, đề xuất này vừa đáp ứng được yêu cầu của

thực tiễn đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, vừa bảo đảm sự ổn

định lâu dài của BLHS. Đương nhiên, việc quy định các tội phạm cụ thể trong lĩnh

vực CNTT, MVT, kèm theo đó là TNHS đối với tội phạm này trong các luật

chuyên ngành phải dựa trên quy định tại Phần chung của BLHS và tuân thủ chặt

chẽ các yêu cầu, quy định khác có liên quan.

4.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả trách nhiệm hình sự đối

với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

4.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất

pháp luật; tổng kết thực tiễn và phát triển hệ thống án lệ

Việc xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, giải thích việc áp dụng

TNHS nói chung và TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng

có ý nghĩa rất quan trọng để áp dụng đúng quy định về TNHS đối với tội phạm

này. Trong thời gian tới đây, để các quy định của BLHS năm 2015 nói chung, quy

định tại mục 2, Chương XXI về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng

tiếp tục được thực hiện hiệu quả thì các nội dung cần được khẩn trương giải thích,

hướng dẫn đó là vấn đề xử lý TNHS đối với pháp nhân thương mại; các quy định về

các tội phạm mới, hình phạt mới; các quy định về tội phạm hóa, phi hình sự hóa... Đây

đều là những vấn đề mới nên cần có sự giải thích, hướng dẫn cụ thể để các cơ

quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng tốt trong thực tiễn. Cùng với hoạt động giải

thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất PLHS, công tác tổng kết thực tiễn và phát

triển án lệ cần được đẩy mạnh nhằm bảo đảm chất lượng áp dụng TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn hiện nay. Qua công tác này, các

153

nội dung mới và các vướng mắc trong thực tiễn xét xử sẽ được giải thích, hướng

dẫn áp dụng một cách hiệu quả. Đây là giải pháp vô cùng hữu hiệu trong tình hình

hiện nay, khi mà các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật

trong xét xử đang thiếu hụt, trong khi BLHS vẫn còn nhiều quy định cần có sự

giải thích, hướng dẫn chi tiết thêm, nếu không sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng

các quy định này. Hiện nay, liên ngành các cơ quan tư pháp, cơ quan chức năng ở

Trung ương chưa có văn bản hướng dẫn mới để thay thế Thông tư liên tịch số

10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012

trong khi nhiều nội dung hướng dẫn trong Thông tư này đã không còn phù hợp.

Từ đó đặt ra yêu cầu hết sức cấp thiết đối với liên ngành tư pháp Trung ương phải

sớm ban hành các văn bản dưới luật về công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội

phạm và các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, văn

bản hướng dẫn công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm trong lĩnh vực

này nói riêng. Nhà nước nên giao cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì,

phối hợp các bộ, ngành hữu quan như: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân

dân tối cao, Bộ Thông tin và truyền thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam…

xây dựng Thông tư liên ngành về phòng, chống tội phạm sử dụng CNTT, MVT.

Cùng với đó là Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an,

Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội danh

liên quan trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS hiện hành.

Trước mắt trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần giải thích,

hướng dẫn một số nội dung sau:

Một là, giải thích “công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử” tại khoản 1 Điều 285. Chúng ta

đều biết rằng các công cụ, thiết bị, phần mềm có thể sử dụng cho nhiều mục

đích. PLHS cần xác định rõ phạm vi khái niệm “công cụ, thiết bị, phần mềm có

tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử” để các

cơ quan chức năng tránh áp dụng xử lý tràn lan, tùy tiện. Bản chất đó là các công

cụ, thiết bị, phần mềm có thể được sử dụng để xâm nhập bất hợp pháp, gây cản

trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Hai là, giải thích “chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử” trong khoản 1 Điều 286 là chương trình tự

154

động hóa xử lý thông tin, gây ra hoạt động không bình thường cho mạng máy

tính, mạng viễn thông hoặc sao chép, sửa chữa, thay thế, xóa bỏ thông tin lưu trữ

trong mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.

Ba là, giải thích “hành vi phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt

động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”: là hành vi cố ý

lan truyền làm lây nhiễm các chương trình vi-rút, các mã độc hoặc chương trình

tin học khác làm biến dạng, huỷ hoại các dữ liệu của máy tính, phương tiện điện

tử, gây hại cho các thiết bị điện tử trong mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc

giữa các thiết bị điện tử với nhau.

Bốn là, giải thích, hướng dẫn cụ thể về các hành vi cản trở hoặc gây rối

loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử tại

Điều 287. Theo đó: (1) “Hành vi tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm,

dữ liệu điện tử” là hành vi cố ý xóa bỏ, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ

liệu điện tử mà không được sự đồng ý của chủ thể quản lý phần mềm, dữ liệu

điện tử đó; (2) “Ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử” là hành vi trái pháp luật, cố ý làm cho

việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

bị gián đoạn hoặc không thực hiện được, không sử dụng được; (3) “Hành vi

khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử” là hành vi cố ý của người không có quyền quản lý, vận

hành, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử làm ảnh

hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử bằng cách làm hư hỏng, xóa bỏ, làm suy giảm, thay thế hoặc nén dữ

liệu máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.

Năm là, giải thích, hướng dẫn tình tiết: “Lợi dụng quyền quản trị mạng máy

tính, mạng viễn thông” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 287 và điểm b khoản 2

Điều 288 là: sử dụng quyền quản lý, vận hành, khai thác và duy trì hoạt động ổn

định hệ thống mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị điện tử của mình để thực

hiện hành vi phạm tội.

Sáu là, “thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” quy định

tại khoản 1 Điều 288. Tính đến nay vẫn chưa có khái niệm “thông tin riêng hợp

pháp” mà chỉ có khái niệm về các thuật ngữ liên quan gần, được quy định trong

các văn bản pháp luật. Ví dụ: “thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch

vụ viễn thông” bao gồm: thông tin thuê bao viễn thông (tên, địa chỉ, số thuê bao

155

viễn thông và thông tin riêng khác mà người sử dụng cung cấp khi giao kết hợp

đồng với doanh nghiệp) và thông tin về việc sử dụng dịch vụ viễn thông (số thuê

bao viễn thông gửi, số thuê bao viễn thông nhận, vị trí thiết bị đầu cuối gửi, vị trí

thiết bị đầu cuối nhận, thời điểm gửi, nhận, thời lượng liên lạc, địa chỉ internet)

(khoản 4 Điều 6 Luật Viễn thông năm 2023). Hay như tại khoản 2 Điều 9 Luật

Công nghệ thông tin năm 2006, tổ chức, cá nhân khi hoạt động kinh doanh trên

môi trường mạng phải thông báo công khai trên môi trường mạng những thông

tin có liên quan, bao gồm: tên, địa chỉ địa lý, số điện thoại, địa chỉ thư điện tử;

thông tin về quyết định thành lập, giấy phép hoạt động hoặc giấy chứng nhận

đăng ký kinh doanh (nếu có); tên cơ quan quản lý nhà cung cấp (nếu có); thông

tin về giá, thuế, chi phí vận chuyển (nếu có) của hàng hóa, dịch vụ. Theo khoản

16 Điều 3 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ quy

định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng

(được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày

01/3/2018 và nay là Nghị định số 147/2024/NĐ-CP ngày 09/11/2024 của Chính

phủ), “thông tin cá nhân” là thông tin gắn liền với việc xác định danh tính,

nhân thân của cá nhân bao gồm: tên, tuổi, địa chỉ, số chứng minh nhân dân

hoặc số căn cước, số điện thoại, địa chỉ thư điện tử và thông tin khác theo quy

định của pháp luật. Cũng tại khoản 14, 15 Điều 3 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP

ngày 15/7/2013 nêu trên quy định: thông tin công cộng là “thông tin trên mạng

của một tổ chức, cá nhân được công khai cho tất cả các đối tượng mà không

cần xác định danh tính, địa chỉ cụ thể của các đối tượng đó”. Thông tin riêng là

“thông tin trên mạng của một tổ chức, cá nhân mà tổ chức, cá nhân đó không

công khai hoặc chỉ công khai cho một hoặc một nhóm đối tượng đã được xác

định danh tính, địa chỉ cụ thể”.

Qua các nội dung trên, “Thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá

nhân” được hiểu “là thông tin dữ liệu điện tử, gắn liền với mỗi cơ quan, tổ chức,

cá nhân đó, được pháp luật bảo đảm phù hợp, không được công khai hoặc chỉ

công khai cho một hoặc một nhóm đối tượng đã được xác định danh tính, địa chỉ

cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó”.

Bảy là, cần thống nhất khái niệm, giải thích về “thông tin trái với quy định

của pháp luật” và cụ thể các hành vi phạm tội của tội phạm để làm cơ sở nhận

diện, đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này nói chung, áp dụng TNHS đối

với tội phạm này nói riêng. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về hậu quả và các

156

mức độ để đánh giá tính nghiêm trọng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT theo hướng quy đổi thành tiền đối với những hậu quả như: Làm tê liệt,

gián đoạn, ngưng trệ, đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức dẫn tới thiệt hại là

cơ quan, tổ chức và người dân mất nhiều thời gian, tiền bạc mà không giải quyết

được công việc và cơ quan, tổ chức mất tiền trả lương cho người lao động của cơ

quan, tổ chức mình... Khi xem xét đến hậu quả phi vật chất có thể cân nhắc

những vấn đề: tần suất (số lần), khoảng thời gian người phạm tội thực hiện việc

gửi, phát tán, cung cấp nội dung vi phạm,... Ngoài ra, cần xác định rõ trách

nhiệm, nghĩa vụ, thời gian cung cấp thông tin của các nhà cung cấp mạng máy

tính, mạng viễn thông khi có yêu cầu đề nghị từ cơ quan chức năng, đảm bảo

quá trình điều tra, xử lý hành vi phạm tội được kịp thời, hiệu quả.

