VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN THẮNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2025
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN THẮNG
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 9380104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS TRẦN VĂN LUYỆN
HÀ NỘI - 2025
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án này là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa
học và sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trong Luận án là chính xác, khách quan, có nguồn gốc rõ ràng.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
NGHIÊN CỨU SINH
Nguyễn Văn Thắng
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
:
Bộ luật Hình sự
BLHS
Bộ luật Tố tụng hình sự
BLTTHS
:
:
CNTT, MVT
Công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Pháp luật hình sự
PLHS
:
Trách nhiệm hình sự
TNHS
:
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
:
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT ở nước ta từ năm 2013 đến 6/2024 ...............................................
Bảng 3.2. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT theo từng Điều luật giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024 .....................
Bảng 3.3. Tình hình áp dụng loại hình phạt chính và mức hình phạt chính đối
với bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm
2013 đến 6/2024 ..................................................................................................
Bảng 3.4. Tình hình áp dụng loại hình phạt bổ sung đối với bị cáo bị xét xử về
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024 ..............
Bảng 3.5. Số lượng bị cáo là người nước ngoài bị xét xử sơ thẩm về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT từ năm 2013 đến 6/2024 ........................................
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................ 9
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ........................................................... 9
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự .............. 9
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 11
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam ........................................................... 15
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự ................. 15
1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 20
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án và những vấn đề
đặt ra cần nghiên cứu trong Luận án ............................................................... 27
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ......................... 27
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án ............................. 28
1.4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu của Luận án
......................................................................................................................... 28
1.4.1. Cơ sở lý thuyết ....................................................................................... 28
1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................ 28
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 30
CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH
SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN, MẠNG VIỄN THÔNG ........................................................................ 31
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ............... 31
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 31
2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 36
2.1.3. Nguyên tắc của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông ............................................................ 39
2.1.4. Ý nghĩa của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 42
2.2. Cơ sở, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .......................... 44
2.2.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 44
2.2.2. Giai đoạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................................... 60
2.2.3. Phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................... 62
2.3. Nội dung, hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ..................................................... 64
2.3.1. Nội dung của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ...................................................................... 64
2.3.2. Hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ...................................................................... 65
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 70
CHƯƠNG 3. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 72
3.1. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật quốc tế và pháp luật
Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 .............................. 72
3.1.1. Quy định của pháp luật quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................... 72
3.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 2015 ..................................................................... 79
3.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông hiện nay ............... 85
3.2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ................ 85
3.2.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm cụ thể trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015 .... 92
3.3. Thực tiễn áp dụng quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam (từ năm 2013 đến
6/2024) .......................................................................................................... 100
3.3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích ................. 101
3.3.2. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ................................................................... 108
CHƯƠNG 4. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP
BẢO ĐẢM ÁP DỤNG HIỆU QUẢ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI
PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN
THÔNG ......................................................................................................... 138
4.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và yêu cầu nâng
cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................................................... 138
4.1.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................. 138
4.1.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .................................. 141
4.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông .............................................. 146
4.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ........................ 153
4.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật; tổng kết thực tiễn và phát triển hệ thống án lệ ...................................... 153
4.3.2. Chú trọng giám đốc kiểm tra việc xét xử tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, mạng viễn thông ................................................................... 160
4.3.3. Nâng cao năng lực pháp luật, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ áp
dụng pháp luật ................................................................................................ 161
4.3.4. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông nói chung cũng như áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này
nói riêng ......................................................................................................... 164
Tiểu kết Chương 4 ......................................................................................... 167
KẾT LUẬN ................................................................................................... 169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 171
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬN ÁN ....................................... 182
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 183
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão trên phạm vi toàn cầu, trong đó có lĩnh vực CNTT, MVT. Cùng với sự phát triển phổ biến của CNTT, MVT là sự xuất hiện ngày càng phức tạp của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (quy định tại Mục 2, Chương XXI, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)). TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là một chế định rất quan trọng trong PLHS Việt Nam, nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa cấp thiết cả về chính trị, lý luận, pháp lý và thực tiễn.
Trước hết, ý nghĩa trên phương diện về chính trị. Nghiên cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thể hiện rõ nét quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, TNHS đối với tội phạm này nói riêng trong bối cảnh đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tiếp tục đổi mới và cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
Trước đây cũng như hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đều đặc biệt quan tâm phát triển lĩnh vực CNTT, MVT. Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển mạnh mẽ, CNTT, MVT ngày càng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội, nhất là trong kỷ nguyên số hiện đại. Song song vấn đề đó, chúng ta phải đối với nhiều thách thức về an ninh, an toàn từ chính trong lĩnh vực CNTT, MVT, nổi bật chính là tội phạm trong lĩnh vực này. Trong nhiều văn kiện Đại hội, nghị quyết của Đảng đã xác định những chủ trương quan trọng về phát triển và tăng cường ứng dụng CNTT, MVT phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt phải kể đến Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mà trong cuộc cách mạng này thì CNTT, MVT là những nội dung quan trọng, cốt lõi. Cùng với đó, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, hiện nay là Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để xây dựng và thực hiện chính sách PLHS, trong đó có vấn đề TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) đã có nhiều điểm mới, tiến bộ nhưng vẫn chưa quán triệt 1
đầy đủ và đáp ứng hoàn toàn yêu cầu cải cách tư pháp, phục vụ đắc lực cho công cuộc phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT hiện nay. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa, PLHS nước ta, trong đó có quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần có sự nghiên cứu, tham khảo và tiếp thu chọn lọc những kinh nghiệm đắt giá của luật pháp quốc tế, tạo cơ sở hoàn thiện quy định của PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian tới cũng là một yêu cầu bức thiết đặt ra.
Thứ hai, ý nghĩa trên phương diện về lý luận. TNHS đặt ra đối với nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là vấn đề mới trong các định hướng nghiên cứu lý luận của khoa học Luật Hình sự, giúp chúng ta nhận thức được những trách nhiệm pháp lý của người phạm tội trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện lý luận khoa học Luật Hình sự Việt Nam về chế định TNHS nói chung, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Chính vì lẽ đó đặt ra yêu cầu phải làm rõ lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể là khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của nó.
Thứ ba, ý nghĩa trên phương diện pháp lý. Trong thời gian qua, quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã được được bổ sung, hoàn thiện. Tuy nhiên, các quy định này vẫn còn những điểm hạn chế nhất định, chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực này. Việc chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của PLHS hiện hành về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện PLHS sẽ góp phần giải quyết những vấn đề bức thiết về pháp lý. Thực tế phản ánh quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn nhiều hạn chế, vướng mắc như: Các hình thức TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là sự đánh giá, phản ứng của Nhà nước về nhóm tội này bằng biện pháp hình sự, thể hiện ở các hình thức: hình phạt, biện pháp tư pháp, án tích. Nó là căn cứ pháp lý cần và đủ, là giới hạn khách quan và chủ quan mà ngoài giới hạn đó thì không một ai có thể bị truy cứu TNHS về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chính vì vậy, nó biểu hiện rõ nét nguyên tắc công bằng, nguyên tắc pháp chế XHCN trong luật hình sự nước ta. Hiện nay, một số quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã bộc lộ những hạn chế như: độ rộng của khung hình phạt tù còn lớn; có sự chồng lấn giữa các khung hình phạt; nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng hình phạt chưa cụ thể; một số thuật ngữ chưa được giải thích chính thức; 2
thiếu cơ chế chuyển đổi linh hoạt giữa các hình phạt nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT... Vì thế trên phương diện về pháp lý, việc nghiên cứu các quy định của PLHS để giải quyết các hạn chế, vướng mắc này cũng đặt ra rất bức thiết.
Cuối cùng, ý nghĩa trên phương diện về thực tiễn. Áp dụng TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm, đánh giá sự phù hợp giữa các quy định của PLHS với bản chất pháp lý và mức độ phù hợp của nó với thực tiễn phòng, chống nhóm tội phạm này, là căn cứ quan trọng để hoàn thiện PLHS. Việc nghiên cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có ý nghĩa góp phần hoàn thiện các quy định của PLHS, bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm này trên cơ sở tiếp cận từ góc độ của công tác thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian qua.
Thực tiễn áp dụng quy định của BLHS để xét xử tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định (theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2013 - 6/2024, ngành Tòa án đã xét xử được 884 vụ án với 1.787 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT). Nhưng trong thực tiễn vẫn còn xuất hiện những khó khăn, vướng mắc cần kịp thời tháo gỡ, giải quyết để hoạt động này đạt hiệu quả cao hơn, đặc biệt là về vấn đề xác định TNHS đối với loại tội phạm này. Bởi đây là một lĩnh vực tương đối mới, liên quan đến lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ cao, diễn ra vô cùng phức tạp. Việc quy định và thực tiễn áp dụng PLHS để xác định TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng là vấn đề khó khăn, phức tạp, còn nhiều vấn đề tranh luận. Thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cho thấy còn có những hạn chế, thiếu sót như: áp dụng sai căn cứ pháp lý để xử lý TNHS đối với người phạm tội; chưa xác định đầy đủ các dấu hiệu định tội danh cũng như các căn cứ quyết định hình phạt, dẫn đến áp dụng TNHS chưa thật sự tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Đặc biệt, phải nhấn mạnh về thực tiễn định tội danh đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đây là một quá trình khó khăn, phức tạp và đòi hỏi sự sáng tạo. Hiện đã có những thủ đoạn phạm tội mới hay một số hành vi mới xuất hiện gây nguy hại đáng kể cho xã hội nhưng chưa được dự liệu trong luật; có trường hợp còn định tội danh không chính xác, chưa có sự thống nhất, đồng bộ giữa các địa phương. Việc áp dụng các hình thức TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có lúc chưa đạt hiệu quả cao do quy định của BLHS về biện pháp đó chưa cụ thể (như hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn, 3
hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản) hoặc chưa hoàn toàn sát với thực tiễn.
Tóm lại, từ những ý nghĩa đã phân tích nêu trên cho thấy việc nghiên cứu về TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam đáp ứng các yêu cầu bức thiết đặt ra cả về chính trị, lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng TNHS. Hơn nữa, đây cũng là vấn đề nghiên cứu tương đối mới mẻ, chứa đựng nhiều quan điểm, ý kiến phức tạp. Trên cơ sở quy định của PLHS và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm này, cần thiết phải nghiên cứu, bổ sung những luận điểm để hoàn thiện quy định của PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở Việt Nam thời gian tới. Từ đó, việc chọn nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm Luận án Tiến sĩ Luật học là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về các vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian qua, Luận án nhằm làm sáng tỏ hệ thống lý luận và khảo sát thực tiễn về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS và các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án cần giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, xác định những vấn đề cần nghiên cứu tiếp theo;
4
- Làm rõ cơ sở lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; - Khái quát quy định của pháp luật quốc tế và lịch sử quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ trước khi ban hành BLHS năm 2015, đặc biệt là phân tích những quy định của PLHS hiện hành về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT;
- Làm rõ thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng; - Xác định bối cảnh, sự cần thiết, phương hướng hoàn thiện PLHS, yêu cầu và đưa ra các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam. Cụ thể: - Những vấn đề lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. - Quy định của PLHS Việt Nam, chủ yếu là BLHS năm 2015 về TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
- Thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở
nước ta trong thời gian qua.
3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trong giới hạn phạm vi như sau: - Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong đó tập trung nghiên cứu về nội dung và hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam (chủ yếu là trong BLHS năm 2015 gồm 09 tội được quy định từ Điều 285 đến Điều 294, trừ Điều 292 bị bãi bỏ). Về nội dung TNHS đối với tội phạm này chính là quyền và nghĩa vụ giữa Nhà nước và người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Về hình thức TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thể hiện rõ nét thông qua việc quy định và áp dụng các hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích.
- Về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT của Tòa án nhân dân trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Luận án khảo sát số liệu, tình hình thực tiễn áp dụng TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ năm 2013 đến 6/2024.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước và 5
hệ thống các luận điểm của khoa học pháp lý có liên quan về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
4.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận án bao gồm: - Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp các tài liệu nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước để làm sáng tỏ tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài này, hệ thống hóa lịch sử và quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến nội dung nghiên cứu là TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh những vấn đề lý luận cơ bản về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đặc biệt là những vấn đề về khái niệm, đặc điểm, cơ sở và hình thức của TNHS đối với các tội phạm này theo PLHS Việt Nam;
- Phương pháp tiếp cận Luật so sánh được vận dụng trong việc nghiên cứu các chính sách pháp luật nói chung, các quy định của pháp luật quốc tế nói riêng về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, so sánh, đối chiếu với PLHS Việt Nam về vấn đề này;
- Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh trong việc xử lý các tài liệu, số liệu của các cơ quan chức năng, đặc biệt là của Tòa án nhân dân tối cao để làm sáng tỏ thực trạng tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta trong khoảng thời gian từ năm 2013 - 6/2024; làm rõ thực tiễn áp dụng TNHS, nhất là việc định tội danh, áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp, án tích, đánh giá những hạn chế, khó khăn và bất cập trong việc áp dụng;
- Phương pháp nghiên cứu các hồ sơ vụ án điển hình trong việc nghiên cứu tình hình, đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và việc áp dụng quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua;
- Phương pháp chuyên gia trong việc trao đổi, xin ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ thực tiễn công tác trong các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án đã trải qua thực tế tiến hành giải quyết các vụ án hình sự đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT để làm nổi bật một số vấn đề lý luận và thực tiễn xoay quanh vấn đề TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở Việt Nam;
6
- Phương pháp logic, tổng hợp được sử dụng trong việc đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện quy định của PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đề ra những giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian tới.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống, toàn diện và sâu sắc về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ việc tổng hợp, tiếp thu những kết quả nghiên cứu trước đó, Luận án đã phân tích, luận giải các vấn đề có liên quan về lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta hiện nay. Luận án có những đóng góp mới, đó là:
- Phát triển, làm sâu sắc những vấn đề lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể: Luận án đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; xác định đúng đắn cơ sở và các hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực này. Cùng với đó, Luận án cũng làm nổi bật những nội dung, các giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta.
- Phân tích các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ việc phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện quy định của PLHS hiện hành ở nước ta về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, Luận án chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó trong các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
- Xác định yêu cầu nâng cao hiệu quả của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, phương hướng hoàn thiện PLHS về tội phạm này cũng như đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian tới, đảm bảo phù hợp, đáp ứng các yêu cầu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của Luận án có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển, làm phong phú lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như: Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, hình thức, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Qua đó tạo nguồn tài liệu tham khảo dành cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và hoàn thiện hệ thống PLHS, cũng như phục vụ việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn Đối với hoạt động lập pháp ở nước ta, những kiến nghị về hoàn thiện PLHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có những nội dung quan trọng về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được đưa ra trong 7
Luận án là cơ sở để các cơ quan, nhà làm luật nghiên cứu, tham khảo phục vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện PLHS nói chung, sửa đổi, bổ sung BLHS nói riêng trong thời gian tới về vấn đề này.
Những phương hướng cụ thể nhằm hoàn thiện PLHS và các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có giá trị hữu ích và khả thi đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong xác định, áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.
Cuối cùng, Luận án có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập hữu ích dành cho đội ngũ các nhà khoa học, giảng viên, học viên trong lĩnh vực khoa học Luật Hình sự nói chung và các vấn đề về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.
7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, Luận
án gồm 04 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Chương 3: Quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và thực tiễn áp dụng
8
Chương 4: Hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự
Có thể khẳng định, TNHS là vấn đề rất phức tạp, song cũng rất cơ bản
trong PLHS. TNHS luôn được các nhà khoa học về luật hình sự thế giới quan
tâm nghiên cứu. Tính đến nay đã có nhiều công trình, tài liệu, bài viết liên quan
đến TNHS được công bố, đó là:
Ở Liên Xô cũ trước đây, trong các công trình nghiên cứu về TNHS, một
số nhà khoa học đã coi năng lực của con người hành động một khi đã hiểu rõ
được sự việc là cơ sở của trách nhiệm đối với hành vi mà người đó thực hiện.
Trong sách chuyên khảo Lý luận về tội phạm theo luật hình sự Xô viết, tác giả
Piôntkôvxki A.A cũng thống nhất với quan điểm này và khẳng định: "Năng lực
của con người quyết định một khi đã hiểu biết được hành vi do người đó thực
hiện là cơ sở của trách nhiệm hình sự..." [96].
Trước hết, nói về trách nhiệm hình sự, tác giả Brainhin Ia.M đã khẳng
định trong cuốn sách Trách nhiệm hình sự và cơ sở của trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Xô viết như sau: TNHS là một dạng trách nhiệm pháp lý, là
tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của Nhà nước và người phạm tội, được thể
hiện ở các biện pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự mà luật hình sự quy
định, áp dụng đối với người thực hiện tội phạm, bao gồm hình phạt và các biện
pháp tác động có tính chất pháp lý hình sự khác không phải hình phạt và được
bắt đầu từ khi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một người [97]. Cũng trong
tài liệu này, Brainhin Ia.M chỉ ra cơ sở của TNHS: "Năng lực của một người
thực hiện hành vi một khi đã hiểu rõ sự việc chỉ là cơ sở xác định năng lực
trách nhiệm hình sự của một người và là tiền đề cần thiết để thừa nhận một
người là người có lỗi đối với hành vi mà người đó thực hiện chứ không phải là
cơ sở của trách nhiệm hình sự" [97].
Bên cạnh đó, phải kể đến các công trình tiêu biểu khác của các nhà
nghiên cứu luật hình sự ở Nga như: Trách nhiệm hình sự và cấu thành tội
phạm của Karpusin M.P., Kurlianđxki V.I. (Nxb. Sách pháp lý, Matxcơva,
1974); Trách nhiệm hình sự và hình phạt (1976) của Bagri-Sakhmatôv L.V;
Những vấn đề về lỗi và trách nhiệm hình sự trong các thuyết tư sản hiện đại
9
của Liaxx.N.V. (Lêningrađ, 1977); Trách nhiệm hình sự và việc thực hiện nó
trong cuộc đấu tranh chống tội phạm của Xtrutchkôv N.A. (Nxb. Trường Đại
học Tổng hợp Xaratôv, 1978); Những vấn đề lý luận của trách nhiệm hình sự
(1982) của Xantalôv A.I; Tội phạm và trách nhiệm" của Prokhorôv B.X.
(Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1984); Luật hình sự Nga, Phần chung (2005)
do L.L.Kruglikov làm chủ biên [78].
Tại Thụy Điển, trong cuốn sách Swedish Law in the New Millennium [109],
dịch là Luật hình sự Thụy Điển trong giai đoạn mới đã nghiên cứu các vấn đề đặt
ra trong PLHS của Thụy Điển ở giai đoạn phát triển mới. Tài liệu này đã phân tích
TNHS từ các nguyên tắc của luật hình sự, như: pháp chế, công bằng, nhân đạo,
phân hóa TNHS... đến việc thực hiện TNHS, hệ thống hình phạt và các biện pháp
tư pháp v.v... Đối với các hình thức của TNHS, các tác giả đã làm rõ qua học
thuyết về hình phạt và hệ thống hình phạt, mức độ TNHS được phân tích thông
qua việc làm sâu sắc nội dung và điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt đối với
các tội phạm cụ thể trong BLHS của Thụy Điển.