Tám là, “gây dư luận xấu” tại khoản 1 Điều 288 là gây ra những ý kiến

nhận xét, đánh giá tiêu cực, làm ảnh hưởng danh dự, gây giảm sút uy tín của cơ

quan, tổ chức, cá nhân.

Chín là, “dẫn đến biểu tình” tại điểm g khoản 2 Điều 288. Việt Nam hiện

nay chưa có Luật Biểu tình cũng như các quy định khác của pháp luật về biểu tình

nên chưa có khái niệm chính thức “biểu tình là gì”. Về cơ bản có thể giải thích

“dẫn đến biểu tình” là dẫn đến việc tập trung đông người để thể hiện quan điểm,

thái độ về một sự việc hoặc biểu dương lực lượng với mục đích, ý đồ nhất định.

Mười là, giải thích, hướng dẫn hành vi “Lừa đảo trong thương mại điện tử,

thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc

giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm d

khoản 1 Điều 290 là: hành vi sử dụng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin

sai sự thật trong lĩnh vực về sản phẩm, vấn đề trong lĩnh vực thương mại điện tử,

thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc

giao dịch chứng khoán nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý

tài sản, làm họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó; gửi tin

nhắn lừa trúng thưởng nhưng thực tế không có giải thưởng để chiếm đoạt phí

dịch vụ gửi tin nhắn; quảng cáo bán hàng trên mạng internet, mạng viễn thông

nhưng không giao hàng hoặc giao không đúng số lượng, chủng loại, chất lượng

thấp hơn hàng đã rao bán và các hành vi này không thuộc trường hợp quy định

tại Điều 174 BLHS năm 2015.

Mười một là, quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng tình tiết “Thiết lập, cung

157

cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản” tại điểm đ khoản

1 Điều 290 là: việc thiết lập, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet nhưng không được

cấp phép hoặc không đúng nội dung giấy phép được cấp để chiếm đoạt tài sản.

Bên cạnh đó, cần tập trung hướng dẫn phân biệt các trường hợp dễ gây nhầm

lẫn về định tội danh đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể:

Thứ nhất, phân biệt các trường hợp phạm tội quy định tại các điều: Điều

286, Điều 287 và Điều 289 BLHS hiện hành.

03 tội phạm này có nhiều điểm giao thoa, rất dễ nhầm lẫn khi định tội danh,

do đó cần có hướng dẫn cụ thể để phân biệt những điểm khác nhau cơ bản, làm

căn cứ định tội chuẩn xác. Điểm khác biệt cơ bản đó là ở mục đích và nhận thức

của người phạm tội, cụ thể:

Ở Điều 286: Người thực hiện hành vi phát tán chương trình tin học gây hại

cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, dữ liệu

điện tử không nhận thức và xác định trước được đối tượng bị tấn công.

Ở Điều 287: Để thực hiện được hành vi cản trở hoặc hành vi gây rối hay

hành vi xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử thì người phạm tội phải nhận thức và xác định rõ đối tượng sẽ tấn công từ

đầu. Người phạm tội có thể xâm nhập trái phép, sau đó tự ý xóa, làm tổn hại

hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải

dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc có hành

vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử.

Các hành vi này khác nhau ở mục đích của việc xâm nhập trái phép vào

mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử: nếu để gây rối loạn hoặc

cản trở hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thì

xử lý theo Điều 287, nếu nhằm chiếm đoạt tài sản thì xử lý theo Điều 290, còn

lại thì sẽ xử lý theo Điều 289. Trong mối quan hệ giữa Điều 286, 287 và 289 thì

Điều 286 và Điều 289 là điều luật chung, còn Điều 287 là điều luật cụ thể [44].

Thứ hai, phân biệt các trường hợp quy định tại Điều 290 với Điều 173 và

Điều 174 BLHS hiện hành.

Các tội này có sự khác nhau cơ bản về hành vi trong mặt khách quan của

cấu thành tội phạm, cụ thể:

Ở Điều 290: Người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử là công cụ trực tiếp để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của

158

nạn nhân, thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d, đ Khoản 1

Điều 290 BLHS năm 2015. Công cụ đó đóng vai trò quan trọng, quyết định vì

nếu không có mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thì người

phạm tội sẽ không chiếm đoạt được tài sản.

Ở Điều 173, 174: Khi hành vi phạm tội không thỏa mãn dấu hiệu được quy định

tại Điều 290 nhưng lại thoả mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm của “Tội trộm cắp tài

sản” (Điều 173) hoặc “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174) thì người phạm tội

sẽ bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng TNHS theo quy định đối với các tội phạm này.

Tiếp theo, về khó khăn, bất cập trong việc xóa án tích đối với người bị kết

án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, căn cứ khoản 4 Điều 70 BLHS năm

2015 thì Toà án sẽ không cấp giấy chứng nhận xoá án tích trong trường hợp

đương nhiên được xoá án tích mà việc này được thực hiện bởi cơ quan quản lý

cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp khi có yêu cầu của những người này. Trách nhiệm

của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là phải cập nhật thông tin về

tình hình án tích của người bị kết án. Vậy nên, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải có

văn bản hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan quản

lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp này, giúp tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo

chính xác thời hạn cấp Phiếu Lý lịch tư pháp trong những trường hợp đương

nhiên được xóa án tích. Việc này chắc chắn sẽ được xem xét, thực hiện nhanh

chóng và thuận tiện khi Đảng, Nhà nước đã thống nhất chủ trương chuyển nhiệm

vụ quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp và thực hiện dịch vụ công cấp Phiếu lý

lịch tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý về Bộ Công an quản lý. Bên cạnh đó, các cơ

quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng

thống nhất trong trường hợp người bị kết án về các tội phạm nói chung, trong đó

có tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng đã chấp hành xong hình phạt

chính, hết thời gian thử thách án treo, nhưng chưa thi hành hình phạt bổ sung,

chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác trong bản án của họ

đã được Tòa án tuyên vì lý chưa nhận được thông báo và quyết định thi hành án

của cơ quan thi hành án dân sự thì vẫn đương nhiên được xóa án tích. Điều này

thể hiện nguyên tắc nhân đạo, tính hướng thiện trong quy định và áp dụng TNHS

đối với người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta xoay

quanh chế định án tích.

Mặt khác, một hướng đi mới đã được khẳng định trong những năm gần đây,

159

đó là tăng cường áp dụng án lệ đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, án lệ khi được quy định và thực

hiện tại Việt Nam sẽ là một công cụ pháp lý để giúp cho Tòa án và các cơ quan có

thẩm quyền tiến hành tố tụng có định hướng thống nhất trong việc giải quyết các

vụ án nói chung, vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng góp

phần vào giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, nhất là

trong lúc nhiều quy định của pháp luật còn thiếu cụ thể, rõ ràng.

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW từ ngày 24/5/2005 về

"Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật định hướng đến năm 2020" (nay

được thay bằng Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành

Trung ương) và giao cho Tòa án nhân dân tối cao nhiệm vụ phát triển án lệ.

Cũng tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã xác định rõ, Tòa án nhân dân tối cao có

nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật,

phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Mới đây nhất năm 2024, Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân cũng quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao có nhiệm vụ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có

tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ” (điểm d khoản 3

Điều 48). Tại khoản 5 Điều 77 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 quy

định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án nhân dân tối

cao đó là: “Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng nghị quyết của Hội

đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp

luật trong xét xử, phát triển án lệ; công bố án lệ”. Trước đó, ngày 18/6/2019,

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết số 04/2019/NQ-

HĐTP về "Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ". Trên cơ sở này, đối

với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có thể trông đợi vào án lệ như một

mô hình mẫu trong việc nhận định, đánh giá các tình tiết phức tạp, gây nhiều

tranh cãi cũng như về việc áp dụng pháp luật để định tội danh và xác định TNHS

nhằm hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý để xử lý loại tội phạm này trong thời gian tới.

4.3.2. Chú trọng giám đốc kiểm tra việc xét xử tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Giám đốc kiểm tra việc xét xử là việc làm của Tòa án cấp trên đối với Tòa án

160

cấp dưới, nhằm đôn đốc, kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới, bảo đảm

việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua công tác giám đốc kiểm tra

việc xét xử, Tòa án cấp trên kịp thời phát hiện những sai lầm, vướng mắc của Tòa

án cấp dưới, từ đó có phương án khắc phục những sai lầm thông qua việc kháng

nghị, rút kinh nghiệm và tháo gỡ vướng mắc trong trường hợp các quy định của

pháp luật dẫn đến những cách hiểu không thống nhất.

Tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc

hội về việc thi hành BLHS năm 2015 đã giao “Tòa án nhân dân tối cao thông qua

tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử bảo đảm áp dụng thống nhất

pháp luật trong xét xử các quy định về “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả

rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số

lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc

biệt lớn”; khi cần thiết, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử

các điều, khoản, điểm khác trong Bộ luật Hình sự năm 2015”. Theo đó, cần có

hướng dẫn cụ thể cách xác định giá trị thiệt hại để áp dụng pháp luật cho thống nhất

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Đối với việc truy cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,

công tác giám đốc kiểm tra việc xét xử càng cần phải đề cao hơn nữa. Bởi lẽ một

mặt các vụ án trong lĩnh vực CNTT, MVT thường là những vụ án tương đối

phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, các đối

tượng đã triệt để lợi dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong việc thực hiện tội

phạm. Trong quá trình giải quyết các vụ án này, những người trực tiếp thụ lý

gặp phải nhiều khó khăn do hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật liên quan

đến phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội của các đối tượng. Do

vậy, muốn hoạt động áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT đạt hiệu quả thì đòi hỏi Tòa án cấp trên phải thường xuyên quan tâm đến

công tác giám đốc kiểm tra việc xét xử của các Tòa án cấp dưới.