Trong cuốn sách General Principles Of Criminal Law [110] dịch là Các
nguyên tắc chung của luật hình sự của Jerome Hall (Nxb Bobbs Merrill
Company, xuất bản lần đầu năm 1947, tái bản năm 1960 và năm 2005) đã
nghiên cứu khái quát các vấn đề nguyên tắc và chính sách liên quan đến PLHS,
TNHS và việc vận dụng trong xây dựng, áp dụng pháp luật của các cơ quan lập
pháp, Tòa án và cơ quan tư pháp khác. Trong tài liệu này, TNHS đã được cụ
thể hóa trong các nội dung liên quan như: tội phạm, hình phạt, đáng lưu ý
trong các nguyên tắc của TNHS có nguyên tắc cá thể hóa TNHS phục vụ cho
việc xét xử của Tòa án, bảo đảm chính sách xử lý công bằng và phân hóa đối
với người phạm tội.
Ngoài các công trình, tài liệu nêu trên, có thể kể đến một số Giáo trình Luật
hình sự của các quốc gia như Anh, Mỹ, Australia cũng đề cập đến vấn đề TNHS
như: “Luật hình sự - Văn bản và các vụ án” (Criminal Law: Text and Cases) của
L Waller và C R Williams, Nxb LexisNexis Butterworths, Australia, 2009; “Luật
hình sự - Lý thuyết và Học thuyết” (Criminal Law: Theory and Doctrine) của A P
Simester, J P Spencer, G R Sullivan và G J Virgo, Nxb Hart Publishing, Oxford,
2010; “Những vụ án và những vấn đề trong luật hình sự” (Cases and Problems
in Criminal Law) của Myron Moskovitz, Nxb Anderson Publishing Co.,
Cincinati, Ohio, 1999; “Các nguyên tắc của luật hình sự” (Principles of Criminal
10
Law) của Andrew Ashworth, Nxb Oxford University Press, 1999; “Luật hình sự
Văn bản, các vụ án và các nguồn tư liệu” (Criminal Law Text, Cases, and
Materials) của Janet Loveless, Nxb Oxford University Press, năm 2008;… [78].
Các tài liệu trên phân tích cơ sở của TNHS, như: các yếu tố cấu thành tội
phạm, các vấn đề về cấu thành của tội phạm chưa hoàn thành, của dự mưu đồng
phạm, cấu thành của hành vi đồng phạm, TNHS không chứa lỗi, TNHS thay
thế hoặc TNHS đồng nhất.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, tài liệu sách chuyên khảo nêu trên
đều có sự nhận thức chung thống nhất về nội hàm khái niệm, đặc điểm cơ bản và
nội dung của TNHS xuyên suốt trong các quy định của PLHS. Tuy nhiên, ngoài
các tác giả Xô viết còn có quan điểm khác nhau về TNHS và cơ sở của TNHS,
đáng chú ý là Sách chuyên khảo Criminal Law [111] dịch là Luật hình sự
(Published and bound in Canada by Love Printing Service Ltd, 1996) của Kent
Roach đã đưa ra khái niệm về TNHS: “TNHS là sự phản ứng hay sự lên án của
Nhà nước và xã hội đối với người thực hiện hành vi phạm tội và thể hiện ở bản
án mà trong đó họ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tước bỏ hoặc hạn chế
các quyền hay lợi ích nhất định...". Quan điểm này có điểm mới và khác biệt khi
cho rằng: TNHS là sự phản ứng hay sự lên án của Nhà nước và xã hội đối với
người thực hiện hành vi phạm tội [78].
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Đến nay, CNTT, MVT là những lĩnh vực tuy không còn mới, song vẫn rất
nóng bỏng, phức tạp bởi hoạt động của tội phạm trong lĩnh vực này. Lịch sử của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gắn liền với sự ra đời của máy tính, mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng internet. Qua nghiên cứu, khảo sát các nguồn
tài liệu, có thể nêu tổng quan các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên
quan đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:
Trước hết, là các tài liệu nghiên cứu về vấn đề cho rằng tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT là tội phạm mới hay không phải là tội phạm mới.
Đa số các tác giả từ trước đến nay đều cho rằng, tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT là tội phạm mới, do vậy các nghiên cứu thường xây dựng khái niệm
cho tội phạm này. Đây được coi là tội phạm mới vì để thực hiện được hành vi
phạm tội, người phạm tội luôn phải gắn với các thiết bị công nghệ cao, phải có
kiến thức, kỹ năng về máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông, internet. Theo
11
đó, quá trình tiến hành tố tụng về sau đòi hỏi người tiến hành tố tụng cũng phải có
kiến thức về máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông, internet. Các tác giả cũng
cho rằng vì đây là loại tội phạm mới, có đặc điểm khác với tội phạm truyền thống
nên Luật Hình sự cần phải có quy định riêng đối với loại tội phạm này.
Trái ngược quan điểm nêu trên, một số tác giả khác cho rằng tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT vẫn là các tội phạm đã xuất hiện từ trước, chỉ khác
nhau là cách thức thực hiện tội phạm, công cụ thực hiện tội phạm có sử dụng
CNTT, MVT mà thôi. Theo đó, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ là hình
thức thể hiện mới của tội phạm truyền thống. Đây là tư tưởng nổi bật trong tác
phẩm “Cybercrime: An Introduction” [117] dịch là Giới thiệu về tội phạm
mạng của tác giả Li, Xingan (Joensuu, Finland: LEX, 2005).
Thứ hai, là các nghiên cứu về vấn đề khái niệm tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT. Trong lịch sử, các tác giả đã nghiên cứu sớm hơn cả đến một khái
niệm liên quan, đó là khái niệm tội phạm mạng. Theo tác giả Debra Littejohn
Shinder, tội phạm mạng được rất nhiều người quan tâm, nhưng chưa có khái
niệm chính thức về tội phạm này. Các quan điểm về tội phạm này cũng không
có sự thống nhất. Dưới góc độ chung, có thể hiểu tội phạm mạng là tội phạm có
liên quan đến máy tính và mạng máy tính ở những vai trò như công cụ phạm
tội, mục tiêu tấn công của tội phạm hoặc phục vụ cho mục đích có liên quan
đến tội phạm. Các tác giả Steven Malby, Robyn Mace, Anika Holterhof,
Cameron Brown, Stefan Kascherus, Eva Ignatuschtschenko cũng cho rằng, trên
phạm vi toàn cầu, chưa có sự thống nhất về khái niệm tội phạm mạng. Tội
phạm này thường được gọi là “tội phạm mạng”, “tội phạm máy tính”, “tội
phạm công nghệ cao”,… do vậy, các tác giả không có ý định đưa ra một khái
niệm chung về tội phạm mạng, mà sử dụng phương pháp liệt kê những hành vi
phạm tội nào được coi là tội phạm mạng. Theo đó, nhiều hành vi phạm tội đã
được coi là tội phạm mạng như: tội truy cập trái phép, ngăn chặn, chặn bắt bất
hợp pháp dữ liệu máy tính; tội truy cập bất hợp pháp; tội gây rối hệ thống; tội
gây rối dữ liệu; tội xâm phạm bí mật đời tư; tội lạm dụng các thiết bị; tội giả
mạo liên quan đến máy tính; tội lừa đảo liên quan đến máy tính.
Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được trình bày trong
một số tác phẩm như: “Understanding cybercrime: phenomena, challenges
and legal response”, dịch là Luận giải về tình hình, thách thức và biện pháp
pháp lý đối với tội phạm mạng của tác giả Marco Gercke (Tổ chức viễn thông
12
quốc tế Liên hợp quốc (ITU) phát hành năm 2012); tác phẩm “Handbook of
internet Crime”, dịch là Sổ tay tội phạm mạng của tác giả Yvonne Jewkes và
Majid Yar (Nxb. Routledge, New York, 2011); tác phẩm“Policing Cyber
Crime”, dịch là Chính sách về tội phạm mạng của tác giả Petter Gottschalk;
“Handbook on Identity- Related Crime”, dịch là Sổ tay về tội phạm liên quan
đến thông tin danh tính cá nhân (United National (UNODC) phát hành năm
2011); bài viết “A Critical Look at the Regulation of Cybercrime”, dịch là
Bình luận các quy định về tội phạm mạng của tác giả Chawki, M, đăng trên
tạp chí The ICFAI Journal of Cyberlaw (2005); bài viết “An introduction to
Cybercrime”, dịch là Giới thiệu về tội phạm mạng của tác giả Marco Gercke,
Giáo sư Trường Đại học Cologne, Đức; bài viết “Cybercrime theory and
discerning if there is a crime: the case of digital piracy” dịch là Lý thuyết và
nhận thức rõ về tội phạm mạng: trường hợp xâm phạm bản quyền kỹ thuật số)
của tác giả Frances P Bernat và David Makin, đăng trên Tạp chí International
Review of modern sociology, Volume 40, số 2/2014.
Qua tìm hiểu về các công trình nghiên cứu ở trên, có thể thấy rằng, nhận
thức chung cơ bản đã có sự thống nhất, nhưng chưa thống nhất khi xác định cụ
thể phạm vi của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Có quan điểm xác định
phạm vi của tội phạm này rất rộng. Cụ thể: Bộ Tư pháp Mỹ cho rằng, tội phạm
máy tính bao gồm “mọi hành vi phạm tội có sử dụng kiến thức kỹ thuật máy tính
để phạm tội, điều tra hoặc xét xử”, đây là quan điểm cho thấy phạm vi của tội
phạm này quá rộng.
Chính vì chưa có sự thống nhất về phạm vi khái niệm tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT nên các nghiên cứu thường chú trọng tới việc phân loại
tội phạm này. Song, mỗi tác giả cũng có cách phân loại khác nhau, dựa trên
các tiêu chí khác nhau. Theo tác giả Debra Littejohn Shinder, dựa vào tính
chất của hành vi có tính bạo lực đối với con người hay không, tội phạm mạng
được chia làm 03 loại chính, đó là: Các tội phạm xâm phạm hoặc đe dọa xâm
phạm đến con người; Các tội phạm không bạo lực, xâm phạm thế giới ảo
(xâm phạm mạng, lừa đảo qua mạng, trộm cắp qua mạng; phá hoại mạng máy
tính, mạng viễn thông; các tội phạm khác); Các tội phạm không bạo lực
khác (quảng cáo trái phép trên mạng, cờ bạc qua mạng, mua bán trái phép
ma túy qua mạng, rửa tiền qua mạng, chuyển giao bất hợp pháp qua mạng).
Đối với tác giả Chawki, M. căn cứ vào hành vi và mục đích phạm tội, tội
13
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được chia thành 06 nhóm gồm: Các tội
phạm trộm cắp qua mạng; Tội phạm khủng bố qua mạng; Các tội phạm có
hành vi theo dõi, đe dọa, nói xấu cá nhân, tổ chức qua mạng; Các tội phạm lừa
đảo qua máy tính, mạng máy tính, mạng viễn thông; Các tội phạm liên quan
đến vi-rút và mã độc như: tội sản xuất, phân phối, tàng trữ, sở hữu trái phép
vi-rút, tội phát tán vi-rút hoặc sử dụng vi-rút để thực hiện các tội khác như
truy cập trái phép hoặc cản trở, phá hủy mạng máy tính, phương tiện điện tử;
Các tội phạm truy cập bất hợp pháp (hacking) vào máy tính, mạng máy tính
để thu thập thông tin hoặc các mục đích khác.
Trong các đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, có một đặc
điểm rất nổi bật đó là tội phạm này mang tính quốc tế, nó không bị giới hạn bởi
không gian địa lý, lãnh thổ. Việc thực hiện tội phạm thông qua mạng internet có
thể gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân ở quốc gia khác mà không cần trực tiếp có
mặt người phạm tội ở đó. Người phạm tội có thể “ẩn danh” nhằm che giấu tội
phạm. Để đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này, đã có nhiều văn bản pháp
luật quốc tế ra đời quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Nội dung các văn bản quốc tế quy định về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT khá đa dạng, phong phú, tập trung vào 04 vấn đề chính là:
Hình sự hóa các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT; Hợp tác quốc
tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; Xác
định thẩm quyền xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; Thủ tục tố tụng
trong xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Để hiểu rõ những văn bản
này, nhiều tác giả đã nghiên cứu làm rõ nội dung của các văn bản, đánh giá sự
tương thích của các văn bản này với PLHS của một số nước. Có một tác phẩm
tiêu biểu đó là “Comprehensive Study On Cybercrime”, dịch là Nghiên cứu
tổng quan về tội phạm mạng của các tác giả Steven Malby, Robyn Mace,
Anika Holterhof, Cameron Brown, Stefan Kascherus, Eva Ignatuschtschenko
do United Nations (UNODC) xây dựng năm 2013 đã nghiên cứu một cách
tổng thể, khái quát rất nhiều văn bản quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT từ trước đến nay, nhất là trong chương 2 và chương 3 của cuốn
sách. Trong chương 2 về tình hình tội phạm mạng trên toàn thế giới, các tác
giả không chỉ nêu lên tình hình tội phạm mạng mà còn mô tả bức tranh về đối
tượng phạm tội này. Còn trong chương 3 đã làm rõ vai trò của pháp luật, trong
đó có pháp luật quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Nội dung
14
quy định về hình sự hoá các hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT đã
được phân tích một cách cụ thể. Bên cạnh đó, nội dung tác phẩm có sự so
sánh, đánh giá quy định của các văn bản quốc tế với nhau và so sánh đánh giá
với kết quả khảo cứu về quy định luật hình sự của hơn 80 nước trên thế giới.
Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác cũng nghiên cứu về văn bản pháp
luật quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như: tác phẩm “The History
of Global Harmonization on Cybercrime Legislation - The Road to Geneva”
dịch là Lịch sử của hài hòa quốc tế trong lĩnh vực lập pháp đối với tội phạm
mạng - Đường tới Geneva của tác giả Stein Schjolberg (2008); tác phẩm
“Understanding cybercrime: phenomena, challenges and legal response” dịch là
Luận giải về tình hình, thách thức và biện pháp pháp lý đối với tội phạm mạng
của tác giả Marco Gercke (Tổ chức viễn thông quốc tế Liên hợp quốc (ITU),
phát hành năm 2012); tác phẩm “Global Cybercrime: The Interplay of Politics
and Law” dịch là Tội phạm mạng toàn cầu: Sự tương tác của chính sách và
pháp luật của tác giả Aaron Shul (2014); tác phẩm “The Council of Erope
Convention on Cybercrime” dịch là Công ước về tội phạm mạng của Hội đồng
Châu Âu của tác giả Mike Keyser, CNS Đại học luật Seattle, Mỹ; hay như tác
phẩm The Emerging Consensus on Criminal Conduct in Cybercrime” dịch là Sự
thống nhất nổi bật về hành vi phạm tội đối với loại tội phạm mạng của các tác
giả Marc D. Goodman và Susan W. Brenner,…
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến trách nhiệm hình sự
Từ việc nghiên cứu các công trình khoa học ở trong nước liên quan đến TNHS
có thể khẳng định: tính đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có liên quan,
đa dạng về thể loại, nội dung và góc độ nghiên cứu về TNHS. Cụ thể như sau:
- Một là, nhóm các công trình khoa học về luật hình sự có liên quan đến TNHS
Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam [85] là công trình
lớn được nhiều tác giả nghiên cứu trên các phương diện lý luận và thực tiễn áp
dụng luật hình sự, luật tố tụng hình sự và tội phạm học. Các tác giả nghiên cứu
TNHS dưới góc độ lý luận khoa học hình sự. Nếu xác định chính xác TNHS sẽ
giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thực thi PLHS, pháp luật tố tụng hình sự
một cách hiệu quả, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm hay áp dụng hình phạt không
tương xứng đối với các hành vi phạm tội đã gây ra.
Tội phạm và trách nhiệm hình sự [92] đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
15
thực tiễn về tội phạm và TNHS trong PLHS nước ta. Theo đó, tội phạm và TNHS
liên hệ chặt chẽ với nhau, việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề TNHS có ý nghĩa rất
quan trọng. Những nội dung như: cơ sở, điều kiện của TNHS, thời hiệu truy cứu
TNHS, miễn TNHS… đã được nghiên cứu, đề cập làm sáng tỏ trong nội dung tài
liệu này. Bên cạnh đó, cuốn sách đã đánh giá những hạn chế, thiếu sót trong các quy
định tương ứng của BLHS về tội phạm và TNHS trên cơ sở tổng kết những tri thức
khoa học về luật hình sự, thực tiễn triển khai áp dụng và kinh nghiệm lập pháp của
một số nước trên thế giới. Trên cơ sở đó, đưa ra những vấn đề cần tiếp tục hoàn
thiện xoay quanh vấn đề tội phạm và TNHS.
Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự [15] là công trình
nghiên cứu về hai chế định rất quan trọng của PLHS Việt Nam: chế định TNHS
và chế định miễn TNHS. Tác phẩm đã làm sáng tỏ các vấn đề đó là: khái niệm,
bản chất, đặc điểm, cơ sở và những điều kiện của TNHS, miễn TNHS, các
hậu quả pháp lý khi người phạm tội được miễn TNHS, vấn đề về TNHS của
pháp nhân. Hiện tại, trong giới nghiên cứu luật hình sự vẫn còn quan điểm khác
nhau xung quanh chế định TNHS và miễn TNHS. Thực tế, TNHS và miễn
TNHS có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, là hai chế định r ấ t cơ bản
của luật hình sự, có tính thống nhất. Nếu giải quyết tốt vấn đề TNHS và áp
dụng đúng, hiệu quả chế định miễn TNHS trong thực tiễn sẽ tạo thuận lợi
cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm thực hiện nguyên tắc
"trừng trị kết hợp với giáo dục cải tạo", "nghiêm trị kết hợp với khoan hồng"
trong chính sách hình sự của Nhà nước ta [16].
Sách chuyên khảo “Trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện pháp hình sự
khác” [40] của Nguyễn Ngọc Hòa, Nhà xuất bản Tư pháp (2022) đã đưa ra quan
điểm, giải thích nội dung quy định về TNHS, hình phạt và các biện pháp hình sự
khác trong PLHS Việt Nam và một số quốc gia khác trên thế giới để góp phần tạo
thêm cơ sở cho việc đánh giá, kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về TNHS, về
hình phạt và các biện pháp hình sự khác trong BLHS Việt Nam.
Giáo trình Trách nhiệm hình sự và hình phạt [93] của Trịnh Tiến Việt, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2022) dùng cho đào tạo sau đại học đã phân tích
những vấn đề lý luận và thực tiễn TNHS, hình phạt, TNHS và hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam tương lai. Cụ thể, giáo trình đã luận giải những vấn đề cốt
lõi nhất về TNHS đối với người phạm tội, TNHS đối với pháp nhân thương mại
phạm tội. Bên cạnh đó đã phân tích những vấn đề cơ bản nhất về hình phạt, hệ
16
thống hình phạt đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội, khái
niệm, ý nghĩa và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của hình phạt trên các phương diện
khác nhau; làm sáng tỏ miễn hình phạt, biện pháp tư pháp, góp phần hỗ trợ cho
hình phạt đạt được mục đích tối đa nhất. Ngoài ra, giáo trình còn gợi mở hướng
nghiên cứu mới với cách tiếp cận liên ngành: khoa học luật hình sự và khoa học
viễn tưởng, công nghệ học, tâm lý học, ngôn ngữ học và giáo dục học, giả định
viễn cảnh tương lai trong BLHS bổ sung thêm TNHS và hình phạt đối với thực thể
trí tuệ nhân tạo (AI). Từ đó, phác thảo các mô hình TNHS và hình phạt giả định
ứng phó kịp thời cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ và sự phát triển
của xã hội, cũng như trước những hành vi nguy hiểm mới nguy hiểm cho xã hội.
Trong việc triển khai nghiên cứu đề tài luận án, đây là một trong những tài liệu
tham khảo có giá trị.
Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (phần chung) [16] là
công trình đầu tiên trong khoa học luật hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách
đồng bộ, hệ thống và toàn diện 09 nhóm vấn đề cơ bản về phần chung luật hình
sự gồm: (1) Chính sách hình sự, (2) nhập môn luật hình sự, (3) đạo luật hình sự,
(4) tội phạm, (5) những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của
hành vi, (6) TNHS, (7) hình phạt và biện pháp tư pháp, (8) các biện pháp tha
miễn trong luật hình sự, (9) luật hình sự quốc tế. Trong đó, vấn đề TNHS đã
được phân tích, làm rõ trên cơ sở luận giải nhiều quan điểm của các nhà nghiên
cứu luật học trên thế giới. Từ đó đưa ra khái niệm về TNHS đảm bảo phù hợp
với đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách hình sự của Nhà nước ta.
Song trên thực tế, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT với tư
cách là một vấn đề độc lập chưa được công trình nào đề cập nghiên cứu.
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam [34] trình bày các vấn đề cơ bản: khái
niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam, phân tích các khái
niệm, các quy định về tội phạm và phân loại tội phạm, cấu thành tội phạm. Trong
đó, tập trung nghiên cứu khá sâu sắc về nội dung TNHS và hình phạt trong luật
hình sự nước ta. Tác giả đã làm rõ một số quan điểm về TNHS, phân tích các đặc
điểm cơ bản của TNHS, như: TNHS là một dạng cụ thể của trách nhiệm pháp lý,
chỉ áp dụng đối với những người thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định PLHS
lúc bấy giờ thì TNHS này chỉ áp dụng cho cá nhân người phạm tội.
Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam [43], trong công trình này, tác giả
đã giới thiệu một số điều khoản cơ bản và hiệu lực của BLHS, đồng thời phân
17
tích, bình luận khoa học về các khía cạnh pháp lý của BLHS như: tội phạm,
thời hiệu truy cứu TNHS, miễn TNHS, hình phạt, các biện pháp tư pháp, quyết
định hình phạt theo các giai đoạn lịch sử xây dựng, phát triển của khoa học luật
hình sự Việt Nam.
Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam [46], công trình
nghiên cứu này đã chỉ ra khái niệm, mục đích, ý nghĩa, đặc điểm và các nội dung
chủ yếu của chính sách hình sự cũng như quá trình xây dựng và thực hiện chính
sách hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến thời điểm nghiên cứu. Theo tập thể
tác giả, chính sách hình sự suy cho cùng là những quan điểm, chủ trương của
Đảng, Nhà nước đối với việc xử lý các tội phạm, do vậy, chính sách hình sự và
TNHS luôn gắn bó mật thiết với nhau trong quá trình áp dụng PLHS. Đối với
việc nghiên cứu đề tài luận án thì tài liệu này rất có giá trị tham khảo nhằm làm
rõ phần lý luận về TNHS.
- Hai là, nhóm các Luận án tiến sĩ nghiên cứu vấn đề liên quan đến TNHS Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam [32], công trình
luận án của tác giả Phạm Mạnh Hùng đã tập trung nghiên cứu chủ yếu về lý luận
của TNHS: khái niệm TNHS, mối quan hệ giữa TNHS với miễn TNHS và một
số trường hợp đặc biệt về TNHS theo PLHS Việt Nam. Luận án thực sự là nguồn
tài liệu tham khảo bổ ích để Nghiên cứu sinh nghiên cứu về TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam.
Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật hình
sự Việt Nam [24], trong luận án này, tác giả Trần Văn Dũng đã làm rõ những vấn
đề chung về TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội, quy định về TNHS
của người chưa thành niên phạm tội trong PLHS Việt Nam trước khi ban hành
BLHS năm 1999 và trong BLHS năm 1999. Luận án đã phân tích trách nhiệm
của gia đình, nhà trường và xã hội; thực trạng tội phạm do người chưa thành niên
gây ra; chỉ rõ nguyên nhân phát sinh của tội phạm này... Luận án nghiên cứu về
một chế định quan trọng của luật hình sự, nhất là trong thời điểm có nhiều vụ án
hình sự nghiêm trọng xảy ra do người chưa thành niên thực hiện. Luận án tuy
không nghiên cứu về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT song
một số kết luận khoa học của luận án này có ý nghĩa rất quan trọng để Nghiên
cứu sinh tham khảo, triển khai thực hiện luận án của mình.
Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam
[90], luận án này của tác giả Trần Thị Quang Vinh đã nghiên cứu lý luận và
18
thực tiễn áp dụng các quy định của luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ
TNHS; nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong BLHS Việt Nam. Vấn
đề này cũng khá nóng bỏng bởi trong thời gian qua, tỷ lệ án treo hoặc áp dụng
hình phạt nhẹ trong việc xét xử của Tòa án các cấp đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT có tỷ lệ cao mà một phần nguyên nhân được đưa ra là do Tòa
án đã vận dụng, áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS... Luận án này sẽ giúp
Nghiên cứu sinh đề xuất hoàn thiện về tình tiết giảm nhẹ và khung hình phạt
đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam [56],
trong luận án này, tác giả Cao Thị Oanh đã nghiên cứu về nguyên tắc phân hóa
TNHS; vận dụng các vấn đề lý luận để nghiên cứu các quy định của BLHS năm
1999, xác định những quy định phù hợp và chưa phù hợp. Từ đó đưa ra hướng
bổ sung, hoàn thiện các quy định chưa phù hợp. Luận án mới nghiên cứu và làm
rõ nguyên tắc phân hóa TNHS nói chung mà chưa được đề cập cụ thể về TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật
hình sự Việt Nam [91], luận án của tác giả Trịnh Tiến Việt đã nghiên cứu về chế
định miễn TNHS trong luật hình sự nước ta và việc áp dụng chế định miễn
TNHS trong thực tế. Luận án đã làm rõ những bất cập và đưa ra một số kiến nghị
lập pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn TNHS. Miễn TNHS là
một nội dung quan trọng, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, định hướng
nghiên cứu làm rõ hơn tính đặc thù về chính sách hình sự cũng như TNHS.
- Ba là, nhóm các bài báo khoa học liên quan đến TNHS
Mặc dù đã xuất hiện ở những năm 90 của thế kỷ XX, song các nghiên cứu
về TNHS của pháp nhân và các vấn đề xung quanh TNHS của pháp nhân ở Việt
Nam còn nhiều quan điểm khác nhau. Thời gian vừa qua đã có một số công
trình nghiên cứu liên quan đến TNHS của pháp nhân được đăng tải trên các tạp
chí như: Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong
luật hình sự Thụy Sĩ của Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
7/2005; Về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Trung Quốc
của Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2005; Cơ sở thực tiễn
của việc quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức, pháp nhân của Trần Văn
Độ, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 01/2011; Sự cần thiết của việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Việt Nam của Cao Thị Oanh, Tạp chí Luật
19
học, số 12/2011. Đây là những báo báo đặt nền móng cho việc tiếp cận chế
định TNHS của pháp nhân thương mại trong PLHS Việt Nam. Theo đó BLHS
năm 2015 đã có quy định chính thức về TNHS đối với pháp nhân thương mại
tại khoản 2, Điều 2 đó là: "Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã
được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự".
Ngoài ra, còn có một số bài báo tiêu biểu được đăng trên các Tạp chí như:
Phân biệt trách nhiệm hình sự với trách nhiệm pháp lý khác, cơ sở và những
điều kiện của trách nhiệm hình sự của Lê Cảm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số
15/2004; Phân hóa trách nhiệm hình sự - một số vấn đề lý luận cơ bản của Lê
Cảm, Cao Thị Oanh, Tạp chí Luật học, số 2/2006; Năng lực trách nhiệm hình
sự nhìn từ góc độ so sánh pháp luật một số nước trên thế giới của Hồ Sỹ Sơn,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2011; “Trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự”, Tạp chí Luật học, số 5/1997 và “Về trách nhiệm hình sự của
hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”, Tạp chí Luật học, số 4/2002
của Lê Thị Sơn; “Trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi xâm
phạm sở hữu có giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu” của Nguyễn
Văn Trượng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2005; hay như “Lịch sử phân hóa
trách nhiệm hình sự trong các quy định về tội giết người từ năm 1945 đến nay”
của Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3/2006; “Bàn về khái
niệm, bản chất, nội dung và giới hạn của trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 6/2010 của Hồ Sỹ Sơn.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Ở nước ta, lĩnh vực CNTT, MVT mới chỉ được ứng dụng phổ biến vào đầu
những năm 90 của thế kỷ XX. Do đó, việc nghiên cứu về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT cũng mới được quan tâm nghiên cứu từ sau đó đến nay nhưng cũng
chưa nhiều. BLHS năm 1999 quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
tại Điều 224, Điều 225 và Điều 226, khi đó số lượng các công trình nghiên cứu
về tội phạm này mới tăng lên đáng kể. Tính đến nay, các nghiên cứu liên quan
đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tập trung vào một số chủ đề như: (1)
nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; (2)
phân tích, bình luận các quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT; (3) phân tích những bất cập trong thực tiễn áp dụng quy định của BLHS
về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và đề xuất, kiến nghị phương án khắc
20
phục; (4) nghiên cứu về các văn bản quốc tế, cũng như kinh nghiệm của các
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT [44].
Về khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ trước đến nay đều rất
được quan tâm ở Việt Nam, nó được chia làm 02 giai đoạn:
Đầu tiên khi mới xuất hiện, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được hiểu
là hành vi sử dụng CNTT, MVT để tấn công môi trường không gian mạng.
CNTT, MVT chính là mục tiêu tấn công của tội phạm. Theo đó, tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT được gọi bằng các thuật ngữ khác nhau như: tội phạm
máy tính, tội phạm vi tính, tội phạm mạng… Khái niệm tội phạm máy tính được
đưa ra chính là một trong những dạng đặc trưng nhất của tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT.
Giai đoạn thứ hai, khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được mở
rộng phạm vi, là tội phạm có liên quan đến CNTT, MVT với vai trò là mục đích
phạm tội và công cụ, phương tiện phạm tội. Hầu hết các nghiên cứu sau này về
khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, ở mức độ khác nhau đều theo
xu hướng này, có thể kể đến một số nghiên cứu như:
- Sách chuyên khảo “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin” của
Phạm Văn Lợi chủ biên (NXB. Tư pháp, 2007) và cuốn “Tội phạm trong lĩnh
vực bưu chính - viễn thông và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh” của Viện chiến
lược và Khoa học công an (NXB. Công an nhân dân, 2007).
- Luận án “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
theo Luật Hình sự Việt Nam” [44] của tác giả Nguyễn Quý Khuyến, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2020 đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống lý luận như khái
niệm, đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; phân tích các dấu hiệu
pháp lý và hình phạt của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định của
BLHS năm 2015; bình luận, so sánh, đánh giá các quy định này với những chuẩn
mực và xu hướng của pháp luật quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
để tìm ra điểm tương thích và chưa tương thích của Luật hình sự Việt Nam. Bên
cạnh đó, Luận án đã tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của Luật hình
sự về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS năm 2015 về tội
phạm này trong thời gian tới.
- Luận án “Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin
và viễn thông ở Việt Nam hiện nay” [33] của tác giả Trần Đoàn Hạnh, Học viện
21
Khoa học xã hội, năm 2021 đã làm rõ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; đánh giá thực tiễn hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót
và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong hoạt động phòng ngừa tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Bên cạnh đó, Luận án đã đưa ra các giải pháp nhằm
tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT trong thời gian tới.
- Luận văn “Các tội phạm trong lĩnh vực tin học theo Luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Trần Thị Hồng Lê (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009) và
“Tội phạm công nghệ thông tin trong Bộ luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần
Thanh Thảo (Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013).
- Bài nghiên cứu đăng trên tạp chí chuyên ngành có: “Đặc điểm và các
dạng hành vi cơ bản của tội phạm tin học,” của tác giả Nguyễn Mạnh Toàn đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2002; bài viết “Khái niệm và đặc điểm
của tội phạm công nghệ thông tin - Sự khác nhau giữa tội phạm công nghệ thông
tin và tội phạm thông thường” của tác giả Đặng Trung Hà đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 3/2009; bài viết “Tội phạm máy tính - Khái niệm, đặc trưng
và một số giải pháp phòng, chống”, của tác giả Nguyễn Hòa Bình đăng trên Tạp
chí Công an nhân dân, tháng 8/2003 [44].
Theo các nghiên cứu trên, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là tội phạm
có liên quan đến CNTT, MVT với những vai trò khác nhau. Trong đó, CNTT,
MVT thường liên quan đến tội phạm với 4 vai trò: (1) CNTT, MVT là mục đích
của tội phạm; (2) CNTT, MVT là công cụ, phương tiện phạm tội; (3) CNTT,
MVT là chủ thể của tội phạm; (4) CNTT, MVT là vật trung gian, cất giấu, lưu
trữ dấu vết tội phạm [47]. Theo cách tiếp cận này, khái niệm tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT có phạm vi rất rộng, tuỳ theo mục đích và góc độ nghiên cứu.
Chính vì vậy dẫn đến việc các tác giả xác định phạm vi khái niệm tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT không thống nhất.
Các nghiên cứu đã chỉ ra đặc trưng quan trọng của tội phạm này là sự liên
quan đến CNTT, MVT ở các góc độ khác nhau. Đây là điểm thống nhất quan
trọng để xác định khái niệm tội phạm này. Tuy nhiên, tội phạm liên quan đến
CNTT, MVT ở mức độ nào thì được coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
chưa có sự thống nhất.
Vấn đề đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng được
22
nhiều công trình nghiên cứu. Theo tác giả Phạm Văn Lợi, ngoài các đặc điểm
của tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT còn có một số điểm đặc
trưng khác như: (1) có vai trò của máy tính, mạng máy tính và các thiết bị công
nghệ thông tin có liên quan; (2) chủ thể phạm tội là người có kiến thức và am
hiểu về công nghệ mới; (3) hậu quả của tội phạm thường nghiêm trọng; (4) hành
vi phạm tội thường có tính chất tinh vi, phức tạp.
Điều này cũng được trình bày trong bài nghiên cứu “Khái niệm và đặc điểm
của tội phạm công nghệ thông tin - Sự khác nhau giữa tội phạm công nghệ thông
tin và tội phạm thông thường” của tác giả Đặng Trung Hà đăng trên Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, số 3/2009. Bài viết đã phân tích rõ sự khác nhau giữa tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT với các tội phạm khác là cơ sở để BLHS có quy
định riêng về tội phạm này. Thông qua việc nghiên cứu đặc điểm cấu trúc của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chúng ta có thêm cơ sở để xác định, lựa chọn
dấu hiệu nào sẽ được BLHS quy định trong cấu thành tội phạm.
Phân loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là nội dung có ý nghĩa quan
trọng về cả lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nội dung này ít được nghiên cứu ở
Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu đến nhưng còn hạn chế. Chẳng
hạn, theo tác giả Đặng Trung Hà, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được
chia thành 02 nhóm: (1) tội phạm CNTT xâm phạm, làm ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của hệ thống máy tính, mạng máy tính và thiết bị điện tử; (2)
tội phạm CNTT sử dụng máy tính và mạng máy tính làm công cụ để xâm phạm
đến lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn công
cộng. Cách phân loại này đúng nhưng còn khái quát, chưa có nhiều ý nghĩa;
chưa xác định được tiêu chí phân loại cụ thể làm căn cứ phân loại.
Khi BLHS năm 2015 được ban hành với nhiều quy định được sửa đổi, bổ
sung về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhiều công trình nghiên cứu đã làm
rõ các dấu hiệu pháp lý và hình phạt của tội này như: “Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam” (Phần các tội phạm) Tập 2 của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (NXB. Đại
học quốc gia Hà Nội, 2016); “Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017” do Lê Đăng Doanh và Cao Thị Oanh chủ biên (NXB.
Hồng Đức, 2018); “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi,
bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm)”, quyển 2 do Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên
(NXB. Tư pháp, 2018); “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017)” phần các tội phạm của các tác giả Trần Văn Luyện, Phùng Thế
23
Vắc, Lê Văn Thư, Mai Văn Bộ, Phạm Thanh Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Phạm Thị
Thu (NXB. Công an nhân dân, 2018).
Vấn đề kỹ thuật lập pháp của BLHS năm 2015 về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT cũng được nghiên cứu trong đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu
tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định các tội phạm với các
luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam” (2016) do Nguyễn Ngọc Hòa làm
chủ nhiệm, trong đó có chuyên đề “Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật Hình
sự năm 2015 với Luật Công nghệ thông tin” của Nguyễn Văn Hương. Thông
qua việc nghiên cứu, so sánh giữa các tội thuộc lĩnh vực CNTT được quy định
trong BLHS năm 2015 với các quy định về hành vi bị cấm trong Luật Công nghệ
thông tin, tác giả đưa ra nhận xét đánh giá “hầu hết các hành vi bị nghiêm cấm
trong Luật Công nghệ thông tin (có tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội) đều được
quy định trong BLHS 2015. So với BLHS 1999, các tội thuộc lĩnh vực CNTT
trong BLHS 2015 được bổ sung thêm 03 tội danh mới. Tuy nhiên, các quy định
trong BLHS 2015 vẫn còn có những hạn chế nhất định và điều đó đòi hỏi cần
được tiếp tục hoàn thiện”. Để hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015, tác giả
Nguyễn Văn Hương đưa ra một số đề xuất như: (1) quy định TNHS của pháp
nhân đối với Điều 285 và Điều 292; (2) chuyển Điều 290 về chương các tội xâm
phạm sở hữu; (3) thu hẹp phạm vi điều chỉnh của Điều 292; (4) bổ sung dấu hiệu
làm rõ ranh giới của hành vi bị coi là tội phạm với hành vi vi phạm (bị xử phạt
hành chính) quy định tại Điều 290 [44]. BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung
năm 2017 thì đã bãi bỏ Điều 292.
Hướng nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định của BLHS về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT và đề xuất, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định này được rất nhiều tác giả quan tâm. Các tác phẩm nghiên cứu
này khá phong phú bao gồm sách chuyên khảo, luận án, luận văn và các bài nghiên
cứu công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Trong tác phẩm “Tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin”, thông qua việc nghiên cứu tình hình tội phạm và các quy
định pháp luật về phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước
ta cho đến trước năm 2007, tác giả nêu ra một số khó khăn, vướng mắc trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này. Để giải quyết những khó khăn,
vướng mắc trên, các tác giả đưa ra một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Các giải pháp mà các tác giả nêu ra có
những ý nghĩa tham khảo nhất định nhất là những giải pháp bổ sung, hoàn thiện
24
PLHS và áp dụng PLHS trong lĩnh vực này.
Trong tác phẩm “Tội phạm trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông và giải
pháp phòng ngừa, đấu tranh” của Viện Chiến lược và khoa học công an (NXB.
Công an nhân dân, 2007), các tác giả đã nêu ra một số khó khăn của lực lượng
Công an nhân dân khi áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 để đấu tranh
với các tội phạm trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông. Trên cơ sở đó đã đưa ra
một số giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh
với tội phạm trong lĩnh vực bưu chính - viễn thông..
Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của BLHS về
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT để xử lý tội phạm này cũng được nhiều tác
giả nghiên cứu. Vấn đề này có thể kể đến các bài viết như bài viết “Viện Kiểm
sát nhân dân trước những khó khăn, thách thức của các tội phạm về công nghệ
thông tin” của tác giả Nguyễn Minh Đức đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 19/2008;
bài viết“Về việc xác định tội danh đối với một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực
viễn thông” của tác giả Mai Thế Bầy đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
số 3/2002; bài viết “Xác định tội trộm cắp tài sản đối với người lắp đặt thiết bị
thu phát viễn thông để thu lợi bất chính là có căn cứ” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 19/2004; bài viết “Về định tội danh đối
với hành vi làm, sử dụng thẻ tín dụng giả hay các loại thẻ khác để mua hàng hóa
hoặc rút tiền tại các máy trả tiền tự động của các ngân hàng” của tác giả Lê
Đăng Doanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2006. Trong các bài viết
này, các tác giả đã chỉ ra những khó khăn trong việc áp dụng quy định của BLHS
để xét xử những hành vi phạm tội mới xuất hiện; khó khăn trong việc định tội
đối với một số tội dễ gây nhầm lẫn. Đồng thời, đề xuất phương án để tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc trên [44].
Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy
định của BLHS đã được nhiều tác giả nghiên cứu và chỉ ra. Trong đó có nguyên
nhân từ quy định của pháp luật như BLHS như: chưa có quy định hoặc chưa có
văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. Một số bài viết về chủ đề này
như bài viết “Cần sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin” của tác giả Nguyễn Văn Hoàn đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 4/2010; 02 bài
viết đều của tác giả Phạm Minh Tuyên: “Một số vướng mắc và biện pháp xử lý
tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, viễn thông ở Việt Nam” đăng trên
25
Tạp chí Kiểm sát, số 19/2012 và “Quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật hình sự 2009 về tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí
Kiểm sát, số 23/2013; bài viết “Về tội sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho
công cụ, thiết bị phần mềm có khả năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử theo Bộ luật Hình sự năm 2015” của tác giả Nguyễn
Quý Khuyến đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, số 1/2018; bài viết “Cần sớm có
văn bản hướng dẫn thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình
sự về các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin” của tác giả Nguyễn Văn
Hoàn đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 4/2010; bài viết“Chưa có căn cứ để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với hành vi lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn thông trái phép”
của tác giả Lê Đăng Doanh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2004; bài
viết“Lắp đặt sử dụng thiết bị viễn thông để thu lợi cước phí điện thoại trái phép -
có thể truy tố tội kinh doanh trái phép” của tác giả Trần Vũ Hải đăng trên Tạp chí
Tòa án nhân dân số 22/2004; bài viết “Về hành vi lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn
thông trái phép thu cước điện thoại - phạm tội gì?” của tác giả Dương Tuyết Miên
đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2004; bài viết “Cần tội phạm hoá các
hành vi nguy hiểm liên quan đến máy tính” của tác giả Bùi Văn Nhơn và Phạm
Văn Beo đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3/2005; bài viết “Nghiên cứu
hình phạt tiền đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Thắng
đăng trên Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt 02/2023.
Theo các tác giả trên, mặc dù BLHS năm 1999 đã có quy định liên quan
đến tội phạm mạng nhưng còn nhiều bất cập như nội dung các điều luật chưa cụ
thể, khó áp dụng; các điều luật chưa bao quát hết các hành vi của tội phạm mạng
có thể diễn ra; hệ thống chế tài chưa tương xứng với tính nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội trên mạng… do đó cần phải tội phạm hóa và cụ thể hóa các
hành vi nguy hiểm liên quan đến máy tính. Việc không có quy định đầy đủ cũng
gây khó khăn cho việc xử lý những hành vi nguy hiểm cho xã hội phát sinh như
hành vi “lắp đặt, sử dụng thiết bị viễn thông trái phép thu cước điện thoại”. Khi
BLHS năm 1999 được sửa đổi năm 2009, các quy định của BLHS liên quan đến
tội phạm này đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn. Tuy nhiên, quy định mới
ra đời nhưng đã có bất cập, khó áp dụng như các dấu hiệu định khung chưa rõ,
một số khái niệm chưa được giải thích, cần thiết phải có văn bản hướng dẫn thực
26
hiện của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, có thể thấy những bài viết về tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định của BLHS năm 2015 còn ít,
chưa phong phú, cần được tiếp tục được nghiên cứu [44].
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến Luận án và những
vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong Luận án
1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Qua nghiên cứu các công trình khoa học liên quan đến luận án ở trong và
ngoài nước, tác giả đưa ra một số nhận xét, đó là:
- Về tình hình nghiên cứu ngoài nước: mỗi quốc gia, có trình độ phát triển
và truyền thống pháp lý khác nhau nên các công trình nghiên cứu về pháp luật
cũng như thực tiễn phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng
khác nhau. Tuy nhiên, các công trình đã tập hợp trên đây cũng đã cho phép tác
giả thu thập, đánh giá các quan niệm khác nhau về TNHS, về cơ sở của TNHS,
về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đây là nguồn tài liệu tham khảo quan
trọng cho Nghiên cứu sinh khi đánh giá và so sánh về TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT giữa các nước.
- Đối với các công trình đã nghiên cứu, phân tích TNHS theo quy định của
PLHS Việt Nam, trong đó có TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT chính là xuất phát điểm quan trọng, mang tính tiền đề để Nghiên cứu sinh
tiếp tục đi sâu phân tích cơ sở lý luận về TNHS nói chung và TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.
- Một số công trình nghiên cứu ở trong nước đã làm rõ nhiều vấn đề liên quan
đến đề tài của luận án như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở của TNHS, dấu hiệu đặc
trưng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cũng như thực trạng thực hiện các
quy định về TNHS đối với một loại tội phạm cụ thể, từ đó giúp Nghiên cứu sinh
triển khai và hoàn thiện ý tưởng trên những phương diện nhất định của luận án.
- Cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có công trình nào ở cấp độ luận án tiến sĩ
nghiên cứu trực tiếp về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể
là khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, ý nghĩa, cơ sở, nội dung, hình thức, giai đoạn,
phạm vi, giới hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, quy
định và thực tiễn áp dụng quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến 6/2024, vẫn còn những vấn
đề mới cần phải nghiên cứu, làm rõ và tiếp tục hoàn thiện PLHS cũng như bảo đảm
27
áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án
Thứ nhất: Khái niệm, đặc điểm của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT chưa được tác giả của các công trình nghiên cứu một cách toàn
diện để từ đó có thể chỉ ra được những đặc tính riêng của TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Thứ hai: Một số công trình mới dừng ở việc nghiên cứu cơ sở lý luận của
TNHS hoặc là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Do vậy, luận án sẽ làm rõ
cơ sở của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đồng thời nêu và
phân tích các hình thức, nội dung, nguyên tắc, các giai đoạn và ý nghĩa của TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Thứ ba: Từ thực tiễn áp dụng các hình thức TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT trong giai đoạn từ 2013 - 6/2024, luận án sẽ đưa ra những
nhận xét, đánh giá khách quan đối với quy định của PLHS hiện hành về TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ đó đưa ra các yêu cầu nâng cao
hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, giải pháp hoàn
thiện PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT trong thời gian tới ở nước ta.
1.4. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu của
Luận án
1.4.1. Cơ sở lý thuyết
Luận án nghiên cứu về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
trên cơ sở hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm nói chung và tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.
1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu chung của Luận án là trong giai đoạn hiện nay, các quy
định của PLHS Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có việc bảo đảm áp dụng hiệu quả
TNHS đối với tội phạm này hay chưa? Để giải quyết câu hỏi này, Luận án cần giải
quyết những vấn đề nghiên cứu cụ thể sau đây:
Thứ nhất, tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài có liên quan đến
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như thế nào? Có những vấn
đề gì đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu?
Thứ hai, hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
28
MVT đã đầy đủ, hoàn thiện và thống nhất hay chưa?
Thứ ba, các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT có phù hợp, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm trong lĩnh vực này hay không?
Thứ tư, thực tiễn áp dụng các quy định của PLHS Việt Nam về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có việc áp dụng TNHS đối với tội phạm này thời
gian qua như thế nào? Cơ quan có thẩm quyền đã đạt được những kết quả tích cực
và gặp phải những khó khăn, vướng mắc, hạn chế gì? Nguyên nhân của những khó
khăn, vướng mắc, hạn chế đó là gì?
Thứ năm, trong thời gian tới, bối cảnh, sự cần thiết phải hoàn thiện PLHS
về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng
TNHS đối với tội phạm này đặt ra như thế nào? Cần có những giải pháp gì để
bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT?
1.4.3. Giả thuyết nghiên cứu
Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu trên, Luận án xây dựng giả thuyết nghiên
cứu gồm các vấn đề như sau:
Về tổng thể, Luận án giả thiết rằng, PLHS Việt Nam hiện nay cơ bản đã
đáp ứng yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT nói chung, việc xác định và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế, vướng mắc nhất
định, cần phải tiếp tục hoàn thiện và đề ra giải pháp thực hiện có hiệu quả hơn
trong thời gian tới. Cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT còn chưa được nghiên cứu sâu sắc, toàn diện. Do đó, cần xây dựng và hoàn
thiện hệ thống lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Thứ hai, các quy định của PLHS Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm này, nhưng trên thực tế triển khai áp dụng vẫn còn những khó khăn,
hạn chế, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói riêng. Do đó, các quy định của PLHS về
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần được tiếp tục được nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Thứ ba, việc áp dụng quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, song
29
vẫn còn những hạn chế, khó khăn và vướng mắc. Những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc này do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Từ
đó, Luận án cần phải tìm ra những giải pháp để giải quyết những nguyên nhân
này, góp phần bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT trong thời gian tới.
Tiểu kết Chương 1
TNHS nói chung, TNHS đối với các loại tội phạm cụ thể nói riêng và tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những nội dung quan trọng của khoa học
Luật Hình sự, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả cũng như cán bộ
làm công tác thực tiễn phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Qua tổng quan
tình hình nghiên cứu ở ngoài nước và trong nước cho thấy đã có nhiều công trình
khoa học ở các cấp độ khác nhau, nghiên cứu về TNHS và về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT ở các góc độ tiếp cận đa chiều. Tuy nhiên, đến nay chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam. Việc tìm hiểu các công
trình khoa học liên quan đã cung cấp cho Nghiên cứu sinh những quan điểm,
luận cứ khoa học tương đối đa dạng, hấp dẫn về các vấn đề liên quan đến TNHS
nói chung và những kiến thức khoa học Luật Hình sự về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT - một loại tội phạm đặc thù, với sự xuất hiện và nghiên cứu còn
khá mới mẻ. Từ việc nghiên cứu tổng quan đã chỉ rõ những kết quả nghiên cứu
đã đạt được, những “khoảng trống” cần bổ sung, hoàn thiện. Trên cơ sở đó, Luận
án xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cần tập trung giải quyết của mình, đó là:
(1) Xây dựng, phát triển lý luận về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT; (2) Làm rõ quy định của PLHS và thực tiễn áp dụng TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian qua; (3) Phân tích các
yêu cầu nâng cao hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,
giải pháp hoàn thiện PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và bảo đảm
áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta
30
trong thời gian tới.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và ý nghĩa của trách nhiệm hình
sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
2.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
2.1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm pháp lý gồm nhiều loại trách nhiệm, trong đó có TNHS. TNHS
là loại trách nhiệm pháp lý nặng nhất. Để nhận thức thống nhất về TNHS, chúng
ta cần bắt đầu từ khái niệm “trách nhiệm pháp lý", là khái niệm “gốc rễ” của
ngành Luật học.
Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm trách nhiệm pháp lý được hiểu cơ bản
thống nhất, dựa trên hai nghĩa khác nhau của cụm từ “trách nhiệm”. Trách nhiệm
được hiểu là điều phải làm, phải gánh vác (nghĩa thứ nhất) và là điều phải nhận
lấy về mình (nghĩa thứ hai) [95]. Khái niệm trách nhiệm pháp lý cũng được giải
thích theo 02 hướng này. Tuy nhiên, khái niệm trách nhiệm pháp lý trong đó có
TNHS, trách nhiệm hành chính và các trách nhiệm pháp lý khác được hiểu theo
hướng là hậu quả pháp lý mà chủ thể phải gánh chịu do đã thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật.
Theo Giáo trình “Lý luận chung về nhà nước và pháp luật” của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì “Trách nhiệm pháp lý là sự bắt buộc phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi do vi phạm pháp luật” [26]. Tác giả Hoàng Thị Kim Quế cho rằng:
“… trách nhiệm là những hậu quả pháp lý bất lợi về vật chất hoặc tinh thần được
áp dụng bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền…” [59]. Còn theo tác giả
Nguyễn Minh Đoan thì “… trách nhiệm được hiểu là hậu quả bất lợi (tổ chức, cá
nhân nào đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi vì đã vi phạm pháp luật)” và
“… bản thân trách nhiệm pháp lý không phải là sự cưỡng chế mà chỉ là nghĩa vụ
phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế do pháp luật quy định” [27].
Từ các định nghĩa gốc về trách nhiệm pháp lý, có thể cụ thể hóa một số nội
31
dung của TNHS như sau:
- Các biện pháp tác động được PLHS quy định chính là hậu quả pháp lý
bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu, được Tòa án tuyên thông qua bản án. Các
biện pháp tác động này có thể được gọi là các biện pháp PLHS (gọi tắt là biện
pháp hình sự), gồm hình phạt và các biện pháp hình sự khác, cùng có mục đích
là phòng ngừa tội phạm và bảo vệ các đối tượng cần được bảo vệ bằng PLHS.
- TNHS mang tính cưỡng chế rất cao bởi việc chấp hành các biện pháp hình
sự đã được Tòa án tuyên là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc đối với chủ thể phạm tội.
- TNHS là việc phải chấp hành tuyệt đối các biện pháp hình sự đã được
tuyên mà không phải là các biện pháp này.
- Việc chủ thể phải gánh chịu, chấp hành tuyệt đối các biện pháp PLHS đã
được Tòa án tuyên là về hành vi phạm tội đã xảy ra.
Hiện nay, tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về TNHS nhưng các định nghĩa
của các tác giả trong nước đều có điểm chung khi xác định TNHS là “hậu quả
pháp lý” và hậu quả này gắn với “hành vi phạm tội”. Ví dụ: TNHS là “… hậu quả
pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định
là tội phạm và hậu quả pháp lý ấy được thể hiện trong việc Tòa án nhân danh Nhà
nước kết án người đã bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó…” [17] hay
là “… hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội, thể hiện ở chỗ người phạm tội phải
chịu trách nhiệm trước Nhà nước về hành vi của mình” [87]. Hay như khái niệm:
“Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất và là
hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm, đồng thời được thể hiện bằng
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế hình sự do Luật Hình sự quy định
đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội” [94].
Nội dung cụ thể của TNHS đối với người phạm tội còn tồn tại những quan
điểm, nhận thức khác nhau. Khi nói đến TNHS của người phạm tội phải hiểu đầy
đủ là trách nhiệm của người phạm tội đối với Nhà nước. Bản thân khái niệm
TNHS của người phạm tội đã phản ánh mối quan hệ đặc biệt giữa Nhà nước và
người phạm tội. TNHS chỉ phát sinh khi tội phạm được thực hiện. TNHS phát
sinh ngay từ khi tội phạm được thực hiện và sẽ chấm dứt khi người phạm tội đã
được xóa án tích, khi họ không còn bị coi là người đã phạm tội. TNHS sẽ phát
sinh và tồn tại khi còn tồn tại cơ sở pháp lý phát sinh mối quan hệ giữa hai chủ
thể: Nhà nước và người phạm tội. Việc nghiên cứu khái niệm TNHS không thể
32
chỉ giới hạn trong phạm vi nghĩa hẹp của TNHS là trách nhiệm người phạm tội
phải chịu trước Nhà nước và quên đi yếu tố thực hiện TNHS thông qua Nhà
nước. Do đó, cần nghiên cứu khái niệm TNHS đồng thời từ hai góc độ: thực hiện
TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS từ phía người phạm tội [40].
Xét về tổng thể, TNHS bao gồm hai mặt đó là thực hiện TNHS từ phía Nhà
nước và chịu TNHS từ phía chủ thể phạm tội. Đó là hai mặt đan xen, hợp thành
thể thống nhất là TNHS. Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng phải có
việc truy cứu TNHS từ phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu TNHS của
chủ thể phạm tội. TNHS thực chất là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà nước
và chủ thể phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm được thực hiện [40]. Đây
cũng là quan điểm tiếp cận và thống nhất của Nghiên cứu sinh. Trong đó, chủ thể
phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, của các
biện pháp cưỡng chế nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Còn Nhà nước có quyền truy tố, xét xử và buộc chủ
thể phạm tội phải chịu biện pháp hình sự nhất định tương xứng với tính nguy hiểm
của tội phạm do họ thực hiện và có nghĩa vụ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể phạm tội không bị xâm phạm trong quá trình các cơ quan đại diện của
Nhà nước thực hiện TNHS. Trên cơ sở các nội dung chính của trách nhiệm pháp
lý đã được cụ thể hóa cho TNHS, có thể đưa ra khái niệm TNHS như sau:
Trách nhiệm hình sự là hậu quả bất lợi mà chủ thể phạm tội phải chấp
hành nghĩa vụ pháp lý là những biện pháp tác động của Nhà nước do pháp luật
hình sự quy định và được Tòa án tuyên bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về
tội phạm đã xảy ra trên thực tế.
2.1.1.2. Khái niệm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Để đưa ra khái niệm TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,
chúng ta cần hiểu khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Về vị trí, tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được xác định tại Mục 2, Chương XXI: Các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của BLHS năm 2015, gồm 09 tội
(từ Điều 285 đến Điều 294, trừ Điều 292 bị bãi bỏ). Trước khi đưa ra khái niệm
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần làm rõ khái niệm CNTT và MVT.
Theo pháp luật Việt Nam, khái niệm CNTT được đề cập tại Khoản 1, Điều 4
Luật Công nghệ thông tin năm 2006: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu
33
thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số”.
Còn đối với MVT, khái niệm này được quy định tại Khoản 14, Điều 3 Luật
Viễn thông năm 2023: “Mạng viễn thông là tập hợp thiết bị viễn thông được liên
kết với nhau bằng đường truyền dẫn để cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ ứng
dụng viễn thông”.
Trên thế giới hiện nay, chưa có một khái niệm chung nhất về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT. Trong khuôn khổ cuộc họp lần thứ 10 của Đại hội đồng
Liên hợp quốc về ngăn chặn và xử lý tội phạm được tổ chức tại thành phố Viên
(Áo) từ ngày 10/10/2000 đến ngày 17/10/2000 có một Hội thảo đã bàn về vấn đề
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tại đây, việc định nghĩa về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT được đưa ra với 02 quan điểm.
Quan điểm theo nghĩa hẹp, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là các hành vi
phạm tội sử dụng máy tính và mạng máy tính với mục đích xâm phạm đến an toàn
của hệ thống máy tính và quy trình lưu trữ dữ liệu của hệ thống đó [138]. Đây có thể
được hiểu là loại tội phạm mới, có quan hệ trực tiếp đến máy tính, mạng máy tính,
làm ảnh hưởng và gây thiệt hại cho người sử dụng.