4.3.3. Nâng cao năng lực pháp luật, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ áp

dụng pháp luật

Đội ngũ cán bộ đóng vai trò quyết định thành công hay hạn chế của hoạt

động áp dụng TNHS đối với tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT nói riêng. Từ những hạn chế về năng lực pháp luật, trình độ chuyên môn

161

nghiệp vụ cũng như sự thiếu kinh nghiệm của đội ngũ những người áp dụng

pháp luật là nguyên nhân trực tiếp, ảnh hưởng đến hiệu quả TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chúng ta cần có những giải pháp triệt để,

đồng bộ để góp phần giải quyết vấn đề này, cụ thể là:

Thứ nhất, phải quán triệt, nâng cao nhận thức pháp luật của cán bộ các cơ quan

tiến hành tố tụng về PLHS nói chung, các cán bộ trực tiếp nghiên cứu, áp dụng

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Việc này cần tiến

hành thường xuyên, liên tục để cập nhật những vấn đề mới, thành tựu mới về khoa

học kỹ thuật, công nghệ, những vấn đề pháp lý đặt ra trong công tác phòng ngừa,

đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mang hơi thở thời đại công

nghiệp 4.0, thích ứng nhanh chóng với biến đổi, phát triển về khoa học kỹ thuật,

công nghệ tiên tiến. Liên ngành các cơ quan tư pháp ở Trung ương, đặc biệt là Tòa

án nhân dân tối cao cần tích cực tổ chức các Hội nghị, Hội thảo, tăng cường trao

đổi, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT để mỗi cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng từ Trung ương đến

địa phương đều có sự nhận thức đầy đủ, toàn diện về tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT và TNHS đối với tội phạm này.

Thứ hai, phải tăng cường trang bị cho người tiến hành tố tụng kiến thức

chuyên môn và đào tạo, bồi dưỡng nội dung pháp lý về CNTT, MVT cho họ.

Đây thực sự là những điểm yếu của đội ngũ cán bộ áp dụng TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian qua. Đến nay chỉ có một số

đơn vị nghiệp vụ chuyên trách của Công an nhân dân là được đào tạo chuyên sâu

về an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, trong đó có

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, còn lại, đa số Điều tra viên, cán bộ điều

tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán là chưa được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực

này. Do đó, để đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả loại tội phạm này, nhất là việc

áp dụng đúng đắn, hiệu quả TNHS đối với tội phạm này thì rất cần thiết phải đào

tạo, bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn về CNTT, MVT cũng như những nội

dung pháp lý liên quan đến áp dụng TNHS đối với tội phạm này cho những

người tiến hành tố tụng, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án các cấp.

Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng: Trước mắt cần trang bị những kiến thức cơ

bản về CNTT, MVT như cấu tạo, cơ chế vận hành, hoạt động của máy tính,

mạng máy tính, mạng viễn thông, những phương thức, thủ đoạn sử dụng mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện các tội phạm nói

162

chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tại mục 2, Chương XXI, BLHS

năm 2015 nói riêng, các nguy cơ, hậu quả có thể xảy ra và cách thức phòng

ngừa, phát hiện, phục vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm. Tùy thuộc vào chức

năng, nhiệm vụ của mình mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán sẽ được

trang bị kiến thức, kỹ năng với các nội dung phù hợp, chẳng hạn như: Điều tra

viên cần cần biết phát hiện ra tội phạm, cách thức đối tượng đã thực hiện tội

phạm thế nào, biết phát hiện, thu thập, bảo quản và sử dụng chứng cứ điện tử.

Đối với Kiểm sát viên, Thẩm phán cần được đào tạo, bồi dưỡng để hiểu ý nghĩa

của từng loại chứng cứ điện tử và sử dụng tốt nhất chứng cứ điện tử trong chứng

minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội tại phiên tòa.

Về hình thức đào tạo, bồi dưỡng, các cấp, các ngành liên quan có thể tổ

chức đào tạo, bồi dưỡng theo từng đối tượng, gắn với yêu cầu và mục tiêu cụ thể,

theo từng chuyên đề với thời gian phù hợp. Chuyên đề bồi dưỡng có thể tập

trung vào kiến thức, kỹ năng xử lý, đặc biệt là áp dụng TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS năm 2015 hoặc các vấn đề đáng chú ý

khác theo từng lĩnh vực, khía cạnh liên quan đến các nội dung công việc.

Thứ ba, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ sở đào tạo tư pháp cần thường

xuyên tập huấn, trang bị kinh nghiệm đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT nói chung, kinh nghiệm áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói

riêng. Thực tế cho thấy nhiều cán bộ là những người tiến hành tố tụng rất thiếu kiến

thức và kinh nghiệm tố tụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nhất là

những địa bàn ít xảy ra loại án này. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng cần phối

hợp các cơ sở đào tạo tư pháp, đặc biệt là các Học viện, trường Công an nhân dân,

Học viện Tòa án để tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm về

tố tụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó chú trọng nội dung

áp dụng TNHS đối với loại tội phạm này nói riêng. Các Tòa án địa phương nơi xét

xử nhiều vụ án trong lĩnh vực CNTT, MVT cần tích cực trao đổi, chia sẻ và truyền

đạt kinh nghiệm cho các đơn vị, địa phương khác học tập. Đồng thời liên tục cập

nhật những kiến thức mới, kinh nghiệm mới trong áp dụng TNHS đối với tội phạm

này để các cơ quan và người tiến hành tố tụng nhanh chóng cập nhật thực tiễn và xử

lý hiệu quả tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.

Thứ tư, phải lưu ý cân nhắc lựa chọn để phân công cán bộ có năng lực pháp

luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm trong quá trình áp dụng

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nhất là cán bộ có kiến thức

163

hiểu biết chuyên sâu về lĩnh vực CNTT, MVT vốn rất đặc thù này. Bên cạnh yêu

cầu về năng lực pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thì những cán

bộ áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng phải có

đạo đức nghề nghiệp tốt, thực sự “chí công vô tư”, đảm bảo khách quan, công

bằng trong khi thực thi PLHS, tránh tình trạng “nặng - nhẹ”, tùy nghi vô nguyên

tắc. Lựa chọn và bố trí được đội ngũ cán bộ như vậy sẽ đảm bảo quyết định cho

việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được thuận lợi

và mang lại hiệu quả tốt.

Cuối cùng, phải quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, thường

xuyên khích lệ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ áp

dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT để họ thực sự yên tâm,

tận tụy, khách quan trong công tác, tránh xa các biểu hiện tiêu cực, ảnh hưởng

đến hiệu quả hoạt động tư pháp nói chung, áp dụng TNHS đối với tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.

4.3.4. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác phòng

ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn

thông nói chung cũng như áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này

nói riêng

Với đặc trưng là sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện

điện tử là công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm cũng như hoạt động phạm

tội xâm phạm đến an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử,

dữ liệu điện tử, do vậy, để áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT nói riêng, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này nói

chung thì phải đặc biệt chú trọng việc đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật

chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công tác.

Trong bối cảnh tình hình hiện nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày

càng phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tiến bộ vượt bậc của lĩnh vực CNTT,

MVT. Các đối tượng phạm tội cũng triệt để lợi dụng CNTT, MVT để thực hiện

tội phạm với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt, kỹ thuật che giấu cao, gây khó

khăn trong công tác phòng ngừa, phát hiện và điều tra, xử lý tội phạm. Như đã

phân tích ở trên, cùng với việc “hiện đại hóa” về con người thì phải quan tâm

“hiện đại hóa” về phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, bằng không

chúng ta sẽ bị lạc hậu, “chậm trễ” hơn tội phạm trên con đường phát triển CNTT,

164

MVT như vũ bão hiện nay. Theo đó, các cơ quan chức năng phải được ưu tiên,

đầu tư mua sắm, trang cấp những trang thiết bị hiện đại, những phương tiện kỹ

thuật có tính năng, tác dụng tốt để phát hiện, xử lý đối với loại tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT. Có như vậy, mới có cơ sở vững chắc để áp dụng hiệu quả

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta.

Trước sự vận động và phát triển của khoa học công nghệ, nhiều vấn đề mới

đã và đang đặt ra thách thức cho hoạt động phòng, chống tội phạm, như các thực

thể trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật, chuỗi khối Blockchain,... Nhưng nếu

chúng ta biết nắm bắt và vận dụng được những thành tựu của nó thì sẽ giúp ích

rất nhiều cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT. Trong đó có việc phục vụ để thực hiện hiệu quả TNHS đối với tội phạm

này. Điển hình như việc sử dụng AI trong điều tra, giải mã các hành vi phạm tội,

trợ giúp các Thẩm phán trong việc định tội danh và áp dụng TNHS phù hợp và

quan trọng nữa là góp phần vào việc dự báo tình hình tội phạm và tư vấn giải

pháp, ứng dụng phục vụ công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT. Muốn thực hiện điều đó, cần có ưu tiên đầu tư mạnh mẽ về kinh phí và cơ

chế đặc thù để mua sắm máy móc, trang bị hiện đại, xây dựng và vận hành các

giải pháp, phần mềm chuyên dụng phục vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm và

áp dụng TNHS đối với người phạm tội đó.

4.3.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế đáp ứng yêu cầu áp dụng trách nhiệm

hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông

Với tính chất quốc tế, hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được

thực hiện không bị giới hạn bởi không gian, khoảng cách địa lý. Nó đã trở thành

vấn đề mang tính toàn cầu, là nguy cơ, thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống.

Trong giai đoạn 2013 - 6/2024 ở nước ta, tỷ lệ bị cáo là người nước ngoài bị xét

xử về tội phạm này là 5,98% (khá cao so với những nhóm tội phạm khác). Chưa

kể là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn liên quan rất nhiều đến yếu tố

nước ngoài (người phạm tội trốn ra nước ngoài, trung tâm máy chủ tấn công ở

nước ngoài, nguồn tài sản (tiền) chiếm đoạt bị chuyển vào tài khoản ở ngân hàng

nước ngoài hoặc thậm chí có trường hợp nạn nhân ở nước ngoài,..). Những vấn đề

trên đặt ra yêu cầu rất cấp thiết trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, góp phần

phục vụ hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm này trong thời gian tới.

Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chúng ta mới chỉ ký kết Hiệp định tương

trợ tư pháp với 27 quốc gia; nhiều quy định của pháp luật Việt Nam chưa tương

thích với luật pháp các nước khác, nên gặp khó khăn trong thực hiện ủy thác 165

tương trợ tư pháp cũng như hợp tác quốc tế trong đấu tranh, xử lý tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT. Không chỉ riêng nước ta mà tất cả các quốc gia trên thế

giới đều phải hợp tác với nhau để chung tay giải quyết loại tội phạm nguy hiểm,

nhức nhối này. Thời gian tới, việc hợp tác quốc tế nhằm phòng, chống tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói

riêng cần tập trung vào một số vấn đề như sau:

Một là, tăng cường ký kết, áp dụng các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế

nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đặc biệt tới đây khi Việt Nam được Liên hợp quốc

lựa chọn là địa điểm ký kết thông qua Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm

mạng năm 2025 (Công ước Hà Nội). Khi gia nhập Công ước này sẽ giúp nước ta

hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật quốc gia, tương thích hơn với pháp luật của

các nước khác trên thế giới, tạo khung khổ pháp lý đấu tranh hiệu quả đối với tội

phạm này không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Điều này rất phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế gắn với đảm

bảo lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam hiện nay.

Hai là, tổ chức đa dạng các hình thức hợp tác cùng các nước, các cơ quan,

tổ chức quốc tế nhằm trao đổi thông tin, tình hình, chia sẻ kinh nghiệm phòng,

chống tội phạm trong lĩnh cực CNTT, MVT cũng như áp dụng TNHS đối với tội

phạm này, như: hội thảo, hội nghị, tọa đàm, trao đổi, tư vấn trực tiếp với quy mô,

tính chất quốc tế phù hợp.

Ba là, đẩy mạnh hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong quá trình tố tụng

đối với các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Phạm vi tương trợ tư

pháp nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này thông qua

các nội dung cụ thể như: tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan; triệu tập

người làm chứng, người giám định và nhất là các hoạt động thu thập, cung cấp

chứng cứ, trao đổi thông tin, xác minh thu hồi tài sản hay dẫn độ người phạm tội.

Bốn là, thông qua hợp tác quốc tế để nhận chuyển giao, tiếp nhận trang bị,

mua sắm và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị chuyên dùng trong đấu tranh, xử

lý cũng như áp dụng TNHS đối với loại tội phạm này một cách thuận lợi. Đặc

biệt là tranh thủ nguồn tài chính hỗ trợ để hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật

chuyên dùng phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT của lực lượng chức năng.

166

Năm là, cử cán bộ đi tập huấn, đào tạo nghiệp vụ về phòng, chống tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, nghiệp vụ trong xét xử, áp dụng TNHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng ở các nước trong khu vực

và trên thế giới, nhất là những nước có nền khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện

đại, có trình độ lập pháp và kinh nghiệm áp dụng pháp luật hiệu quả trong quản

lý xã hội cũng như phòng, chống tội phạm CNTT, MVT.

Tiểu kết Chương 4

Từ kết quả nghiên cứu về bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện PLHS

đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và yêu cầu bảo đảm áp dụng hiệu

quả TNHS đối với tội phạm này, Nghiên cứu sinh rút ra một số kết luận đó là:

Một là, để áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu, đó là: đảm bảo nguyên tắc pháp chế; bảo

vệ công lý, quyền con người, quyền công dân trong chính sách hình sự; tiếp tục

đổi mới, cải cách tư pháp, đặc biệt là tư pháp hình sự, phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và hội nhập quốc tế.

Hai là, hoàn thiện các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

vẫn tiếp tục phải được đặt ra cho dù BLHS năm 2015 đã có quy định. Điều này

xuất phát từ những bất cập chưa được BLHS năm 2015 khắc phục triệt để, từ

chính những bất cập mới của BLHS năm 2015 và đặc biệt là từ thực tiễn áp

dụng TNHS đối với tội phạm này hiện nay rất phức tạp, các hành vi vi phạm mới

đang biến động tinh vi, nhiều vấn đề mới liên quan đã nảy sinh cần được cụ thể

hóa, giải quyết chặt chẽ trên cơ sở quy định của pháp luật.

Ba là, việc hoàn thiện quy định về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT và TNHS đối với các tội phạm này trong BLHS là cần thiết, khách quan

theo hướng thực hiện chính sách hình sự nhằm nâng cao hiệu quả trừng trị, kết

hợp xu hướng nhân đạo, đề cao tính phòng ngừa và phát huy tính hướng thiện, ý

thức khắc phục hậu quả của người phạm tội. Từ vấn đề này, Nghiên cứu sinh

cũng đưa ra các đề xuất cụ thể về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT như áp dụng hình phạt tù chung thân đối với định khung nặng nhất trong

cấu thành tội phạm của Điều 290 hay như áp dụng biện pháp tư pháp buộc người

phạm tội phải công khai xin lỗi.

Bốn là, việc hoàn thiện PLHS nói chung và các quy định về TNHS đối với

tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng cần hướng tới xây dựng một hệ

167

thống pháp luật đồng bộ, tương thích, có các văn bản hướng dẫn, giải thích kịp

thời các quy định của BLHS trong thời gian tới, đẩy mạnh việc ban hành án lệ để

việc định tội danh và áp dụng TNHS trong các vụ án tương tự về sau sẽ đồng bộ,

thống nhất và thuyết phục hơn.

Năm là, bên cạnh giải pháp hoàn thiện PLHS, cần có các giải pháp bảo

đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

như: tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật;

tổng kết thực tiễn và phát triển hệ thống án lệ; chú trọng giám đốc kiểm tra việc

xét xử tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như nâng cao năng lực pháp

luật, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức,

trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật. Ngoài ra là giải

pháp đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và hợp tác quốc tế nhằm phục

vụ đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung cũng như

168

áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói riêng.

KẾT LUẬN

TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam

là vấn đề khoa học có tính cấp thiết cao, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng

công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Trong thời gian qua, trên

thế giới và trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về TNHS cũng như về

nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên

cứu chuyên sâu ở cấp độ Luận án tiến sĩ về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực

CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu Luận án “Trách

nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn

thông theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Nghiên cứu sinh rút ra một số kết luận

quan trọng sau:

1. TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là hậu quả

pháp lý bất lợi mà người phạm tội trong lĩnh vực này phải gánh chịu trước nhà

nước và pháp luật, được thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa một bên

là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Nghiên cứu lý luận về TNHS đối với tội

phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cho thấy sự phức tạp trong góc độ lập pháp và

trong thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm này nhằm bảo đảm các nguyên tắc

cơ bản của TNHS: hợp lý, có cơ sở, công bằng, bình đẳng, nhân đạo và phải gánh

chịu sự tác động của TNHS, đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh

chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong tình hình mới.

2. Qua nghiên cứu các quy định của PLHS Việt Nam từ năm 1999 đến nay

về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đối với các tội phạm này

cũng như tham khảo kinh nghiệm của pháp luật quốc tế liên quan có thể khẳng

định: Quy định của PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung và

TNHS đối với tội phạm này nói riêng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện qua các

lần sửa đổi BLHS, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng hiệu quả TNHS đối

với tội phạm này, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự.

3. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận án cung cấp những số liệu khách

quan, trung thực, phản ánh sinh động thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong

lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta trong giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024. Qua đó

thấy rằng: tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có sự biến động phức tạp,

nhiều nhất là Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290). Luận án đã làm rõ việc áp dụng các hình

169

phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp, án tích đối với các chủ thể

phạm tội này... Thẳng thắn nhìn nhận còn có những hạn chế, thiếu sót trong quy định

của PLHS hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT, đó là: còn mâu thuẫn về áp dụng tội danh và các tình tiết, việc

quyết định hình phạt, nhất là những vướng mắc, bất cập trong các quy định của

PLHS hiện nay liên quan đến áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT. Những hạn chế đó đến từ những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác

nhau, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ tính khó khăn, đặc thù trong quá trình xử

lý các vụ án phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT; từ sự thiếu đồng bộ, thống nhất

trong quy định của PLHS liên quan cũng như năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp

vụ, trình độ khoa học công nghệ của cán bộ và trang bị, phương tiện kỹ thuật của các

cơ quan có thẩm quyền còn chưa đáp ứng được yêu cầu.

4. Đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là nhiệm

vụ vô cùng quan trọng, luôn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về khoa học

kỹ thuật và công nghệ. Để tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, hiệu quả cho việc phòng,

chống loại tội phạm này, cần đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống PLHS về tội phạm

trong lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đối với tội phạm này cũng như đưa ra các

giải pháp tích cực, khả thi nhằm bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội

phạm đó. Đối với việc hoàn thiện hệ thống PLHS cần chú ý quán triệt thực hiện

chính sách hình sự để đảm bảo công lý, công bằng xã hội, kết hợp xu hướng nhân

đạo, song cũng cần đề cao tính răn đe, phòng ngừa và phát huy ý thức khắc phục

hậu quả của người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đối với các giải pháp

bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm này, như: tăng cường công tác

giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; tổng kết thực tiễn và phát

triển hệ thống án lệ; chú trọng giám đốc kiểm tra việc xét xử tội phạm trong lĩnh

vực CNTT, MVT cũng như nâng cao năng lực pháp luật, ý thức pháp luật, trình

độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của

đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và hợp tác quốc

170

tế cần phải được tiến hành khẩn trương, thường xuyên và đồng bộ./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1.

Dương Thanh An (2010), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về

môi trường, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

2

Ban Chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày

09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến

lược hoàn thiện hệ thống pháp luật định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một

số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công

nghiệp lần thứ tư, Hà Nội.

6. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và truyền

thông, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2012),

Thông

liên

tịch

số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-

VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 về hướng dẫn áp dụng quy định

của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin và viễn thông, Hà Nội.

7. Bộ Công an (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội

phạm - Tập 2), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.

8.

Bộ Thông tin và Truyền thông (2013), Thông tư số 19/2013/TT-BTTTT ngày

02/12/2013 quy định tần số cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu nạn trên biển

và hàng không dân dụng, Hà Nội.

9.

Chính phủ (2013), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy

định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên

mạng, Hà Nội.

10. Chính phủ (2017), Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 về việc

giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài, Hà Nội.

171

11. Chính phủ (2018), Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 về

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày

15/7/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng

dịch vụ internet và thông tin trên mạng, Hà Nội.

12. Chính phủ (2020), Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 quy

định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông,

tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, Hà Nội.

13. Chính phủ (2022), Nghị định số 14/2022/NĐ-CP ngày 27/01/2022 sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày

03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông

tin và giao dịch điện tử và Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày

07/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản, Hà Nội.

14. Chính phủ (2022), Quyết định số 964/QĐ-TTg ngày 10/8/2022 của Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia,

chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến năm 2025,

tầm nhìn 2030, Hà Nội.

15. Lê Cảm (2005), Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Nhà

xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

16. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự,

(Phần chung), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

17

Lê Văn Cảm (2019), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự

- phần chung, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Nguyễn Kim Chi (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật

tự quản lý hành chính, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm

phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.

20. Lê Quang Chiều (2012), Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình

phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội.

21. Nguyễn Chí Công (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm

trật tự quản lý kinh tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

172

22. Lại Kiên Cường (2010), Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương

mại điện tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án Tiến sĩ, Học

viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.

23. Lê Đăng Doanh - Cao Thị Oanh (2016), Bình luận khoa học Bộ luật

hình sự 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.

24. Trần Văn Dũng (2003), Trách nhiệm hình sự của người chưa thành

niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày

09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội.

26 Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình “Lý luận chung về nhà nước

và pháp luật”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

27 Nguyễn Minh Đoan (2014), Giáo trình “Lý luận chung về nhà nước và

pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28

Phạm Minh Đô, Trần Nguyễn Bảo Ngân (2023), Một số đánh giá về tội

“Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn

thông”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ngày 07/8/2023, Hà Nội.

29

Lê Bá Đức, Lê Nhật Hạ (2023), Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi

phát tán tin giả trên không gian mạng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, kỳ

1, số 392, tháng 11/2023, Hà Nội.

30. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số

01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 về hướng dẫn áp dụng một số quy

định phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.

31. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số

04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 về quy trình lựa chọn, công bố và

áp dụng án lệ, Hà Nội.

32. Phạm Mạnh Hùng (2004), Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình

sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

33. Trần Đoàn Hạnh (2021), Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ

Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

34. Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất

bản Tư pháp, Hà Nội.

173

35. Nguyễn Văn Hương, “Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật Hình sự

năm 2015 với Luật Công nghệ thông tin” thuộc đề tài cấp Bộ (2016),

Nghiên cứu tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định

các tội phạm với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ

Tư pháp, do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ nhiệm đề tài.

36. Nguyễn Thị Phương Hoa (2020), Bàn về mối quan hệ giữa trách nhiệm

hình sự của cá nhân với trách nhiệm hình sự của pháp nhân và một số

kiến nghị, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, số 139 (9/2020).

37. Nguyễn Thị Phương Hoa (2024), Quy định của Bộ tổng luật Hoa Kỳ về

tội phạm liên quan đến công nghệ thông tin, mạng viễn thông, Kỷ yếu

Hội thảo “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn

thông: Những hạn chế trong quy định, thực tiễn áp dụng pháp luật và

giải pháp khắc phục”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

38. Nguyễn Thị Phương Hoa (2024), Thực tiễn xác định chủ thể của tội

phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và những

hạn chế, Kỷ yếu Hội thảo “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin, mạng viễn thông: Những hạn chế trong quy định, thực tiễn áp dụng

pháp luật và giải pháp khắc phục”, Trường Đại học Luật Thành phố

Hồ Chí Minh.

39. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), quyển 2,

Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

40. Nguyễn Ngọc Hòa (2022), Trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện

pháp hình sự khác, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

41. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm

2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm), Quyển 2,

Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

42. Trần Văn Hòa (2011), An toàn thông tin và công tác phòng chống tội

phạm sử dụng công nghệ cao, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

43. Trần Minh Hưởng (2011), Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, Tập 1,

Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

174

44. Nguyễn Quý Khuyến (2020), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông

tin, mạng viễn thông theo Luật Hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ,

Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

45. Nguyễn Văn Khoát (2024), Định tội danh đối với các tội phạm trong

lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, Tạo chí Khoa học Kiểm

sát, số 09 (81)/2024, Hà Nội.

46. Phạm Văn Lợi (Chủ biên), Trần Đình Nhã và Lê Cảm (2006), Chính

sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp,

Hà Nội.

47. Phạm Văn Lợi (2007), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,

Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

48. Trần Thị Hồng Lê (2009), Các tội phạm trong lĩnh vực tin học theo

Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học

Quốc gia Hà Nội.

49. Trần Văn Luyện (1998), Sách chuyên khảo Trách nhiệm hình sự đối với

các tội phạm về ma túy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Trần Văn Luyện (2000), Sách tham khảo Các tội xâm phạm tính mạng,

sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

51. Trần Văn Luyện và nhóm tác giả (2017), Bình luận khoa học Bộ luật

Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Công an

nhân dân, Hà Nội.

52. Hoàng Quảng Lực (2022), Định tội đối với hành vi sử dụng mạng xã hội

lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, ngày

26/3/2022.

53. Ngô Nhất Linh (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm an

ninh quốc gia, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

54. Nguyễn Đức Mai (2013), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999

(Phần các tội phạm), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

55. Nguyễn Văn Nam (2008), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm

phạm trật tự quản lý kinh tế trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến

sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

175

56. Cao Thị Oanh (2008), Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong

luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

57. Đinh Văn Quế (1999), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Đinh Văn Quế (2020), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, phần thứ nhất

- Những quy định chung, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

59. Hoàng Thị Kim Quế (2015), Giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật”,

Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

60. Quốc hội (2006), Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Hà Nội.

61. Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao năm 2008, Hà Nội.

62. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

2009), Hà Nội.

63. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017), Hà Nội.

64. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc

thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và về

hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan

điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015,

Hà Nội.

65. Quốc hội (2018), Luật An ninh mạng năm 2018, Hà Nội.

66. Quốc hội (2018), Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 (sửa đổi, bổ

sung năm 2018), Hà Nội.

67. Quốc hội (2021), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2021), Hà Nội.

68. Quốc hội (2022), Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 (sửa đổi, bổ sung

năm 2022), Hà Nội.

69. Quốc hội (2023), Luật Viễn thông năm 2023, Hà Nội.

70. Quốc hội (2024), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, Hà Nội.

71. Nguyễn Sơn (2002), Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam,

Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

72. Hồ Sỹ Sơn (2010), Bàn về khái niệm, bản chất, nội dung và giới hạn của

trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010, Hà Nội

176

73. Hồ Sỹ Sơn (2020), Cơ chế tác động của pháp luật hình sự, Tạp chí

Nhân lực khoa học xã hội, số 02/2020, Hà Nội.

74. Hồ Sỹ Sơn (2020), Sự trừng trị trong Luật Hình sự, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, số 6/2020, Hà Nội.

75. Hồ Sỹ Sơn (2021), Giới hạn và các giai đoạn tác động của pháp luật

hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2021, Hà Nội.

76. Trần Anh Tuấn - Hoàng Duy Hiệp (2022), Hoàn thiện pháp luật về phòng,

chống các tội phạm trên lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông,

Tạp chí Khoa học kiểm sát, số chuyên đề 02/2022, Hà Nội.

77. Phạm Minh Tuyên (2006), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về

ma túy trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.

78. Nguyễn Ngọc Tính (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm

về chức vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

79. Trần Thanh Thảo (2013), Tội phạm công nghệ thông tin trong Bộ luật

Hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

80. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, tập 2, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

81. Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt

Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.

82. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2021), Nghị quyết số 08/2021/NQ-

UBTVQH ngày 26/11/2021 về giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật

Hình sự năm 2015, Hà Nội.

83. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2007), Tội phạm trong lĩnh vực

bưu chính - viễn thông và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, Nhà xuất

bản Công an nhân dân, Hà Nội.

84. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nhà xuất bản Từ điển

bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

85. Võ Khánh Vinh (1995), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình

sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Võ Khánh Vinh (1996), Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội

phạm về chức vụ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.

177

87. Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần

chung), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

88. Võ Khánh Vinh, Võ Khánh Linh (2024), Trách nhiệm hình sự: tiếp cận

chính sách, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Trách nhiệm hình

sự, miễn và giảm trách nhiệm hình sự: Lý luận và thực tiễn”, Trường

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

89. Nguyễn Hiếu Vinh (2012), Hoạt động của Chính phủ trong phòng

ngừa tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học,

Hà Nội.

90. Trần Thị Quang Vinh (2002), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.

91. Trịnh Tiến Việt (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách

nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học,

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

92. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nhà xuất bản

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Trịnh Tiến Việt (2022), Giáo trình Trách nhiệm hình sự và hình phạt,

Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

94. Trịnh Tiến Việt (2021), Tổng quan về Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất

bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

95. Nguyễn Như Ý (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI

96. Piôntkôvxki A.A, Sách chuyên khảo Lý luận về tội phạm theo luật hình

sự Xô viết, Liên Xô.

97. Brainhin Ia.M (1963), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự và cơ sở của

trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Xô viết, Liên Xô.

98. Karpusin M.P., Kurlianđxki V.I (1974), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự

và cấu thành tội phạm, Nhà xuất bản Sách pháp lý, Maxcơva, Liên Xô.