Quan điểm theo nghĩa rộng, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là các
hành vi phạm tội sử dụng máy tính hoặc các phương pháp khác có liên quan đến
máy tính, mạng máy tính, bao gồm các loại tội phạm như chiếm giữ bất hợp
pháp và đe dọa hoặc làm sai lệch thông tin bằng phương pháp sử dụng mạng
máy tính [138]. Theo định nghĩa này, các loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT sẽ rất rộng, với nhiều loại hành vi của tội phạm truyền thống được thực
hiện với sự trợ giúp của công cụ máy tính như: hành vi lừa đảo, trốn lậu cước
viễn thông,...
Theo định nghĩa trên thì tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những tội
phạm liên quan đến máy tính và các mạng thông tin. Định nghĩa này khẳng định
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm cả các tội phạm hình thành trong
môi trường mới của CNTT và cả các tội phạm truyền thống được thực hiện với
sự hỗ trợ của các phương tiện CNTT, MVT.
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được phân biệt với một số tội phạm
có liên quan gần như “tội phạm công nghệ cao”, “tội phạm trong lĩnh vực công
nghệ thông tin”, “tội phạm sử dụng công nghệ cao”, “tội phạm máy tính”, “tội
phạm mạng”,... Có rất nhiều định nghĩa có liên quan đến tội phạm trong lĩnh vực
34
CNTT, MVT, nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tùy góc độ và mục đích nghiên cứu của mình, mỗi
tác giả lại đưa ra khái niệm và thuật ngữ khác nhau. Tuy nhiên, ở phạm vi rộng
hay hẹp và sử dụng thuật ngữ nào, khái niệm về tội phạm liên quan đến CNTT,
MVT mà các tác giả sử dụng đều có một số đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, đó là tội phạm mới, được người phạm tội thực hiện trên môi
trường không gian mạng và có sử dụng CNTT, MVT, tạo nên sự khác biệt so với
các tội phạm truyền thống.
Thứ hai, tội phạm liên quan đến CNTT, MVT có phạm vi rộng. Người
phạm tội có thể sử dụng CNTT, MVT để thực hiện các tội phạm truyền thống
khác. Chính vì vậy, tội phạm liên quan đến CNTT, MVT có thể được quy định ở
nhiều chương khác nhau trong BLHS.
Thứ ba, CNTT, MVT có thể là công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm
hoặc có thể là mục tiêu tấn công xâm hại của tội phạm.
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có phạm vi hẹp hơn khái niệm tội
phạm liên quan đến CNTT, MVT. Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng sử
dụng CNTT, MVT để thực hiện tội phạm hoặc tấn công không gian mạng. Tuy
nhiên, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ xâm phạm sự an toàn của mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử. Trường hợp
người phạm tội sử dụng CNTT, MVT để thực hiện tội phạm xâm phạm khách thể
khác như an ninh quốc gia, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng khác
thì không được coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT [44]. Trên cơ sở đó,
Luận án rút ra khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:
Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông là các hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự sử dụng công nghệ thông tin, mạng viễn thông cố ý thực
hiện, xâm phạm an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử,
dữ liệu điện tử mà theo quy định phải bị xử lý hình sự.
2.1.1.3. Khái niệm trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
TNHS là một phạm trù phức tạp, với nhiều nội dung, hình thức, cấp độ và
giai đoạn thể hiện. Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự đòi hỏi TNHS phải
được quy định và triển khai trên thực tế tương xứng với tính chất và mức độ
35
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, đảm bảo hài hòa giữa tính cưỡng chế và tính
giáo dục. Việc xác định một giới hạn TNHS cụ thể đối với từng hành vi phạm tội
không đơn giản. Do đó, việc lựa chọn hành vi nào là tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT và quy định biện pháp TNHS nào để vừa đảm bảo cân bằng giữa
lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân với quyền con người, vừa đạt được hiệu
quả của TNHS cũng là vấn đề rất khó khăn.
Trong luật hình sự Việt Nam, CNTT, MVT là những lĩnh vực quan trọng,
được xếp vào nhóm an toàn công cộng, trật tự công cộng, là nhóm khách thể rất
thiết yếu. Thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là
tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm, đánh giá sự phù hợp giữa các quy định của
PLHS với bản chất pháp lý của nó và là căn cứ quan trọng để hoàn thiện PLHS.
Trên cơ sở khái niệm TNHS và khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT đã được đưa ra ở phần trên, có thể định nghĩa TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:
Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
mạng viễn thông là nghĩa vụ của một người phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi
trước Nhà nước về hành vi phạm tội của mình thuộc nhóm tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông, theo đó người phạm tội bị tước đoạt hoặc
bị hạn chế quyền và lợi ích nhất định theo quy định của pháp luật hình sự thông
qua bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm hình phạt, biện
pháp tư pháp và án tích.
2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Từ khái niệm khoa học đã nêu, có thể chỉ ra đặc điểm của TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:
Một là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là dạng trách
nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào mà
người thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp
dụng. Có nhiều dạng trách nhiệm pháp lý đặt ra đối với chủ thể vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực CNTT, MVT nhưng TNHS là nghiêm khắc nhất, nặng nề
nhất, thể hiện thông qua các hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội trong
lĩnh vực này phải gánh chịu trước nhà nước và pháp luật, trên cơ sở quy định của
36
PLHS và được quyết định bởi cơ quan có thẩm quyền.
Hai là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là sự lên án,
thể hiện phản ứng của Nhà nước đối với những người thực hiện tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT bằng việc quy định các biện pháp cưỡng chế về hình sự để
áp dụng đối với người đó. Nhà nước quy định về tội phạm và thể hiện nội dung
TNHS trong luật hình sự với mức độ TNHS tương ứng đối với từng loại tội
phạm. Đối với các hành vi phạm các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, Nhà nước
cũng quy định rõ sự phản ứng của mình bằng việc quy định về hình phạt và các
biện pháp cưỡng chế về hình sự khác để áp dụng đối với những người thực hiện
hành vi phạm các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, thể hiện tính pháp chế, tính
công bằng của PLHS và bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân và cũng chính là các quyền, lợi ích nhất định của người phạm tội
trong lĩnh vực này.
Ba là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là hậu quả pháp
lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc thực hiện tội phạm, TNHS
chỉ phát sinh khi có sự việc phạm tội. Nếu không có việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị BLHS xác định là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì
không thể có TNHS đặt ra đối với các tội phạm này. Trong “Chương 5: Trách
nhiệm hình sự”, “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần chung)”, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội (tái bản năm 2007), tác giả Trần Văn Độ đã khẳng định:
“Trách nhiệm hình sự tồn tại khách quan mà không phụ thuộc vào việc cơ quan
hay người có thẩm quyền đã phát hiện được tội phạm và người phạm tội hay
chưa”. Do đó, trong khoảng thời gian còn thời hiệu truy cứu TNHS, người phạm
các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải chịu sự truy cứu TNHS từ phía Nhà
nước, còn Nhà nước có quyền truy cứu TNHS người phạm các tội này trên cơ sở
quy định chung của BLHS.
Bốn là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ được thực
hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể
có quyền và nghĩa vụ nhất định - một bên là đại diện cho Nhà nước, còn bên kia
là người phạm tội. Cụ thể, Nhà nước mà đại diện của nó là các cơ quan tư pháp
hình sự có thẩm quyền xử lý người phạm tội, nhưng phải có nghĩa vụ chỉ được
xử lý dựa trên căn cứ và trong các giới hạn, biên độ do pháp luật quy định và
điều chỉnh. Ngược lại, người phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tước bỏ hoặc hạn
37
chế quyền, tự do nhất định, nhưng đồng thời họ cũng có quyền yêu cầu sự tuân
thủ nghiêm minh, đầy đủ và thực hiện đúng quy định của pháp luật từ phía Nhà
nước, từ phía các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền và từ các cán bộ thực
thi pháp luật - đối với các quyền, tự do và lợi ích chính đáng của con người, của
công dân theo đúng quy định của pháp luật. Hai nội dung (quyền và nghĩa vụ)
thực hiện luôn song hành với hai chủ thể của quan hệ PLHS là Nhà nước và
người phạm tội [16]. Tuy nhiên, ngày nay theo quan niệm hiện đại thì quan hệ
PLHS không chỉ là quan hệ giữa nhà nước và người phạm tội mà còn là mối
quan hệ giữa nhà nước, người phạm tội và xã hội [88]. Điều này cho thấy, TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT không những phải giải quyết trong
mối quan hệ giữa nhà nước - người phạm tội mà còn trong sự tương tác, phù hợp
với ảnh hưởng xã hội.
Năm là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ áp dụng
với cá nhân người phạm tội. TNHS đối với tội phạm nói chung, tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng đối
với bản thân một người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS
quy định là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chủ thể của tội phạm là cá
nhân người đã thực hiện tội phạm, có đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
BLHS năm 2015 đã quy định chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại,
song chỉ áp dụng đối với các tội phạm quy định tại Điều 76 của Bộ luật này,
trong đó không có các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Sáu là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mang tính chất
công. Theo đó, chỉ Nhà nước mới có quyền buộc người phạm tội phải chịu
TNHS và ngược lại, TNHS của người phạm tội ở đây là trách nhiệm trước Nhà
nước, trước xã hội chứ không phải trước cơ quan, đơn vị hay cá nhân nào. Đồng
thời, TNHS được thể hiện trong bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được áp dụng đối với người phạm tội thông qua một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định. Bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án là cơ sở pháp lý quan trọng xác nhận một người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT, người đó chính thức bị coi là “có tội”. Đây là hậu quả pháp lý thể
hiện nội dung quan trọng của TNHS, mà người phạm tội phải gánh chịu trước
38
Nhà nước, trước xã hội về hành vi của mình. Điều này cũng thể hiện tính cưỡng
chế nhà nước của TNHS, nó được thực hiện bởi cơ quan duy nhất có thẩm quyền
xét xử người phạm tội là Tòa án.
Bảy là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được quy định
và áp dụng phù hợp với đặc thù của tội phạm và người phạm tội này. Theo đó,
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đa số là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng. Người phạm tội này thường có kiến thức hiểu biết, kỹ năng về
khoa học kỹ thuật, CNTT, MVT. Nhiều đối tượng là những “chuyên gia” trong
lĩnh vực khoa học máy tính, biết ứng dụng các thành tựu của CNTT, MVT.
Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, đất nước ta
đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, rất cần đẩy
mạnh việc ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ, đặc biệt là
CNTT, MVT, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử,
thúc đẩy nền kinh tế số, xã hội số và công dân số. Đây cũng là căn cứ, là yếu tố
tác động đến chính sách hình sự nói chung, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT nói riêng theo hướng nhân văn hơn, ít nghiêm khắc hơn so với
các nhóm tội phạm khác, quán triệt sâu sắc tinh thần “hướng thiện” của PLHS và
định hướng “cảm hóa, giáo dục người phạm tội trở thành những những người có
ích cho xã hội” khi quy định và áp dụng TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh
vực CNTT, MVT.
2.1.3. Nguyên tắc của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Nguyên tắc của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là tập
hợp các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, định hướng mang tính xuyên suốt quá trình
xác định và áp dụng TNHS đối với các chủ thể phạm tội trong lĩnh vực CNTT,
MVT. Các nguyên tắc của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
được xác lập trên cơ sở chính trị, pháp lý, khoa học và thực tiễn, bao gồm: các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách hình sự của Nhà nước, các nội dung
Hiến pháp và pháp luật quy định mà cụ thể, trực tiếp nhất là những nguyên tắc
chung của PLHS. Bên cạnh đó là những đòi hỏi của thực tiễn phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Theo đó, TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm một số nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc hợp lý (phù hợp với các quy định của pháp luật): là nguyên
tắc trong toàn bộ các hoạt động lập pháp và áp dụng PLHS, đòi hỏi phải thực
hiện các bảo đảm pháp chế XHCN khi tiến hành các hoạt động nhằm xác định sự 39
thật của vụ án; tôn trọng, bảo vệ quyền con người; bảo vệ trật tự pháp luật; bảo
vệ quyền lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo đó, việc áp dụng TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần quán triệt thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc này. Việc xác định tính tội phạm của hành vi cũng như tính phải chịu
TNHS về hành vi và các hậu quả pháp lý bất lợi mà chủ thể phạm tội trong lĩnh
vực CNTT, MVT phải gánh chịu phải căn cứ vào các quy định của PLHS nói
chung, BLHS nói riêng. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được truy
cứu TNHS người thực hiện hành vi phạm tội trong lĩnh vực này mà không có
căn cứ do BLHS quy định. Đồng thời cũng lưu ý không được áp dụng PLHS
theo nguyên tắc tương tự.
- Nguyên tắc có cơ sở: Để áp dụng TNHS được quy định trong PLHS thì cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cần có sự xem xét trên các căn cứ để quyết định
hình thức, mức độ TNHS tương xứng với mức độ, tính chất nguy hiểm của hành
vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT nhằm đạt được mục đích của TNHS là
đảm bảo công lý, công bằng xã hội và ngăn ngừa tội phạm này xảy ra. Cơ sở của
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là việc thực hiện tội
phạm trong lĩnh vực này được quy định trong BLHS, được thể hiện ở các yếu tố
cấu thành tội phạm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
- Nguyên tắc công bằng: Nguyên tắc này đòi hỏi việc xác định và áp dụng
PLHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải thực sự thể hiện sự công
tâm, khách quan, phân minh rõ ràng trong việc xử lý người phạm tội, tức là phải
phù hợp với tính chất và mức độ nghiêm trọng của hậu quả tội phạm đã xảy ra, với
động cơ, mục đích phạm tội, tính chất lỗi và các đặc điểm nhân thân của người
phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Cũng cần quán triệt
thực hiện không chủ thể phạm tội nào phải chịu TNHS 02 lần về cùng một tội phạm
khi truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
- Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Theo nguyên tắc này, tất cả chủ thể
bị truy cứu TNHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đều bình đẳng trước
PLHS, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, quan hệ, địa vị
xã hội và tình trạng tài sản. Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là sự bình đẳng
trong việc vận dụng các yếu tố cấu thành tội phạm đối với một hành vi phạm tội,
đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về người phạm tội, chống
40
những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người phạm tội có địa vị xã hội khác
nhau theo kiểu “dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ”. Khi thực hiện TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải
có thái độ công bằng đối với người phạm tội dù họ là ai, để thực sự là “mọi người
phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật”, nhưng cũng cần phải đảm bảo sự phân
hóa TNHS “nghiêm trị ai, khoan hồng đối với ai”, không thể đồng nhất công bằng
với “bình quân, cào bằng”.
- Nguyên tắc nhân đạo: Khi truy cứu TNHS đối với chủ thể phạm tội trong
lĩnh vực CNTT, MVT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải luôn luôn coi
TNHS không phải để trả thù người phạm tội mà là để giáo dục, cải tạo họ trở
thành những công dân có ích cho xã hội. Quy định của PLHS về TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như thực tiễn áp dụng nó không được
gây nên những đau đớn về thể xác, xúc phạm về nhân phẩm con người, Mức độ
TNHS của chủ thể phạm tội là những người yếu thế như: người dưới 18 tuổi, phụ
nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, người mà năng lực TNHS bị hạn chế, người
đang mắc bệnh hiểm nghèo cần phải được giảm nhẹ hơn so với mức độ TNHS
của chủ thể phạm tội là người bình thường khác. Nguyên tắc nhân đạo còn được
thể hiện ở nhiều điều luật quy định về quyết định hình phạt, về TNHS của người
dưới 18 tuổi, về miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo), về miễn
chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, về tha tù trước thời hạn
có điều kiện, về xoá án tích... đối với chủ thể phạm tội nói chung, trong đó có
người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Nhà nước khoan hồng đối với những người thật thà khai báo, thực sự hối
lỗi, góp phần tích cực vào việc điều tra, xử lý vụ án, hạn chế và tích cực khắc
phục hậu quả xảy ra... lựa chọn những biện pháp để người phạm tội tự giáo dục
cải tạo (án treo), khi có đầy đủ căn cứ thì người phạm tội có thể được miễn
TNHS, miễn hình phạt. Nguyên tắc nhân đạo trong TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT cũng đòi hỏi Tòa án phải xác định mục đích của TNHS
nói chung, mục đích của hình phạt nói riêng không phải để trừng trị, mà là để
thực thi công lý, bảo đảm công bằng xã hội và quan trọng nữa là để phòng ngừa
tội phạm này xuất hiện trở lại.
- Nguyên tắc phải gánh chịu sự tác động của TNHS: Tất cả các chủ thể phạm
tội trong lĩnh vực CNTT, MVT hoặc/và bị kết án về tội phạm này đều phải chịu
41
TNHS theo các quy định của PLHS. PLHS cũng nghiêm cấm việc sử dụng bất kỳ
thủ đoạn, hình thức vô căn cứ nào khác nhằm tránh khỏi sự tác động của TNHS.
Việc cố ý vi phạm một trong các nguyên tắc của PLHS được quy định trong
PLHS đều không thể tránh khỏi TNHS mà pháp luật đã quy định. Như vậy, người
phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT luôn phải chịu sự tác động của TNHS bằng
cách này hay cách khác với các mức độ, hậu quả phải gánh chịu khác nhau, không
thể tránh khỏi sự tác động ấy của TNHS.
- Nguyên tắc đồng bộ trong kỹ thuật xây dựng quy định về TNHS: Việc xây
dựng các quy định của pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT là cơ sở tiền đề, tạo ra căn cứ pháp lý vững chắc để các cơ quan có thẩm
quyền áp dụng hiệu quả TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này. Với bản
chất của TNHS và đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì các quy
định của pháp luật về TNHS đối với tội phạm này phải được ưu tiên cao trong kỹ
thuật xây dựng. Theo đó, phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa quy định về
TNHS ở phần chung trong BLHS với quy định về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT ở phần các tội phạm cụ thể của những tội này, đồng thời cần
có sự quy định đặc trưng, riêng biệt về những hậu quả pháp lý bất lợi mà người
phạm tội trong lĩnh vực này phải gánh chịu trước nhà nước và pháp luật.
Những nguyên tắc nêu trên đòi hỏi phải được nghiên cứu, quán triệt và thực
hiện áp dụng một cách đầy đủ, đồng bộ và chặt chẽ, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không được tuyệt đối hóa, quá đặt nặng hoặc xem nhẹ nguyên tắc nào, có
như vậy TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mới thực sự đúng
với bản chất và đạt được mục đích của nó.
2.1.4. Ý nghĩa của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có ý nghĩa rất quan
trọng, cụ thể như sau:
Một là, việc quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT trong BLHS đáp ứng yêu cầu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong thời đại khoa học kỹ thuật và công nghệ
ngày càng phát triển, xuất hiện nhiều hành vi mới nguy hiểm cho xã hội, tình
hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ngày càng diễn biến phức tạp, gây
nhiều hậu quả phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế,
42
chính trị, xã hội… Chính vì lẽ đó đòi hỏi phải có hệ thống chế tài đủ sức răn đe,
TNHS là một trong những công cụ sắc bén góp phần phòng ngừa, đấu tranh với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian tới.
Hai là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định
của PLHS nước ta góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thông qua nội dung và hình thức
thể hiện của TNHS đối với loại tội phạm này, chúng ta nhận thấy vai trò, tầm
quan trọng của các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm
tội trong lĩnh vực CNTT, MVT xâm hại. Mức độ TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT phần nào thể hiện tính chất, tầm quan trọng của các khách
thể là trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân liên quan bị hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT xâm hại.