99. Bagri-Sakhmatôv L.V (1976), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự và hình

phạt, Liên Xô.

100. Bor'ev V.P (1994), Cuốn sách Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, Nga.

101. Bộ luật Hình sự Canada (1985): http://www.justice.gc.ca

178

102. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (1996): http://www.kremlin.ru/acts/bank/9555.

103. Bộ luật Hình sự Trung Quốc (2015): http://www.criminallaw.com.cn.

104. Liaxx.N.V. (1977), Cuốn sách Những vấn đề về lỗi và trách nhiệm

hình sự trong các thuyết tư sản hiện đại, Lêningrađ, Liên Xô.

105. Xtrutchkôv N.A (1978), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự và việc thực hiện

nó trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, Nhà xuất bản Trường Đại học

Tổng hợp Xaratôv, Liên Xô.

106. Xantalôv A.I (1982), Cuốn sách Những vấn đề lý luận của trách

nhiệm hình sự (1982), Liên Xô.

107. Prokhorôv B.X (1984), Cuốn sách Tội phạm và trách nhiệm, Nhà xuất

bản Sách pháp lý, Maxcơva, Liên Xô.

108. L.L.Kruglikov (2005), Cuốn sách Luật hình sự Nga, Phần chung (2005), Nga.

109. Cuốn sách Swedish Law in the New Millennium (Luật Hình sự Thụy

Điển trong giai đoạn mới), Thụy Điển.

110. Jerome Hall, Cuốn sách General Principles Of Criminal Law (Các

nguyên tắc chung của luật hình sự) của (Nhà xuất bản Bobbs Merrill

Company, 1947, tái bản năm 1960 và năm 2005), Mỹ.

111. Kent Roach (1996), Cuốn sách Criminal Law (Luật hình sự), Published

and bound in Canada by Love Printing Service Ltd, Canada.

112. L Waller và C R Williams (2009), Criminal Law: Text and Cases (Luật

hình sự - Văn bản và các Vụ án), Nhà xuất bản LexisNexis Butterworths,

Australia.

113. A P Simester, J P Spencer, G R Sullivan và G J Virgo (2010), Criminal

Law: Theory and Doctrine (Luật hình sự - Lý thuyết và Học thuyết),

Nhà xuất bản Hart Publishing, Oxford, Anh.

114. Myron Moskovitz (1999), Cases and Problems in Criminal Law

(Những vụ án và những vấn đề trong Luật hình sự), Nhà xuất bản

Anderson Publishing Co., Cincinati, Ohio, Mỹ.

115. Andrew Ashworth (1999), Principles of Criminal Law (Các nguyên tắc

của Luật hình sự), Nhà xuất bản Oxford University Press, Anh.

116. Janet Loveless (2008), Criminal Law Text, Cases, and Materials (Luật

hình sự Văn bản, các Vụ án, và các Nguồn tư liệu), Nhà xuất bản Oxford

University Press, Anh.

179

117. Li, Xingan (2005), Tác phẩm“Cybercrime: An Introduction” (Giới

thiệu về tội phạm mạng), Joensuu, Finland: LEX.

118. Steven Malby, Robyn Mace, Anika Holterhof, Cameron Brown, Stefan

Kascherus, Eva Ignatuschtschenko (2013), Tác phẩm “Comprehensive

Study On Cybercrime” (Nghiên cứu tổng quan về tội phạm mạng), do

United Nations (UNODC) xây dựng.

119. Marco Gercke (2012), Tác phẩm “Understanding cybercrime:

phenomena, challenges and legal response” (Luận giải về tình hình,

thách thức và biện pháp pháp lý đối với tội phạm mạng), Tổ chức viễn

thông quốc tế Liên hợp quốc (ITU) phát hành.

120. Aaron Shul (2014), Tác phẩm “Global Cybercrime: The Interplay of

Politics and Law” (Tội phạm mạng toàn cầu: Sự tương tác của chính

sách và pháp luật).

121. Tác phẩm “The Emerging Consensus on Criminal Conduct

in

Cybercrime” (Sự thống nhất nổi bật về hành vi phạm tội đối với loại tội

phạm mạng) của các tác giả Marc D. Goodman và Susan W. Brenner; “The

Council of Erope Convention on Cybercrime” (Công ước về tội phạm

mạng của Hội đồng Châu Âu) của tác giả Mike Keyser, CNS Đại học luật

Seattle, Mỹ… và một số công trình khác có liên quan.

122. Công ước Châu Âu về tội phạm mạng năm 2001 (Công ước Bu-đa-pet).

123. Luật mẫu về tội phạm máy tính của các nước thuộc khối thịnh vượng

chung (Anh, Úc, Newziland, Canada…) năm 2002.

124. Công ước Châu Phi về tội phạm mạng.

125. Công ước của các nước Ả Rập về xét xử tội phạm công nghệ thông tin.

126. Bryan A. Garner (1996), Black’s Law Dictionary, West Publishing Co.

127. Debra Littejohn Shinder (2002), Scene of the Cybercrime, Syngress

Publishing, Inc.

128. Daniel T. Kuehl (2009), From Cyberspace to Cyberpower: Defining

the Problem, Washing, D.C. National Defense University Press.

129. MarcoGercke

(2012),

“Understanding

cybercrime:

phenomena, challenges and legal response”, ITU.

130. Whittle, B. David (1996), Cyber space: The Human Dimension,

W.H. Freeman Co., New York.

180

III. TRANG WEB

131. Tenth United Nations Congress on the Prevention of Crime and

Treatment of Offenders:

https://www.unodc.org/documents/congress//Previous_Congresses/10th_Con

gress_2000/017_ACONF.187.10_Crimes_Related_to_Computer_Netw

orks.pdf (truy cập ngày 02/3/2020).

132.

ITU/CARICOM/CTU Model

Legilative

Texts,

Art.14:

https://www.itu.int/ITUD/projects/ITU_EC_ACP/hipcar/reports/wg2/d

ocs/HIPCAR_1-5-B_Model-Policy-Guidelines-and-

LegislativeText_Cybercrime.pdf (truy cập ngày 8/4/2018).

133. Additional Protocol to the Convention on Cybercrime, concerning the

criminalisation of acts of a racist and xenophobic nature committed

through computer systems:

https://rm.coe.int/CoERMPublicCommonSearchServices/DisplayDCTMCo

ntent?documentId=090000168008160f (truy cập ngày 10/4/2019).

134. Luật sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ thông tin cá nhân của Nhật Bản

(2017) (Amended Act on the Protection of Personal Information):

https://www.ppc.go.jp/files/pdf/Act_on_the_Protection_of_Personal_Infor

mation.pdf (truy cập ngày 20/02/2020).

135. Scott Eltringham

(2007), Prosecuting Computer Crime:

http://www.step toecyberblog.com/files/2012/11/ccmanual1.pdf

136. Section 156.10, 156.05, 156.20, New York Penal Law,

https://www.nysenate.gov/legislation/laws/PEN/P3TJA156,

truy cập

ngày 03/6/2020.

137. M.E. Kabay, A Brief History of Computer Crime: An Introduction for

Students: http://www.mekabay.com/overviews/history.pdf

138. https://wikiluat.com/2023/09/29/khai-niem-va-cac-dac-diem-cua-toi-

pham-cong-nghe-thong-tin-su-khac-biet-giua-toi-pham-cong-nghe-

thong-tin-va-toi-pham-thong-thuong/

139. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Toi-pham-mang-

trong-ky-nguyen-cach-mang-cong-nghiep-130

181

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Văn Thắng, “Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 03 (130)/2024.

2. Nguyễn Văn Thắng, “Pháp luật quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và kinh nghiệm cho Việt Nam” Tạp chí Quản lý nhà nước, số 6/2024.

3. Nguyễn Văn Thắng, “Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 7/2024.

4. Nguyễn Văn Thắng, “Một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án, số 7/2024.

5. Nguyễn Văn Thắng, “Nguyên tắc, mục đích và các giai đoạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở nước ta”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2024.

6. Nguyễn Văn Thắng, “Nghiên cứu hình phạt tiền đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt tháng 02/2023 (kỳ 1).

182

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Thống kê số lượng tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT

bị áp dụng các loại hình phạt chính theo BLHS hiện hành

Loại hình phạt

Số lượng tội

Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện hành

chính

phạm quy

định hình phạt này

Phạt tiền

08

1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc

tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật

2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây

hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt

động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử

4. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông

tin mạng máy tính, mạng viễn thông

5. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng

máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện

tử của người khác

6. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua

bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài

khoản ngân hàng

7. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến

điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn,

tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh 8. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại

07

Cải tạo không giam giữ

1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

3. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông

183

4. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản

5. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài

khoản ngân hàng

6. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn,

tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh

7. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại

Tù có thời hạn

09

1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc

tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật

2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn

thông, phương tiện điện tử

3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt

động của mạng máy tính, mạng viễn thông,

phương tiện điện tử

4. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông

tin mạng máy tính, mạng viễn thông

5. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng

máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện

tử của người khác

6. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi

chiếm đoạt tài sản

7. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua

bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

8. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh 9. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại

184

Phụ lục 2. Thống kê các khung hình phạt tù có thời hạn bị áp dụng

với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS hiện hành

Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện hành

Loại cấu thành khung hình phạt

Cơ bản (khoản 1, Điều 285)

Số lượng tội quy định 02

Khung hình phạt tù có thời hạn 03 tháng đến 02 năm

Tăng nặng (khoản 2, Điều 291)

Cơ bản (khoản 1, Điều 286)

04

06 tháng đến 03 năm

Cơ bản (khoản 1, Điều 287)

Cơ bản (khoản 1, Điều 288)

Cơ bản (khoản 1, Điều 290)

Tăng nặng (khoản 2, Điều 285)

04

01 năm đến 05 năm

Cơ bản (khoản 1, Điều 289)