Ba là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tạo ra phạm vi,
giới hạn việc truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với người phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT, điều mà các chủ thể áp dụng là cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải nghiên cứu, áp dụng chặt chẽ, tránh trường hợp lợi dụng quan hệ mệnh lệnh
- phục tùng (quyền uy), đặc trưng điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực hình sự để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Bốn là, quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã
xác định ranh giới giữa tội phạm với hành vi vi phạm pháp luật khác trong lĩnh
vực CNTT, MVT. Đồng thời quy định về TNHS cũng phản ánh chính sách hình
sự của Nhà nước ta đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Theo Điều 2,
BLHS hiện hành “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy
định mới phải chịu TNHS”, vì vậy, về ý nghĩa pháp lý, việc quy định TNHS đối
với các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là cơ sở
pháp lý để xử lý người phạm tội này.
Năm là, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT sẽ góp phần
bảo đảm pháp chế và xử lý nghiêm minh, kịp thời, công bằng theo đúng quy
định của pháp luật đối với các hành vi phạm tội và người phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT. TNHS đối với tội phạm này thực sự là công cụ hữu hiệu, là sự lên
án, xử lý của Nhà nước trước các hành vi phạm tội cụ thể được nêu trong mục 2,
43
Chương XXI của BLHS năm 2015.
2.2. Cơ sở, giai đoạn và phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
2.2.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Cơ sở của TNHS là một vấn đề đặc biệt quan trọng khi nghiên cứu về
TNHS. Cơ sở của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là
thời điểm có tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xảy ra, bao gồm 02 nội dung,
đó là: (1) cơ sở pháp lý, hay còn gọi là cấu thành tội phạm (bao gồm tổng hợp
các dấu hiệu pháp lý cần và đủ của tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT)
và (2) cơ sở thực tế, là việc thực hiện hành vi của một người thỏa mãn các yếu tố
cấu thành tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Như vậy, cơ sở pháp lý của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT là tập hợp các điều kiện pháp lý cần có để người phạm tội trong lĩnh vực
này phải chịu TNHS về hành vi của mình, thông qua việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là một trong các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT, thể hiện trong các yếu tố cấu thành tội phạm của tội phạm này.
2.2.1.1. Khách thể của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng
viễn thông
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được xếp vào Chương các tội phạm
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng của BLHS hiện hành, xâm hại đến
an toàn trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trên cơ sở khái niệm về tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT được nêu ở phần trên, chúng ta có thể chia khách thể của các tội
phạm này thành 02 loại:
Thứ nhất, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xâm phạm, làm ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử. Đó là các hành vi làm hỏng hóc, chiếm đoạt, làm sai lệnh thông tin
của mạng máy tính, mạng viễn thông, các phương tiện, thiết bị liên quan cũng
như các thông tin trong hệ thống máy tính và mạng máy tính, mạng viễn thông.
Các đối tượng này rất đa dạng, từ chiếc máy tính đơn nhất, các thiết bị của mạng
máy tính, mạng viễn thông... đến các chương trình máy tính, các thông tin chứa
đựng trong hệ thống máy tính và hệ thống mạng.
Thứ hai, các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã sử dụng mạng máy
44
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử làm công cụ để xâm phạm lợi ích của
cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây ảnh hưởng đến an toàn công cộng, trật tự công
cộng. Cụ thể các tội phạm này đã gây thiệt hại đến hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, mạng internet, các phương tiện thiết bị điện tử; xâm phạm an
toàn thông tin, sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là các khách thể
rộng, liên quan đến nhiều tội phạm truyền thống đã sử dụng các thành tựu của
CNTT, MVT để thực hiện tội phạm, được quy định tại mục 2, Chương XXI của
BLHS năm 2015 từ Điều 285 đến Điều 294 (trừ Điều 292 bị bãi bỏ). Các tội phạm
này đã lợi dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ để gây thiệt hại
cho hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân không chỉ ở phạm vi
trong nước mà còn có thể tác động đến toàn cầu.
2.2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
mạng viễn thông
Mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là mặt bên ngoài
của tội phạm này, bao gồm: hành vi, hậu quả, mối quan hệ giữa hành vi và hậu
quả, thời gian, địa điểm phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội, phương thức,
thủ đoạn thực hiện. Trong đó, hành vi khách quan và công cụ, phương tiện thực
hiện tội phạm là những dấu hiệu pháp lý bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Các
yếu tố còn lại của mặt khách quan không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu
thành tội phạm của tội này [44]. Để thuận lợi nghiên cứu các dấu hiệu trong mặt
khách quan của tội phạm này, chúng ta có thể phân chia thành 04 nhóm như sau:
Thứ nhất, các tội xâm phạm tính nguyên vẹn, tính bí mật hoặc tính khả
dụng của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
(1) Tội sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm
để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285):
Sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử
dụng vào mục đích trái pháp luật là hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng
cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục đích trái pháp luật, xâm phạm an
toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử [7].
- Tội phạm được thực hiện bởi một trong các hành vi khách quan như: hành
vi sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm tính năng tấn
công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục
45
đích trái pháp luật. Hành vi khách quan có thể là từng hành vi riêng lẻ như: sản
xuất hoặc viết phần mềm hoặc mua bán hoặc trao đổi hoặc tặng cho đối tượng
phạm tội, nhưng cũng có thể là một quá trình như sản xuất, sau đó bán hoặc tặng
cho người khác. Trong một số văn bản pháp luật quốc tế hoặc PLHS một số nước,
ngoài các hành vi trên còn có quy định thêm hành vi chiếm hữu, sở hữu nhằm cho
người khác sử dụng, đề nghị người khác sử dụng, nhập khẩu hoặc các hành vi
phân phối khác... cũng là hành vi phạm tội (ví dụ: Điều 6 Công ước Bu-đa-pet
năm 2001 và Điều 9 Luật mẫu 2002).
- Công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng
viễn thông hoặc phương tiện điện tử là các công cụ, thiết bị, phần mềm có thể được
sử dụng để xâm nhập bất hợp pháp vào mạng máy tính, nghe lén thông tin, làm giả
thông tin, cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, chiếm đoạt tài
sản qua mạng... Đây được coi là đối tượng tác động của tội phạm này. Ví dụ: Phần
mềm độc hại (vi-rút, phần mềm do thám, phần mềm quảng cáo...), các loại chíp
điện tử để đọc dữ liệu thẻ, các thiết bị số dùng để thu, phát sóng, tín hiệu số hoặc
phá sóng, các vi mạch, thiết bị ngoại vi, mô-đun chương trình nhập số liệu,... Các
đối tượng trên có thể là chuyên dùng hoặc có một phần chức năng tấn công mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, như máy vi tính vừa có chức năng
hoạt động hợp pháp vừa có thể dùng làm công cụ để tấn công mạng.
Tuy nhiên, người phạm tội phải biết được tính năng tấn công đó của đối tượng
mà mình sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng, cho và nó được sử dụng vào mục
đích trái pháp luật. Để truy cứu TNHS đối với người phạm tội, phải chứng minh việc
thực hiện các hành vi nêu trên là để “sử dụng vào mục đích trái pháp luật”. Điều luật
cũng không quy định số lượng tối thiểu công cụ, thiết bị, phần mềm được sản xuất,
mua bán, trao đổi, tặng, cho bị coi là tội phạm.
(2) Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 286):
Phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử là hành vi của người có ý phát tán chương
trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
để thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng
46
viễn thông, phương tiện điện tử [7].
- Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi phát tán chương trình tin
học có tính năng gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử.
Phát tán là hành vi truyền đi làm lây nhiễm các chương trình tin học gây hại
cho các thiết bị điện tử trong mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc giữa các
thiết bị điện tử với nhau. Hành vi phát tán thường không xác định mục tiêu
người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức cụ thể, mà thực hiện trên diện rộng để
đạt được mục đích. Đây là điểm để phân biệt tội phạm này với các tội phạm quy
định tại Điều 287, 289 BLHS cùng sử dụng công cụ phạm tội là vi-rút tin học,
nhưng các hành vi quy định tại Điều 287 và Điều 289 phải xác định rõ mục tiêu
(người bị hại) là cá nhân hay tổ chức nào. Hơn nữa, phát tán cũng không phải là
phân phối hoặc bán... chương trình tin học có tính năng gây hại. Hành vi phát tán
được thực hiện thông qua các thủ đoạn chủ yếu sau:
+ Các thủ đoạn lây nhiễm thông qua các thiết bị lưu trữ di động như đĩa
mềm, đĩa CD, ổ cứng di động, USB...
+ Thủ đoạn lây nhiễm qua thư điện tử như: lây qua file đính kèm, lây do
mở một liên kết trong thư điện tử, lây khi mở để xem thư...
+ Thủ đoạn lây nhiễm qua mạng internet như lây qua file tài liệu hoặc phần
mềm trên mạng, lây qua việc truy cập các website được cài đặt vi-rút tin học, lây
thông qua các lỗi bảo mật hệ điều hành, ứng dụng có sẵn trên hệ điều hành hoặc
phần mềm của hãng thứ ba.
- Đối tượng của hành vi phát tán là chương trình tin học có tính năng gây
hại. Đó là chương trình tự động hóa xử lý thông tin, gây ra hoạt động không bình
thường cho thiết bị số hoặc sao chép, sửa đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trong thiết
bị số [44]. Chương trình tin học có tính năng gây hại được chia làm 02 loại:
Một là, các mã độc: Là các chương trình phần mềm được thiết kế để truyền từ
máy tính, phương tiện điện tử này sang máy tính, thiết bị điện tử khác nhằm gây ra
hoạt động không bình thường, sao chép hoặc thay đổi bất hợp pháp máy tính, phương
tiện điện tử hoặc dữ liệu điện tử. Các mã độc cơ bản gồm: vi-rút tin học, sâu máy tính
(worm), horse trojan, phần mềm gián điệp (spyware), phần mềm quảng cáo (adware),
botnet, phishing, phần mềm tống tiền (ransomware), backdoor...
Hai là, vi-rút tin học: Là một loại mã độc đặc biệt, bao gồm chương trình
47
hoặc đoạn mã có khả năng tự nhân bản, sao chép chính nó để tạo ra những tập tin
bị lây nhiễm vi-rút trên các máy tính, thiết bị điện tử hoặc thiết bị lưu trữ như đĩa
cứng, đĩa mềm, USB...
- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi thỏa mãn một trong các
trường hợp sau:
+ Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên;
+ Gây thiệt hại từ 50 triệu đồng trở lên;
+ Làm lây nhiễm cho từ 50 phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có
từ 50 người sử dụng trở lên;
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
(3) Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử (Điều 287):
Cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử là hành vi tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ
liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu hoặc có hành vi khác
cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử để thu lợi bất chính hoặc gây thiệt hại cho mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử, làm ảnh hưởng đến hoạt động của cơ
quan, tổ chức [7].
- Điều luật quy định có 03 nhóm hành vi khách quan sau đây:
Một là, hành vi tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử.
Đó là các hành vi cố ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử mà
không được sự đồng ý của chủ thể quản lý phần mềm, dữ liệu điện tử đó [6]. Trong
đó, hành vi “thay đổi” phần mềm, dữ liệu điện tử bao gồm 03 hành vi cụ thể là
“thay thế", “lược bỏ hoặc nén” và “đưa thêm thông tin vào" phần mềm, dữ liệu điện
tử. Đây là một dạng của hình thức tấn công mạng chủ động đối với phần mềm, dữ
liệu điện tử và thường được thể hiện thông qua các hình thức như xóa, làm tổn hại
phần mềm, dữ liệu điện tử; tấn công sửa đổi thông tin của dữ liệu điện tử; giả mạo;
phá hủy thiết bị lưu trữ, phương tiện điện tử nếu đó là phương tiện duy nhất lưu trữ
dữ liệu điện tử.
Hai là, ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, viễn
thông, phương tiện điện tử. Đó là các hành vi bất hợp pháp, cố ý làm cho việc
48
truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử bị
gián đoạn, không thực hiện được hoặc không sử dụng được [6]. BLHS không
quy định cụ thể loại mạng, nên được hiểu là bao gồm cả mạng công cộng và
không phải là mạng công cộng. Hành vi được thể hiện thông qua các hình thức
như: phá hoại cơ sở hạ tầng; ngăn cản bất hợp pháp việc truy cập thông tin của
cá nhân, cơ quan, tổ chức; cản trở, ngăn chặn, làm gián đoạn việc truyền tin, đưa
tin hoặc nhận tin như tấn công chặn thông tin, tấn công dùng lại (replay) thông
tin hoặc tấn công từ chối dịch vụ,.... Nếu việc ngăn chặn hợp pháp việc truyền tải
dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử như thực hiện
vì lý do quốc phòng, an ninh... thì không phải là tội phạm.
Ba là, các hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử là hành vi cố ý của người không có
quyền quản lý, vận hành, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử bằng cách làm hư hỏng, xóa, làm suy giảm, thay
thế hoặc nén dữ liệu máy tính, thiết bị viễn thông, phương tiện điện tử hoặc phá
hủy, làm hư hỏng hoặc hủy hoại công trình viễn thông, công nghệ thông tin; sử
dụng, lợi dụng mạng lưới, thiết bị các công cụ phần cứng, phần mềm để gây rối
loạn hoạt động cơ sở hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin; dừng cung cấp
điện trái phép...
Để thực hiện được hành vi phạm tội, người phạm tội có thể sử dụng công
cụ phạm tội là chương trình máy tính có tính năng gây hại hoặc sử dụng thủ đoạn
xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.
Tuy nhiên, khác với hành vi được quy định tại Điều 286, hành vi quy định tại
Điều 287 này phải xác định rõ mục tiêu tấn công đối với cá nhân, tổ chức cụ thể;
đồng thời cũng khác hành vi quy định tại Điều 289, mục đích của các hành vi
phạm tội trong Điều 287 là nhằm cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.
- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi thỏa mãn một trong các
trường hợp sau:
+ Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên;
+ Gây thiệt hại từ 100 triệu đồng trở lên;
+ Làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng
49
viễn thông, phương tiện điện tử từ 30 phút trở lên hoặc từ 03 lần trở lên trong
thời gian 24 giờ (trường hợp có thể làm ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử mỗi lần dưới 30 phút nhưng làm nhiều lần,
từ 03 - 10 lần trong 01 ngày);
+ Làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ trở lên (có thể là
trường hợp làm ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử dưới 30 phút và dưới 03 lần trong 24 giờ, nhưng để khắc
phục sự cố cơ quan, tổ chức phải đình trệ hoạt động từ 24 giờ trở lên);
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
(4) Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử của người khác (Điều 289):
Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện
điện tử của người khác là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường
lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm
nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của
phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả giữ liệu hoặc sử dụng
trái phép các dịch vụ [7].
- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi truy cập vào mạng máy tính,
mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử mà không được sự đồng ý của chủ sở
hữu hoặc người quản lý, điều hành mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử đó.
Theo Nghị quyết số 08/2021/NQ-UBTVQH ngày 26/11/2021 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội giải thích khoản 1 Điều 289 của BLHS năm 2015 về hành
vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của
người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính,
mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu quy
định tại khoản 1 Điều 289 của BLHS được hiểu là bao gồm cả hành vi cố ý vượt
qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác
hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn
thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm đoạt dữ liệu có chứa bí
mật kinh doanh, kể cả nghe, đọc, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình dữ liệu có
50
chứa bí mật kinh doanh.
Hành vi được thực hiện thông qua các phương thức, thủ đoạn như: Vượt
qua cảnh báo; vượt qua mã truy cập; vượt qua tường lửa để xâm nhập trái phép, sử
dụng quyền quản trị của người khác và các phương thức xâm nhập trái phép
khác như: bẻ khóa, trộm mật khẩu, mật mã của người khác để xâm nhập trái
phép hoặc xâm nhập vật lý như mở khóa cửa vào phòng, khu vực không thuộc
phận sự để truy cập vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.
- Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm thực hiện hành vi truy
cập trái phép bằng một trong các phương thức, thủ đoạn trên. Hậu quả của tội
phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội phạm này.
Thứ hai, các tội xâm phạm quyền, lợi ích của tổ chức, cá nhân trong lĩnh
vực CNTT, MVT
(1) Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông (Điều 288):
Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông là
hành vi đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy
định của pháp luật; mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai
hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính,
mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó hoặc hành vi
khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông [7].
- Tội phạm này được thực hiện bởi một trong các hành vi khách quan sau:
Một là, đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với
quy định của pháp luật như: thông tin có nội dung xuyên tạc, vu khống, xúc
phạm uy tín của tổ chức; danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân; kích động tội
ác, tệ nạn xã hội, thuần phong mỹ tục... trừ 04 trường hợp sau:
+ Các hành vi được quy định tại Điều 117 BLHS năm 2015: Sản xuất, tàng
trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam như: xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân,
thông tin có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, gây chiến tranh
tâm lý...
+ Các hành vi được quy định tại Điều 155 BLHS năm 2015: Làm nhục
người khác bằng cách đưa thông tin xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự
51
của người khác.
+ Hành vi vu khống người khác bằng cách bịa đặt thông tin nhằm xúc phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người khác hoặc tố cáo người khác phạm tội
với cơ quan nhà nước theo quy định tại Điều 156 BLHS năm 2015.
+ Hành vi truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định tại Điều 326
BLHS năm 2015.
Hai là, hành vi mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công
khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy
tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu hoặc người quản lý
thông tin đó.
Đối tượng tác động của tội phạm này là “thông tin riêng hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân”. Đến nay vẫn chưa có định nghĩa cụ thể về “thông tin
riêng hợp pháp”, chỉ có một số văn bản quy định về những nội dung có liên quan
như: điểm a, khoản 2, Điều 72 Luật Công nghệ thông tin năm 2006; khoản 3, 4,
Điều 6 Luật Viễn thông năm 2023; khoản 14, 15, 16, Điều 3 Nghị định
72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch
vụ internet và thông tin trên mạng. Tuy nhiên, có thể hiểu cơ bản “thông tin
riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” là những thông tin thuộc sở hữu
của cơ quan, tổ chức, cá nhân được pháp luật bảo vệ như: họ tên, ngày tháng
năm sinh, số chứng minh nhân dân, căn cước công dân, số điện thoại, địa chỉ, bí
mật đời tư của cá nhân; thông tin, bí mật của tổ chức; các thông tin khác được
Hiến pháp, Bộ luật Dân sự... quy định bảo vệ.
Ba là, các hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng
viễn thông, như: theo dõi, thu thập thông tin bất hợp pháp về cá nhân, tổ chức khác;
không được phép sử dụng thông tin nhưng vẫn sử dụng, không đăng ký, chưa được
cấp phép nhưng vẫn sử dụng thông tin, sử dụng thông tin giả... [69].
- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi thỏa mãn một trong các
trường hợp sau: Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng trở lên; Gây thiệt hại từ 100 triệu
đồng trở lên hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
(2) Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông
tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291):
Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về
tài khoản ngân hàng là hành vi của người không có thẩm quyền thực hiện nhưng
52
lại thu thập, tàng trữ, trao đổi thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác
hoặc mua bán thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác; công khai hoặc
công khai không đúng đối tượng (với cá nhân, tổ chức) không được sự cho phép
của chủ tài khoản về thông tin tài khoản ngân hàng [7].
- Hành vi khách quan của tội phạm gồm các hành vi thu thập, tàng trữ, trao
đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin tài khoản ngân hàng của người
khác. Đây là hành vi của người không có thẩm quyền thực hiện nhưng lại thu
thập, tàng trữ, trao đổi thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác hoặc
mua bán thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác; công khai hoặc công
khai không đúng đối tượng (với cá nhân, tổ chức) mà không được sự cho phép
của chủ tài khoản về thông tin tài khoản ngân hàng ấy.
Thông tin tài khoản ngân hàng là thông tin định đanh khách hàng và các
thông tin sau đây: tên tài khoản, số hiệu tài khoản, số dư tài khoản, thông tin liên
quan đến giao dịch nộp tiền, rút tiền, chuyển tiền, nhận tiền của khách hàng và
các thông tin có liên quan khác. Đối với khách hàng cá nhân, thông tin định danh
khách hàng gồm: họ và tên, mẫu chữ ký, chữ ký điện tử, ngày, tháng, năm sinh,
quốc tịch, nghề nghiệp, địa chỉ nơi đăng ký thường trú, nơi ở hiện tại, địa chỉ nơi
đăng ký cư trú ở nước ngoài đối với người nước ngoài, số điện thoại, địa chỉ thư
điện tử, số, ngày cấp, nơi cấp chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân
hoặc hộ chiếu (thông tin về thị thực đối với khách hàng cá nhân là người nước
ngoài) của khách hàng hoặc của người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo
ủy quyền (gọi chung là người đại diện hợp pháp) và các thông tin có liên quan
khác. Đối với khách hàng là tổ chức, thông tin định danh khách hàng gồm: tên
giao dịch đầy đủ, tên viết tắt, giấy phép hoặc quyết định thành lập, giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc văn bản tương đương; địa chỉ đặt trụ sở chính,
số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử và thông tin quy định của người đại diện
hợp pháp (thông tin tương tự như đối với khách hàng cá nhân) và các thông tin
có liên quan khác.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày
11/9/2018 của Chính phủ về việc giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì: “Cơ quan nhà nước, tổ chức
khác, cá nhân chỉ được yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
53
cung cấp thông tin khách hàng theo đúng mục đích, nội dung, phạm vi, thẩm quyền
theo quy định của pháp luật hoặc khi được sự chấp thuận của khách hàng và phải
chịu trách nhiệm về việc yêu cầu cung cấp thông tin khách hàng”.
- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi số lượng tài khoản ngân hàng bị thu
thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai từ 20 tài khoản trở lên hoặc ít hơn số
lượng đó, nhưng người phạm tội đã thu lợi bất chính từ 20 triệu đồng trở lên.
Thứ ba, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có mục đích xâm phạm quyền sở
hữu của người khác: tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290).
Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi của người sử dụng thông tin về tài khoản,
thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài
khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; làm, tàng trữ, mua bán, sử
dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ
thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của
cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại
điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp
hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc thiết lập,
cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản [7].
- Hành vi khách quan của tội này là sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài sản của người khác, thuộc một
trong các hành vi cụ thể sau:
Một là, sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức,
cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ, chủ tài khoản hoặc thanh toán dịch vụ,
mua hàng hóa. Hành vi được thực hiện thông qua các thủ đoạn như trộm cắp, lừa
đảo để có được thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của người khác, sau đó
dùng thông tin đó để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản. Ví dụ: Người phạm
tội gửi email giả mạo, lừa đảo hoặc cài phần mềm gián điệp như phần mềm
keylogger (ghi lại mọi thao tác của người dùng thẻ, tài khoản trên máy)... để có
được thông tin, mật khẩu. Sau đó, sử dụng thông tin có được để chiếm đoạt tài
sản của chủ thẻ.
Hai là, làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm
chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ.
54
Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách
hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ. Thẻ
ngân hàng giả là thẻ không do ngân hàng có thẩm quyền phát hành thẻ đó phát
hành. Làm thẻ ngân hàng giả là việc cá nhân không có thẩm quyền sản xuất, phát
hành thẻ ngân hàng nhưng sản xuất thẻ giống như thẻ ngân hàng (trong đó chứa
đựng thông tin, dữ liệu như thẻ thật).
Thủ đoạn phạm tội thường là người phạm tội mua thẻ nhựa trắng, mua hoặc
đánh cắp thông tin thẻ, mật mã giao dịch. Sau đó dùng máy ghi thẻ để sản xuất thẻ
giả, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ giả để chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc
dùng thẻ ngân hàng của nước ngoài đã hết hạn sử dụng vào nước khác để rút tiền...
Ba là, truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân
nhằm chiếm đoạt tài sản. Đó là hành vi vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường
lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc các phương thức khác truy cập
bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức nhằm trực tiếp chiếm đoạt tài
sản của chủ thể đó.
Bốn là, lừa đảo trong thương mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh
tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng
nhằm chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội đưa ra các thông tin gian dối trong các
lĩnh vực trên nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý tài sản, làm
họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó. Ví dụ: Người phạm tội
tạo dựng một website để huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp, giả danh
các tập đoàn tài chính toàn cầu, huy động vốn với lãi suất cao, sau đó chiếm đoạt
tiền của người góp vốn hoặc bán hàng qua mạng nhưng không giao hàng hoặc
giao hàng không đúng.
Năm là, thiết lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm
chiếm đoạt tài sản. Đó là việc thiết lập, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet
nhưng không được phép hoặc không đúng giấy phép do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp nhằm chiếm đoạt tài sản.
- Các hành vi trên chỉ cấu thành tội này khi không thuộc trường hợp tội trộm
cắp tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 173 và Điều 174
BLHS năm 2015. Tội phạm có cấu thành hình thức, tội phạm này hoàn thành kể từ
thời điểm người phạm tội có một trong các hành vi trên nhằm chiếm đoạt tài sản,
không kể đến hậu quả đã chiếm đoạt được hay chưa.
55
Thứ tư, các tội xâm phạm trật tự, an toàn trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện
(1) Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp
cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293):
Sử dụng trái phép tần số vô tuyên điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an
toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh là hành vi sử dụng tần số
vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn, quốc phòng, an ninh không được phép vào các mục đích khác [7].
- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi sử dụng trái phép tần số vô
tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,
quốc phòng, an ninh vào mục đích khác. Theo quy định tại Điều 33 Luật Tần số
vô tuyến điện năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2022): Trong trường hợp khẩn
cấp gây nguy hiểm đến tính mạng con người và tài sản, tổ chức, cá nhân có thể
sử dụng tạm thời tần số và thiết bị vô tuyến điện chưa được cấp giấy phép để
phục vụ cho việc gọi cấp cứu và phải thông báo cho cơ quan quản lý chuyên
ngành tần số vô tuyến điện. Tổ chức, cá nhân sử dụng đài vô tuyến điện gửi
thông tin, tín hiệu cấp cứu được phát sóng để thu hút sự chú ý ở cả tần số vô
tuyến điện không dành riêng cho gọi cứu nạn. Tổ chức, cá nhân sử dụng đài vô
tuyến điện nhận được thông tin, tín hiệu cấp cứu phải lắng nghe trên tần số vô
tuyến điện phát gọi cấp cứu, trả lời và thực hiện ngay mọi hỗ trợ cần thiết, đồng
thời thông báo cho cơ quan tìm kiếm, cứu nạn.
Ngoài trường hợp khẩn cấp nguy hiểm đến tính mạng, tài sản, người sử
dụng không được phép sử dụng tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích
cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh vào mục đích
khác. Đối tượng tác động của tội phạm này là tần số vô tuyến điện dành riêng
cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng an ninh,
gồm 02 nhóm:
+ Tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm
cứu hộ, cứu nạn hiện nay được quy định trong “Phụ lục tần số sử dụng cho mục
đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu nạn”, kèm theo Thông tư số 19/2013/TT-
BTTTT ngày 02/12/2013 của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
+ Tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích quốc phòng, an ninh do Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an cùng Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp xác định.
- Điều kiện truy cứu TNHS đối với tội phạm này là khi hành vi phạm tội gây
thiệt hại từ 200 triệu đồng trở lên hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc
56
đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
(2) Tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294):
Cố ý gây nhiễu có hại là hành vi làm ảnh hưởng có hại của năng lượng điện từ
do việc phá và bức xạ hoặc cảm ứng gây mất an toàn hoặc cần trở, làm gián đoạn
hoạt động của thiết bị, hệ thống thông tin vô tuyến điện đang khai thác hợp pháp [7].
- Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi gây nhiễu có hại. Mức độ gây
nhiễu trong vô tuyến điện được chia làm 03 mức độ, gồm: Nhiễu cho phép, nhiễu
chấp nhận được và nhiễu có hại. Trong đó, nhiễu có hại là ảnh hưởng có hại của
năng lượng điện từ do việc phát xạ, bức xạ hoặc cảm ứng gây mất an toàn hoặc cản
trở, làm gián đoạn hoạt động của thiết bị, hệ thống thiết bị vô tuyến điện đang khai
thác hợp pháp (khoản 13, Điều 3, Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 (sửa đổi, bổ
sung năm 2022)). Các thủ đoạn gây nhiễu có hại thường là:
+ Sử dụng thiết bị phát sóng vô tuyến điện cố ý gây can nhiễu có hại làm
cản trở đến hoạt động thông tin của các mạng và hệ thống thông tin vô tuyến
điện khác;
+ Sử dụng thiết bị phát sóng vô tuyến điện gây nhiễu có hại nhưng không
thực hiện yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về việc áp dụng
các biện pháp kỹ thuật cần thiết để khắc phục nhiễu;
+ Sử dụng thiết bị gây nhiễu có hại cho thông tin vô tuyến khi đã có yêu
cầu ngừng sử dụng thiết bị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Dấu hiệu xác định tội phạm này là khi hành vi phạm tội gây thiệt hại từ
200 triệu đồng trở lên hoặc đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết
án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
2.2.1.3. Mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
mạng viễn thông
Khi nghiên cứu mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chúng
ta phải xác định lỗi, động cơ và mục đích phạm tội của người phạm tội. Cụ thể:
* Lỗi:
Theo PLHS hiện hành, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả cấu thành tội
phạm của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Lỗi của tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT đều là lỗi cố ý, không có hình thức lỗi vô ý. Tội phạm có thể
được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Khi thực hiện hành vi
phạm tội, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra (đối với những
57
tội có cấu thành vật chất) nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội đó và mong muốn
hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Trường hợp hành vi được thực hiện với
lỗi vô ý sẽ không bị coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Ví dụ: vô ý truy
cập vào mạng máy tính sẽ không bị coi là phạm tội xâm nhập trái phép vào mạng
máy tính (Điều 289) hoặc vô ý xoá dữ liệu điện tử trong mạng máy tính cũng sẽ
không bị coi là phạm tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính
(Điều 287) [44].
* Động cơ, mục đích phạm tội:
Theo BLHS năm 2015, động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, đó chỉ có thể là tình tiết
tăng nặng TNHS khi Tòa án xem xét, quyết định hình phạt.
Về mục đích phạm tội, theo BLHS năm 2015, nó được quy định là dấu hiệu
định tội của một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Cụ thể:
- Mục đích “sử dụng vào mục đích trái pháp luật” là dấu hiệu định tội bắt
buộc của tội sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để
sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285 BLHS năm 2015). Điều 285 quy
định rõ hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi, tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm
có tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử là
để sử dụng vào mục đích trái pháp luật. Ngược lại, nếu sử dụng vào mục đích
hợp pháp sẽ không bị coi là tội phạm. Khái niệm “mục đích trái pháp luật” có
phạm vi rộng, bao gồm cả mục đích phạm tội, vi phạm pháp luật hành chính
hoặc các mục đích vi phạm pháp luật khác.
- Mục đích “chiếm đoạt tài sản” là dấu hiệu bắt buộc của tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản (Điều 290 BLHS năm 2015). Đây cũng là dấu hiệu quan trọng giúp chúng ta
phân biệt được tội này với các tội khác khi chúng có giao thoa về hành vi, dấu hiệu.
2.2.1.4. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng
viễn thông
Theo Điều 76 BLHS năm 2015, pháp nhân thương mại không được coi là
chủ thể của các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chủ thể của tội phạm này
phải là cá nhân có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Đó có thể là công dân
Việt Nam hoặc người nước ngoài. Cá nhân đủ độ tuổi theo quy định tại Điều 12
của BLHS năm 2015 có thể trở thành chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT, trừ trường hợp có nghi ngờ về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
58
khiển hành vi của người đó.
Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu TNHS về mọi tội phạm, do đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ là chủ thể của tất cả
các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16
tuổi phải chịu TNHS đối với tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại Điều 286, 287, 289 và 290 BLHS năm 2015. Theo quy định về phân loại tội phạm
tại Điều 9 BLHS năm 2015, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do
BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; Tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn
mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 15
năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Như vậy, người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 16 tuổi phải chịu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, quy định
tại khoản 3 Điều 286, khoản 3 Điều 287, khoản 3 Điều 289 và khoản 3, 4 Điều 290
BLHS năm 2015 [44].
Trong thực tiễn, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thường do người
nước ngoài thực hiện hoặc do người nước ngoài kết hợp với công dân Việt Nam
thực hiện. Địa điểm phạm tội có thể trên lãnh thổ Việt Nam, có thể ở ngoài lãnh
thổ Việt Nam. Theo quy định tại Điều 6 BLHS năm 2015, cá nhân là công dân
Việt Nam, người nước ngoài đều có thể trở thành chủ thể của loại tội phạm này
cho dù địa điểm phạm tội ở đâu, trừ những người được hưởng quyền ưu đãi miễn
trừ ngoại giao hoặc lãnh sự. Thực tiễn cho thấy, người phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT thường là những người có nhiều hiểu biết về CNTT, MVT. Họ sử
dụng những hiểu biết đó để thực hiện hành vi phạm tội [47]. Tuy nhiên, những
đặc điểm đó không phải là dấu hiệu chủ thể bắt buộc của tội phạm này.
Ở nước ta cũng như trên thế giới, lĩnh vực CNTT, MVT là những lĩnh vực
mới, hiện đại và phát triển với tốc độ rất nhanh. Những người trẻ tuổi hiện nay
có nhiều điều kiện để tiếp cận, thực hành và trở nên rất giỏi trong lĩnh vực này.
Hậu quả tiêu cực kéo theo là tình trạng người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,
MVT ngày càng “trẻ hoá”. Để ngăn chặn tình trạng này, khoản 2 Điều 12 của
BLHS năm 2015 đã quy định, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu
TNHS về tội phạm rất nghiệm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong 28 điều luật của BLHS năm 2015, trong đó có 04 điều luật về tội phạm
59
trong lĩnh vực CNTT, MVT (Điều 286, Điều 287, Điều 289 và Điều 290). Điều
đó cũng cho thấy sự quyết liệt, chủ động phòng, chống tình trạng “trẻ hoá” tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT hiện nay trong chính sách hình sự nước ta.
2.2.2. Giai đoạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Giai đoạn của TNHS là những trình tự, bước đi từ khi mở đầu đến khi kết thúc
quá trình xác định, áp dụng TNHS cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội do chủ
thể thực hiện. Để phân chia các giai đoạn của TNHS nói chung, TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng cần tiếp cận ở góc độ lập pháp (xây
dựng pháp luật) và áp dụng pháp luật, cụ thể:
- Giai đoạn xây dựng PLHS: thể hiện thông qua việc nhà làm luật xây dựng
các nội dung quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, thể
hiện rõ nét trong BLHS và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong giai đoạn này,
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được phản ánh trong quy định
hình sự hóa, phi hình sự hóa, phân hóa và cá thể hóa TNHS được áp dụng đối với
người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Cơ chế tác động của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
phải bắt đầu từ hoạt động xây dựng các quy phạm PLHS. Đây là giai đoạn mở
đầu, có ý nghĩa xác lập quy định bắt buộc. Xuất phát từ nhu cầu phản ứng
thường xuyên đối với loại hành vi này hay loại hành vi khác nguy hiểm cho xã
hội nhằm phòng ngừa chúng, điều chỉnh những “tình huống” xuất hiện nhưng
chưa được “quy phạm hóa”, bảo vệ xã hội khỏi sự xâm phạm của tất cả những
hành vi cũng như “tình huống” nguy hiểm cho xã hội, nhằm bảo vệ công lý,
phục hồi công bằng xã hội đã bị xâm phạm, Nhà nước xây dựng các quy phạm
PLHS. Điều này tạo cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, các hành vi
của các bên tham gia vào quan hệ xã hội đó, xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý
cũng như các phương tiện pháp lý bảo đảm, bảo vệ những hành vi cần thiết. Sự
đánh giá của Nhà nước đối với hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT
nhất định phải được quy định trong PLHS. Sự đánh giá của nhà làm luật về mặt
pháp luật đối với hành vi tội phạm còn dựa trên sự đánh giá về các mặt đạo đức,
chính trị, xã hội,... của xã hội, là sự cần thiết và quan trọng đối với các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự, nhất là Tòa án.
- Giai đoạn áp dụng PLHS: được nhà nước thực hiện thông qua các cơ
quan đại diện của nhà nước, chủ yếu là Tòa án (nhân danh Nhà nước để xét xử,
60
tuyên bản án kết tội và TNHS áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT). Bản chất các cơ quan này không tự mình sáng tạo ra PLHS mà là
thực hiện nó trong thực tế công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT. Cụ thể, nó được thể hiện trong các giai đoạn, gắn với các
hoạt động sau:
- Khi tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xảy ra: Sau khi các quy phạm
PLHS được ban hành và có hiệu lực pháp luật, nếu chủ thể thực hiện những hành
vi mà PLHS cấm thực hiện thì những điều kiện cần thiết cho sự tác động trừng
trị (trừng phạt) đã được ghi nhận trong PLHS là cơ sở của sự tác động của PLHS
đối với chủ thể phạm tội đó. Giai đoạn này gắn với sự vi phạm quy phạm PLHS,
xuất hiện cơ sở thực tế đối với sự tác động của PLHS, phát hiện và ghi nhận sự
vi phạm đó.
- Hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT: Giai đoạn này gắn với việc xác định các cơ sở đối với sự tác động
của PLHS trong quá trình điều tra, định tội danh (sơ bộ), miễn TNHS - hình thức
tác động của PLHS có thể được áp dụng.
- Khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật: Giai đoạn thứ tư
này gắn với việc định tội danh và quyết định hình phạt, biện pháp tư pháp hình sự
khác đối với vi phạm quy phạm PLHS và đánh giá nó trong bản án trên cơ sở
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, khách quan tất cả các tình tiết của vụ án
hình sự, sự tác động của PLHS thể hiện ở hình thức truy cứu TNHS hoặc miễn
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
- Hoạt động thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật: Giai đoạn này gắn với sự tác động của PLHS trong quá trình thi hành hình
phạt mà Tòa án đã tuyên hoặc biện pháp tác động khác của PLHS đối với chủ thể
phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
- Việc chấp hành hình phạt, xóa án tích: Là giai đoạn cuối cùng gắn với sự tác
động của PLHS trong thời hạn người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt mà
trong bản án có hiệu lực của Tòa án đã tuyên, chịu những thử thách để được xóa án
tích theo quy định của PLHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Chúng ta cần lưu ý rằng việc xây dựng và áp dụng PLHS về TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT không độc lập, tách rời nhau mà ngược lại
chúng luôn có sự tác động, ảnh hưởng qua lại chặt chẽ với nhau, theo một quá
trình gồm các giai đoạn trước và sau khi tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT,
61
MVT xảy ra. Trước khi tội phạm này xảy ra, nó nằm trong các quy phạm PLHS
(thể hiện ở giai đoạn xây dựng PLHS). Sau khi tội phạm này xảy ra, nó nằm
trong các hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
nhằm thực hiện TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Mỗi
giai đoạn đều có nội dung, hình thức pháp lý mang tính đặc trưng, đặc thù của
mình, tương ứng với số lượng các quyền, tự do và nghĩa vụ nhất định của người
thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Mức độ nguy hiểm cho xã hội
càng cao, các quyền của người thực hiện tội phạm càng bị hạn chế và nghĩa vụ,
hậu quả pháp lý bất lợi mà họ phải gánh chịu sẽ càng lớn hơn, nhiều hơn.