Tăng nặng (khoản 2, Điều 293)

1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng 1. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 2. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông 4. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 3. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh 4. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại

Tăng nặng (khoản 2, Điều 294)

1. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính,

Tăng nặng (khoản 2, Điều 288)

185

02 năm đến 07 năm

03

Tăng nặng (khoản 2, Điều 290)

Tăng nặng (khoản 3, Điều 291)

Tăng nặng (khoản 3, Điều 285)

04

03 năm đến 07 năm

Tăng nặng (khoản 2, Điều 286)

Tăng nặng (khoản 2, Điều 287)

Tăng nặng (khoản 2, Điều 289)

Tăng nặng (khoản 3, Điều 286)

04

07 năm đến 12 năm

Tăng nặng (khoản 3, Điều 287)

Tăng nặng (khoản 3, Điều 289)

Tăng nặng (khoản 3, Điều 290)

01

12 năm đến 20 năm

Tăng nặng (khoản 4, Điều 290)

mạng viễn thông 2. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 3. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng 1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 4. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 1. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 2. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 4. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

186

Phụ lục 3. Thống kê số lượng các tội phạm trong lĩnh vực CNTT,

MVT có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung theo BLHS hiện hành

Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện hành

Loại hình phạt bổ sung

Số lượng tội phạm quy định hình phạt này 07

Phạt tiền Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định

03

Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 4. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông 5. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 6. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 7. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng 1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 3. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng

187

Phụ lục 4. Thống kê khung hình phạt bổ sung là phạt tiền được áp dụng đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS hiện hành

Mức phạt tiền

Độ

Số lượng tội

Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện

hành

chênh

phạm quy

lệch

định mức phạt này

10 lần

01

Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương

Từ 5 triệu đồng đến 50

tiện điện tử của người khác

triệu đồng

Từ 5 triệu đồng

20 lần

01

Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi

hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật

đến 100 triệu đồng

Từ 10 triệu

05 lần

01

Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi,

mua bán, công khai hóa trái phép thông tin

đồng đến 50

về tài khoản ngân hàng

triệu đồng

Từ 20 triệu

05 lần

01

Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính,

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực

đồng đến 100

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản

triệu đồng

Từ 20 triệu

10 lần

01

Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép

thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông

đồng đến 200

triệu đồng

Từ 30 triệu

6,67 lần

02

1. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học

gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,

đồng đến 200

mạng viễn thông, phương tiện điện tử

triệu đồng

2. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử

188

Phụ lục 5. Thống kê một số bản án của Tòa án nhân dân các cấp về

các vụ án trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm 2015 đến 6/2024

STT Số bản án/Tòa án Bị cáo/Tội danh xét xử

Hình phạt

Biện pháp tư pháp Không

1

- Lê Kim Đ: 03 năm tù - Nguyễn Văn N: 03 năm tù

Số 61/2017/HSPT ngày 20/7/2017 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

2

Số 29/2017/HSPT ngày 26/9/2017 của TAND tỉnh Quảng Trị

thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy

Không

3

- Nguyễn Võ Nhất P: 02 năm tù; - Lê Văn Hồng Ph: 18 tháng tù, cho hưởng án treo Lê Thị H: 06 tháng tù

Số 59/2017/HSPT ngày 28/9/2017 của TAND huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc

thu

4

Tiết Thái H: 05 năm tù

- Tịch sung quỹ - Tịch thu tiêu hủy

sản”

Số 49/2017/HSST ngày 02/11/2017 của TAND Thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang

Không

5

Hoàng Thị T: 07 cho tù, tháng hưởng án treo

Số 21/2018/HSST ngày 31/01/2018 của TAND thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc

6

Không

Xử 02 bị cáo về tội: “Truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác” (Điều 226a BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290, BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội: “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài (Điều 226b BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy

Số 35/2018/HSST ngày 09/02/2018

Mai Phương A: 02 năm tù, cho hưởng

189

án treo

của TAND thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

7

Không

Trương Văn H: 10 năm tù

Số 169/2018/HSPT ngày 28/3/2018 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

8

Không

Thị 24

Nguyễn Phương T: tháng tù giam

Số 44/2018/HSPT ngày 30/3/2018 của TAND tỉnh Hà Tĩnh

sản”

9

Không

Wei Shun X (Quốc tịch Trung Quốc): 07 năm tù

Số 07/2018/HSST ngày 09/4/2018 của TAND tỉnh Hải Dương

10

Phan T: 03 năm tù

Không

Số 115/2018/HSPT ngày 16/4/2018 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

11

Số 148/2018/HSST ngày 08/5/2018 của TAND thành phố Hồ Chí Minh

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy

12

C Toh Meng (Quốc tịch Malaysia): 02 năm 06 tháng tù Lim Chee K (Quốc tịch Malaysia): 02 năm tù Trần Tuấn M: 07 năm tù

Tịch thu sung quỹ Nhà nước

Số 156/2018/HSST ngày 11/5/2018 của TAND thành

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội: “Sử tính, dụng mạng máy mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 226b BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 01 bị cáo về tội: “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài (Điều 226b BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290

190

13

phố Hồ Chí Minh BLHS năm 2015) Số 38/2018/HSST ngày 24/8/2018 của TAND tỉnh Cao Bằng

Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

- Tịch thu tiêu hủy thu - Tịch phát mại lấy tiền sung vào sách ngân Nhà nước

14

Phùng Hải X (Quốc tịch Trung Quốc): 05 năm tù, trục xuất sau khi bị cáo hành chấp xong hình phạt tù Phùng Tiểu X1 (Quốc tịch Trung Quốc): 04 năm tù, trục xuất sau khi bị cáo hành chấp xong hình phạt tù Lê Phú Đ: 03 năm 06 tháng tù

Số 21/2018/HSST ngày 24/8/2018 của TAND tỉnh Ninh Bình

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy

15

Nguyễn Hàng Đức N: 07 năm tù

thu

- Bồi thường thiệt hại - Tịch sung quỹ

Số 310/2018/HSST ngày 14/9/2018 của TAND thành phố Hồ Chí Minh

16

Phạm Quốc T: 12 năm tù

thu

Số 45/2018/HSST ngày 21/9/2018 của TAND thành phố Đà Nẵng

- Bồi thường thiệt hại - Tịch sung quỹ

17

thường

Nguyễn Ngọc T: 01 năm 06 tháng tù

Bồi thiệt hại

Số 402/2018/HSST ngày 05/11/2018 của TAND thành phố Hồ Chí Minh

Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS

191

18

Không

Số 271/2018/HSPT ngày 06/11/2018 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

năm 2015) Xử 04 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

19

Không

- Ngô Văn C: 08 năm 03 tháng tù - Đặng Anh T: 07 năm 06 tháng tù - Trần Văn S: 07 năm 06 tháng tù - Bùi Thị C1: 03 năm 05 tháng 06 ngày tù Lê Thừa T: 03 tháng 18 ngày tù

Số 48/2018/HSST ngày 29/11/2018 của TAND tỉnh Phú Thọ

20

Số 218/2018/HSST ngày 27/12/2018 của TAND huyện Thanh Trì, Hà Nội

Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội: “Mua bán phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” (Điều 285 BLHS năm 2015)

- Lê Đình S: phạt tiền 150 triệu đồng - Nguyễn Anh D: phạt tiền 150 triệu đồng

21

Nguyễn Thái H: 02 năm 6 tháng tù

thu

Số 24/2019/HSST ngày 27/02/2019 của TAND tỉnh Thái Bình

- Truy nộp sung quỹ Nhà nước thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy - Bồi thường thiệt hại - Tịch sung quỹ

22

Cẩm

Tịch thu tiêu hủy

Tăng B (Quốc tịch Trung Quốc): 07 năm tù

Số 20/2019/HSST ngày 21/3/2019 của TAND tỉnh Lào Cai

Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử Phan Chí T: 03

23

Số

Không

192

năm 06 tháng tù

108/2019/HSPT ngày 10/4/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

24

Không

Nguyễn Hoài Sa: 04 năm tù

Số 223/2019/HSPT ngày 06/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

25

thường

Bồi thiệt hại

Daniel C (Quốc tịch: Nigeria): 12 năm tù

26

Nguyễn Phương T: 05 năm tù

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước

Số 216/2019/HSST ngày 25/6/2019 của TAND thành phố Hồ Chí Minh Số 05/2020/HSST ngày 20/01/2020 của TAND thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái

27

thu

Số 08/2020/HSST ngày 17/01/2020 của TAND tỉnh Bắc Ninh

Lê Văn L: 36 tháng tù Phan Tiến A: 30 tháng tù

- Bồi thường thiệt hại - Tịch sung công - Tịch thu tiêu hủy

28

Không

- Võ Đình S: 14 năm tù - Nguyễn Đình T: 13 năm tù

Số 124/2020/HSPT ngày 26/5/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

29

dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng

Số 155/2020/HSST ngày 26/5/2020

O Chime Walterater (Quốc tịch N): 14 năm tù,

- Bồi thường thiệt hại - Tịch

thu

193

của TAND thành phố Hồ Chí Minh

internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

nộp phạt 20 triệu đồng sung quỹ Nhà nước

30

Yang

Số 117/2020/HSST ngày 26/8/2020 của TAND tỉnh Nghệ An

sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy

Xử 03 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

31

ChC - Trường (Dương tịch T), Quốc Trung Quốc: 07 năm tù - Deng Cong C (Đặng Thông Th), Quốc tịch Trung Quốc: 07 năm tù - Lian Y (Luyện V), Quốc tịch Trung Quốc: 07 năm tù Miễn hình phạt tiền Nguyễn Văn P: 15 năm tù

Số 56/2020/HSST ngày 25/11/2020 của TAND tỉnh Đắk Nông

32

- Bồi thường thiệt hại thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước

Số 02a/2021/HSST ngày 14/01/2021 của TAND thị xã Q, tỉnh Quảng Trị

Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 05 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

tù,

- Phan Văn L: 12 tháng tù - Nguyễn Xuân T: 12 tháng tù, cho hưởng án treo - Nguyễn Văn 09 Phương N: tháng cho hưởng án treo - Nguyễn Trương Gia H: 09 tháng tù, cho hưởng án treo - Nguyễn Anh Q: 12 tháng tù, cho

194

33

thu ngân Nhà

Số 21/2021/HSST ngày 20/01/2021 của TAND tỉnh Nam Định

hưởng án treo - Võ Phước Ch: 12 tháng tù - Hoàng Đình Tấn L: 09 tháng tù, cho hưởng án treo

- Tịch sung sách nước - Tịch thu tiêu hủy

34

Không

Số 09/2021/HSST ngày 21/01/2021 của TAND tỉnh Phú Thọ

Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 03 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)

35

Không

36

Không

Số 128/2021/HSST ngày 01/3/2021 của TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Số 134/2021/HSST ngày 02/3/2021 của TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa

Xử 02 bị cáo về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 03 bị cáo về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)

37

- Đoàn Lê Trí V: Phạt tiền 200 triệu đồng - Nguyễn Thái T: Phạt tiền 100 triệu đồng - Lê Thái N: Phạt tiền 20 triệu đồng - Trần Thị H: 30 tháng tạo cải không giam giữ - Phạm Thị N: 27 tháng tạo cải không giam giữ - Phạm Thị Phương T: 15 cho tù, tháng hưởng án treo, phạt bổ sung 20 triệu đồng. - Nguyễn Thị L: 12 cho tù, tháng hưởng án treo, phạt bổ sung 20 triệu đồng. - Nguyễn Thị N: 30 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung 10 triệu đồng. - Nguyễn Mạnh Đức C: 05 năm tù - Lê Thanh H: 03

Số 38/2021/HSST ngày 15/3/2021 của TAND thành

Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

- Bồi thường thiệt hại - Tịch thu tiêu

195

phố Hải Phòng

năm 06 tháng tù

hủy

38

Không

Số 167/2021/HSPT ngày 20/4/2021 của TAND cấp cao tại Hà Nội

tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 04 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

39

Số 26/2021/HSST ngày 27/5/2021 của TAND tỉnh Quảng Bình

- Bồi thường thiệt hại - Tịch thu tiêu hủy

Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

40

Không

- Đỗ Tuấn A: 14 năm tù - Đỗ Văn P: 12 năm tù - Nguyễn Thị A1: 11 năm tù - Nguyễn Thị Bảo T: 10 năm tù - Lê Anh H: 27 tháng tù - Nguyễn Lâm Thế V: 13 tháng tù - Đỗ Duy Kh: 04 tháng tù Miễn hình phạt tiền - Vũ Ngọc T: 05 năm tù

Số 253/2021/HSPT ngày 21/6/2021 của TAND cấp cao tại Hà Nội

41

Không

Nguyễn Trọng Q: 09 tháng tù

Số 65/2021/HSPT ngày 07/7/2021 của TAND thành phố Đà Nẵng

42

Không

Vàng A N: 18 tạo cải tháng không giam giữ

Số 69/2021/HSST ngày 07/12/2021 của TAND tỉnh Hà Giang

43

thường

Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy

Số 168/2021/HSST

Nông Văn X: 28 tháng tù

Bồi thiệt hại

196

ngày 20/12/2021 của TAND tỉnh Bắc Ninh

44

Không

Nguyễn Trọng Q: 09 tháng cải tạo không giam giữ

45

Không

Phạm Huy H: 03 tháng tù

Số 02/2022/HSST ngày 12/01/2022 của TAND huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang Số 22/2022/HSST ngày 28/4/2022 của TAND tỉnh Thái Nguyên

46

Không

Nguyễn Bích Hoài T: Phạt 100 triệu đồng

Số 69/2022/HSST ngày 16/6/2022 của TAND thành phố Hải Phòng

47

Không

Số 20/2022/HSST ngày 06/7/2022 của TAND tỉnh Đăk Nông

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Đưa trái phép thông tin mạng tính, mạng viễn máy thông” (Điều 288 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Thu thập, mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 04 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)

48

Không

- Nguyễn Quang Ng: 15 năm tù (phạm thêm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) - Phạm Thị Kim Th: 09 tháng tù, cho hưởng án treo - Nguyễn Thị L: Phạt 35 triệu đồng. - Ngô Trường Quang H: Phạt 30 triệu đồng. Nguyễn Quốc A: 24 tháng cải tạo không giam giữ

49

Không

Số 96/2022/HSST ngày 08/7/2022 của TAND thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương Số 713/2022/HSPT

Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy

Dương Tuấn A: 12 tháng tù, hưởng án

197

treo

ngày 26/8/2022 của TAND thành phố Hà Nội

50

Nguyễn Thị Thùy T: 12 tháng tù

Số 56/2022/HSST ngày 16/9/2022 của TAND tỉnh Quảng Bình

- Bồi thường thiệt hại thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy

51

Không

Nguyễn Hồng M: 12 tháng cải tạo không giam giữ

52

Số 31/2022/HSST ngày 22/9/2022 của TAND huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang Số 105/2022/HSST ngày 27/9/2022 của TAND tỉnh Bắc Ninh

mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015)

- Bồi thường thiệt hại - Tịch thu nộp sách ngân Nhà nước

53

Số 63/2022/HSST ngày 12/12/2022 của TAND tỉnh Hải Dương

tiền: 100

- Chu Thị N: 12 tháng cho tù, hưởng án treo - Nguyễn Văn Q: 12 tháng tù, cho hưởng án treo Nguyễn Văn K: 24 tháng cho tù, hưởng án treo - Phạt triệu đồng

Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015)

54

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước thu - Tịch phát mại nộp sách ngân Nhà nước Không

Trần Thu H: 02 năm 06 tháng tù

Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

55

Không

Số 34/2023/HSST ngày 14/02/2023 của TAND thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh Số 10/2023/HSST ngày 14/02/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ

Xử 06 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm

- Nguyễn Ngọc Th: triệu 140 Phạt đồng - Nguyễn Khánh

198

2015)

56

Không

Số 11/2023/HSST ngày 15/02/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ

Xử 03 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291, BLHS năm 2015)

57

H: Phạt 120 triệu đồng - Trần Hải Đ: Phạt 100 triệu đồng - Tạ Văn D: Phạt 100 triệu đồng - Nguyễn Quý L: Phạt 30 triệu đồng - Nguyễn Trung H: Phạt 40 triệu đồng - Nguyễn Đình Đ: 15 tháng cải tạo không giam giữ - Trần Văn T: 15 tháng tạo cải không giam giữ - Trịnh Bảo L: 12 tạo cải tháng không giam giữ Huỳnh Văn M: 14 tháng tù

Tịch thu nộp sách ngân Nhà nước

58

Không

Số 76/2023/HSST ngày 20/3/2023 của TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh Số 30/2023/HSST ngày 03/4/2023 của TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam

Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 03 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)

59

Không

Số 65/2023/HSPT ngày 10/4/2023 của TAND thành phố Đà Nẵng

- Nguyễn Quốc T: 15 tháng cải tạo không giam giữ - Nguyễn Tiến D: 15 tháng cải tạo không giam giữ - Đỗ Duy H: 12 tạo cải tháng không giam giữ - Nguyễn Thị A: 06 tháng tù - Lê Thị B: 04 tháng tù

60

Số 40/2023/HSST ngày 18/4/2023

Xử 02 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội: “Sử dụng phương tiện điện tử

- Phạm C: 03 năm tù

- Tịch thu nộp sách ngân

199

của TAND quận P, thành phố H

- Nguyễn S: 03 năm tù

61

Phùng Khắc K: 03 năm 03 tháng tù

Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước

Số 45/2024/HSST ngày 23/01/2024 của TAND thành phố Hồ Chí Minh

62

Tịch thu sung quỹ nhà nước

Phan Anh T: 02 năm 03 tháng tù, cho hưởng án treo

Số 50/2024/HSPT ngày 29/02/2024 của TAND tỉnh Đăk Lăk

63

Tịch thu sung công quỹ nhà nước

Số 18/2024/HSST ngày 04/4/2024 của TAND huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn

thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)

64

Tịch thu sung quỹ nhà nước

Số 101/2024/HSST ngày 16/4/2024 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội

Xử 03 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

65

- Trần Văn H1: Phạt tiền 150 triệu đồng - Nguyễn Phạm T1: Phạt tiền 100 triệu đồng - Tạ Văn T2: 30 tháng cho tù, hưởng án treo - Nguyễn Văn N: 36 tháng tù, cho hưởng án treo - Hoàng Thị Kiều D: 30 tháng tù, cho hưởng án treo Nguyễn Thùy T: 09 tháng tù

Tịch thu sung quỹ Nhà nước

Số 25/2024/HSST ngày 23/4/2024 của TAND tỉnh Hà Nam

66

thu ngân Nhà

- Cao Trung N: 04 năm tù - Trần Văn H: 04 năm tù

Số 118/2024/HSST ngày 22/5/2024 của TAND huyện Bình Chánh, thành

Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài

- Tịch sung sách nước - Tịch thu tiêu

200

phố Hồ Chí Minh

hủy

67

Tịch thu sung công quỹ nhà nước

Số 50/2024/HSPT ngày 23/5/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc

Nguyễn Lê Như Y: 01 năm 08 tháng tù, cho hưởng án treo

68

Võ Duy K: 02 năm 06 tháng tù

Tịch thu sung quỹ nhà nước

Số 254/2024/HSPT ngày 31/5/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

69

Nguyễn Ngọc Gia H: 24 tháng tù, cho hưởng án treo

Tịch thu sung công quỹ nhà nước

Số 70/2024/HSST ngày 07/6/2024 của TAND thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị

70

Phạm Sơn D: 06 tháng tù

Tịch thu sung công quỹ nhà nước

Số 108/2024/HSST ngày 20/6/2024 của TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội

sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)

201