2.2.3. Phạm vi, giới hạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm 02 khía cạnh
cụ thể: thứ nhất, đó là việc Nhà nước thông qua các cơ quan chức năng áp dụng
các biện pháp tác động mang tính cưỡng chế nhà nước đối với hành vi phạm tội và
người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT; thứ hai, đó là việc người phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT có nghĩa vụ phải gánh chịu các biện pháp tác động
mang tính cưỡng chế nhà nước ấy. Theo đó, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT là quyền của Nhà nước hoặc là nghĩa vụ của người phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Trong đó, trách nhiệm là quyền (và đồng thời cũng là nghĩa vụ) của Nhà
nước được buộc người phạm tội phải chịu nghĩa vụ là những hậu quả pháp lý bất
lợi vì người đó đã phạm vào các tội trong lĩnh vực CNTT, MVT mà Nhà nước đã
quy định và việc Nhà nước buộc người phạm tội phải chịu nghĩa vụ ấy là xuất
phát từ nghĩa vụ của Nhà nước đối với xã hội - nghĩa vụ đấu tranh, xử lý tội
phạm, bảo vệ công lý, trật tự xã hội. Cùng với đó, trách nhiệm là nghĩa vụ mà
người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu do vi phạm điều cấm
mà Nhà nước đã quy định trong BLHS về tội phạm này.
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ xuất hiện và được
thực hiện khi có đủ hai khía cạnh nêu trên, bởi đó là sự đánh giá mang tính tiêu
cực và bắt buộc (xét xử, lên án) đối với hành vi tội phạm và đối với người có lỗi
trong việc thực hiện hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT - sự đòi hỏi có
tính bắt buộc đối với việc áp dụng các biện pháp tác động mà BLHS đã quy định
62
(hình phạt, biện pháp tư pháp) và sự tiếp nhận phản ứng, đánh giá đó từ phía
người phạm tội - người mà bởi hành vi của mình phải gánh chịu các biện pháp
tác động do PLHS đưa ra.
Khi được điều chỉnh bằng các quy phạm PLHS, quan hệ xã hội đó trở thành
dạng quan hệ PLHS có nội dung là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể: Nhà nước
- chủ thể quy định điều cấm (tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT) và người có
lỗi - chủ thể phạm vào một trong các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đó.
Về giới hạn, phạm vi TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
chỉ phát sinh khi tội phạm này được thực hiện. TNHS (có khả năng) đối với tội
phạm này phát sinh ngay từ khi tội phạm đó được thực hiện và sẽ chấm dứt khi
người phạm tội đã được xóa án tích - tức là khi họ không còn bị coi là người đã
phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. TNHS sẽ phát sinh và tồn tại khi còn tồn
tại cơ sở pháp lý phát sinh mối quan hệ giữa hai chủ thể: Nhà nước và người
phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
đối với người phạm tội không chỉ thể hiện ở trách nhiệm cuối cùng của người
phạm tội là bị kết tội, phải chịu hình phạt hoặc biện pháp hình sự nhất định
khác và mang theo án tích mà rộng hơn, nó còn thể hiện ở việc người đó bị truy
cứu TNHS. Đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, chịu TNHS
tức là chịu tất cả mọi hậu quả do việc phạm tội này mang lại: bị truy cứu
TNHS, bị kết án, phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của TNHS và
phải chịu mang án tích.
Rõ ràng rằng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm
hai mặt là thực hiện TNHS từ phía Nhà nước và chịu TNHS của người phạm tội.
TNHS đối với tội phạm này thực chất là mối quan hệ giữa Nhà nước và người
phạm tội, phát sinh từ thời điểm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được thực
hiện. Trong đó, Nhà nước có quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và
buộc người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu biện pháp hình sự
nhất định tương xứng với tính nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện, đồng
thời có nghĩa vụ bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người
phạm tội, không để họ bị xâm hại tới các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình
các cơ quan chức năng của nhà nước thực hiện TNHS đối với tội phạm này.
Đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, họ phải gánh chịu sự
63
tác động của hoạt động truy cứu TNHS cũng như các biện pháp cưỡng chế nhà
nước, nhưng ngược lại, họ có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của mình trong suốt quá trình truy cứu TNHS đối với họ.
Về phạm vi cụ thể: TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ
đặt ra khi chủ thể thực hiện một trong 09 tội phạm được quy định tại các Điều
285, 286, 287, 288, 289, 290, 291, 293, 294 của BLHS năm 2015.
2.3. Nội dung, hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
2.3.1. Nội dung của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Trong các BLHS nước ta từ trước đến nay đã nhắc đến cụm từ “TNHS” rất
nhiều lần: cơ sở của TNHS, miễn TNHS, tăng nặng TNHS, giảm nhẹ TNHS, loại
trừ TNHS, thời hiệu truy cứu TNHS,… nhưng chưa bao giờ đưa ra khái niệm,
nội dung cụ thể của TNHS. Việc làm rõ vấn đề này thuộc về nhiệm vụ nghiên
cứu của khoa học pháp lý hình sự. Về nội dung của TNHS nói chung, có một số
nhà luật học khẳng định TNHS là quan hệ pháp luật bảo vệ mà nội dung của nó
được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ gắn bó giữa các chủ thể của quan hệ
pháp luật, trong đó nghĩa vụ của một bên (bên thứ nhất - người có lỗi trong việc
thực hiện tội phạm) phải “đáp ứng” quyền được truy cứu trách nhiệm của bên
khác (bên thứ hai - Nhà nước), còn quyền của bên thứ nhất là chỉ bị truy cứu
trên cơ sở và trong giới hạn mà Bộ luật Hình sự đã quy định [97]. Một số nhà
luật học khác cho rằng, cần phải hiểu TNHS là “tổng thể các quan hệ PLHS, tố
tụng hình sự và cải tạo lao động gắn trực tiếp và thể hiện trực tiếp sự tác động
cưỡng chế nhà nước đối với người vi phạm Bộ luật Hình sự” [99]. Quan điểm
khác lại cho rằng, TNHS là “thành tố bắt buộc phải có của quan hệ pháp luật:
TNHS xuất hiện cùng lúc với tội phạm, nhưng không phải là nội dung (vốn được
hợp thành bởi tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các bên) mà là khách thể của
nó vì có tội phạm thì quan hệ xuất hiện” [100].
Nghiên cứu sinh ủng hộ quan điểm của tác giả Hồ Sỹ Sơn cho rằng: TNHS
hiện diện trong thực tế khách quan như loại quan hệ xã hội đặc biệt do PLHS điều
chỉnh và đó là quan hệ PLHS xuất hiện giữa người bị coi là có lỗi trong việc thực
hiện hành vi tội phạm với Nhà nước (chính xác và cụ thể hơn là với nhân dân Việt
Nam thông qua các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Cơ sở hình thành loại quan
64
hệ PLHS này là sự hiện thực hành vi có tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cụ thể mà BLHS đã quy định. Loại quan hệ pháp luật này được hiện thực hóa kể từ
thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật [72].
Nội dung của quan hệ pháp luật này có các quyền và nghĩa vụ ràng buộc
nhau giữa các bên và việc thực hiện chúng là bắt buộc nhằm ngăn chặn tình huống
(sự kiện) phạm tội tương tự xảy ra trong tương lai. Để nhận thức được một cách
đúng đắn về TNHS, cần phải xác định đúng bản chất của TNHS, đó là: Biểu hiện
của sự phản ứng của Nhà nước đối với hành vi phạm tội được thực hiện một cách
có lỗi chẳng những thể hiện qua bản án kết án của Tòa án đối với người có lỗi
trong việc thực hiện hành vi đó mà còn qua sự lên án người phạm tội (lý do TNHS
được quy định và áp dụng), qua ý nghĩa xã hội và qua “sứ mệnh lịch sử” và vai trò
của TNHS đối với xã hội. Chủ thể bị kết án hình sự là người đã thực hiện hành vi
đã bị nhà làm luật đánh giá trước là nguy hiểm cho xã hội và quy định cấm thực
hiện. Nếu không có sự đánh giá tiêu cực như vậy của nhà làm luật đối với hành vi
tương ứng thì không thể có sự truy cứu TNHS đối với người thực hiện nó. Bằng
bản án, Tòa án nhân danh Nhà nước đưa ra sự đánh giá tiêu cực đối với hành vi
cũng như đối với người có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó. Như vậy, TNHS
thể hiện sự đánh giá tiêu cực của nhà làm luật và sự đánh giá tiêu cực của Tòa án
đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với người thực hiện nó [72].
Trên cơ sở các vấn đề đã phân tích trên đây có thể khẳng định nội dung của
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là các quyền và nghĩa
vụ ràng buộc nhau giữa các Nhà nước và người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,
MVT. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đó là bắt buộc nhằm ngăn chặn tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tiếp tục xảy ra trong tương lai. Cụ thể về nội
dung này, nó được biểu hiện thông qua của sự phản ứng của Nhà nước đối với
hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được thực hiện một cách có lỗi
qua bản án kết án của Tòa án đối với người phạm tội, cũng như qua sự lên án
người phạm tội và qua ý nghĩa của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT đối với xã hội. Bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án
đưa ra sự đánh giá tiêu cực bằng sự kết luận tội danh, tuyên hình phạt hoặc các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
2.3.2. Hình thức của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Hiện nay, vẫn chưa có nhận thức thống nhất về hình thức của TNHS, có
65
quan điểm cho rằng hình thức của TNHS ngoài hình phạt, các biện pháp tư pháp
còn có miễn TNHS, miễn hình phạt, án treo, giảm thời hạn chấp hành hình phạt,
xóa án tích... Quan điểm khác cho rằng hình thức của TNHS chỉ bao gồm hình
phạt, biện pháp tư pháp. Tuy nhiên, hầu hết các quan niệm đều cho rằng TNHS
được thực hiện thông qua biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, đặc biệt là hình
phạt. Bên cạnh hình phạt, TNHS còn được thực hiện bằng các biện pháp tư pháp
như: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; Bắt buộc chữa bệnh. Các biện
pháp này có thể được áp dụng bổ sung, hỗ trợ thêm cho hình phạt.
Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, tiếp cận dưới khái niệm, đặc điểm của
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT “là nghĩa vụ của một người
phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về hành vi phạm tội của
mình”, theo đó hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
chỉ bao gồm hình phạt, biện pháp tư pháp (nhưng không bao gồm biện pháp bắt
buộc chữa bệnh) và án tích với tính chất là “hậu quả pháp lý bất lợi” được quy
định và áp dụng đối với người phạm tội này. Các biện pháp miễn, giảm TNHS,
miễn, giảm hình phạt có tính chất nhân đạo, khoan hồng, thể hiện bằng việc miễn
hoặc giảm sự tác động cưỡng chế hình sự của nhà nước. Nó không chứa đựng nội
dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, hay nói cách khác
nó không mang đến “hậu quả pháp lý bất lợi” đối với người phạm tội đó, thì
không được xem là hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT. Quan niệm này không phải sự bó hẹp mà là sự phù hợp với góc độ tiếp cận
của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
2.3.2.1. Hình phạt
Trong sách Bình luận BLHS năm 2015, phần thứ nhất - Những quy định
chung, tác giả Đinh Văn Quế đã nêu: Hệ thống hình phạt trong Luật Hình sự
nước ta được chia làm hai phần: hình phạt chính và hình phạt bổ sung [58]. Ý
kiến trên được đưa ra dựa trên cơ sở quy định tại Điều 32 và Điều 33, BLHS
hiện hành về các hình phạt đối với người phạm tội và các hình phạt đối với pháp
nhân thương mại phạm tội.
Tương tự, đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì hệ thống hình
phạt cũng được hình thành từ hình phạt chính và hình phạt bổ sung dành cho
người phạm tội này. Theo quy định của BLHS hiện hành, hệ thống hình phạt đối
66
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gồm:
- Thứ nhất, hình phạt tiền:
Hình phạt tiền được quy định và áp dụng vừa là hình phạt chính, vừa là hình
phạt bổ sung đối với hầu hết các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (08/09 tội
danh, chiếm 88,9%), trừ tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290) không quy định
phạt tiền là hình phạt chính, mà chỉ là hình phạt bổ sung (khoản 5). Phần lớn các
khung hình phạt trong một điều luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đều
có quy định về phạt tiền. Cụ thể: Điều 285, tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc
tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật có 03
khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung là phạt tiền; Điều 291, tội thu thập,
tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân
hàng cũng có 03 khung hình phạt chính và hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hay như
ở các Điều 293, 294 thì hình phạt được nêu trong Khoản 1 cũng có quy định cụ
thể về mức phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng.
Có thể khẳng định hình phạt tiền được BLHS quy định áp dụng rất phổ biến
đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Quan điểm cá nhân của
Nghiên cứu sinh đánh giá việc quy định của BLHS hiện hành như vậy cơ bản
phù hợp, xuất phát từ chính động cơ phạm tội của các đối tượng phạm tội trong
lĩnh vực CNTT, MVT thường là vụ lợi. Việc áp dụng hình phạt tiền không chỉ
đạt được mục đích của hình phạt mà còn góp phần khắc phục, bù đắp những hậu
quả, thiệt hại do hành vi phạm tội của đối tượng gây ra.
- Thứ hai, hình phạt cải tạo không giam giữ
Đây là một trong số những hình phạt chính được quy định áp dụng đối với phần
lớn các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Cụ thể, có 07/09 (chiếm 77,8%) các
điều luật về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp dụng hình phạt này (trừ Điều
287 và Điều 289). Thời hạn cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03
năm (quy định chung tại khoản 1, Điều 36, BLHS năm 2015).
- Thứ ba, hình phạt tù có thời hạn
Tù có thời hạn là hình phạt chính được áp dụng đối với cả 09/09 tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 100%). Đa số các khung hình phạt đều quy
định loại hình phạt khác để lựa chọn thay thế hình phạt tù có thời hạn như phạt tiền,
cải tạo không giam giữ. Theo thống kê, chỉ có 08/25 (chiếm 32,0%) khung hình
67
phạt chính quy định hình phạt tù có thời hạn (khoản 3, Điều 286; khoản 3, Điều
287; khoản 3, Điều 289; các khoản 2, 3 ,4, Điều 290; khoản 2, Điều 293; khoản 2,
Điều 294). Mức phạt tù có thời hạn phổ biến từ 03 tháng đến 07 năm, đặc biệt cũng
đã có khung hình phạt tù có thời hạn đến 12 năm hoặc 20 năm. Cụ thể: khoản 3,
Điều 286; khoản 3, Điều 287; khoản 3, Điều 289; các khoản 3, 4, Điều 290.
Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, BLHS hiện hành đã có
xu hướng hạn chế áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Trường hợp bắt buộc phải áp
dụng hình phạt này, mức phạt cũng không quá cao, trừ các trường hợp đặc biệt
nghiêm trọng hoặc đối với tội phạm chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn.
- Thứ tư, hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định là
hình phạt bổ sung được áp dụng đối với 07/09 điều luật (chiếm 77,8%) của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (trừ Điều 293 và Điều 294). Tuy không phải là
dấu hiệu bắt buộc về chủ thể của tội phạm, nhưng đối tượng phạm tội này hầu hết
là người có kiến thức hiểu biết, kỹ năng về sử dụng CNTT, MVT. Từ đó, BLHS
đặt ra quy định về hình phạt này nhằm cấm họ đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT trong khoảng thời
gian nhất định, giúp ngăn chặn khả năng đối tượng tái phạm tội. Theo quy định
của BLHS, thời gian cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT là từ 01 đến 05 năm (Điều 41).
- Thứ năm, hình phạt tịch thu tài sản
Tịch thu tài sản (có thể là tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản) là hình phạt
bổ sung chỉ được áp dụng đối với một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Có 03 tội danh quy định tại các điều luật gồm Điều 285, Điều 290 và Điều 291,
BLHS hiện hành, cụ thể: đối với các khoản 2, 3 Điều 285; các khoản 2, 3, 4 Điều
290 và khoản 3 Điều 291. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 45 BLHS, hình phạt này
được áp dụng đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng. Mục đích quan trọng để đưa các tài sản tịch thu vào
ngân sách nhà nước, góp phần khắc phục, bù đắp những hậu quả, thiệt hại do tội
phạm gây ra. Mặc dù tịch thu tài sản, song hình phạt cũng thể hiện tính nhân đạo
trong quy định khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình
họ có điều kiện sinh sống.
68
Qua việc nghiên cứu, phân tích các quy định của BLHS năm 2015 về hình
phạt đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có thể rút ra nhận xét: Hệ
thống hình phạt đối với các tội phạm này tương đối đa dạng, rộng mở, gồm: hình
phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, hình phạt
cấm đảm nhiệm chức vụ cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và hình
phạt tịch thu tài sản. Do tính chất, mức độ của loại tội phạm này, BLHS hiện hành
không quy định hình phạt chính là hình phạt tử hình, hình phạt tù chung thân đối
với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Song cũng không có hình phạt
nhẹ ở mức cảnh cáo đối với người phạm tội này.
2.3.2.2. Các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp là hình thức TNHS cùng với hệ thống hình phạt được
BLHS quy định, do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy
hiểm cho xã hội. Chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chỉ là cá nhân,
do đó theo quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 2015 thì các biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người phạm tội bao gồm: tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi;
bắt buộc chữa bệnh. Tuy nhiên, với quan điểm tiếp cận về TNHS là hậu quả pháp lý
bất lợi áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, Nghiên cứu
sinh xác định biện pháp “bắt buộc chữa bệnh” không được coi là một trong những
hình thức của TNHS.
Bên cạnh hình phạt, các biện pháp tư pháp thể hiện chính sách hình sự của
Nhà nước ta nói chung và chính sách đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT nói riêng. Các biện pháp tư pháp mang tính hỗ trợ cho hình phạt trong
trường hợp cần thiết phải xử lý người phạm tội về hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà họ gây ra, thể hiện sự công bằng, nghiêm minh của PLHS, đồng thời loại bỏ
những nguyên nhân - điều kiện phạm tội, góp phần đảm bảo an toàn công cộng,
trật tự công cộng. Các biện pháp tư pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để góp
phần khắc phục hậu quả mà tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gây ra đối với
xã hội, nhất là hậu quả về tài sản, thiệt hại về kinh tế, hoạt động an toàn, ổn định
của hệ thống CNTT, MVT. Các biện pháp tư pháp được áp dụng kèm theo hình
phạt để giải quyết toàn diện, triệt để vụ án hình sự như: tịch thu vật, tiền liên quan
trực tiếp đến tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
69
bồi thường thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, cá nhân; buộc công khai xin lỗi.
2.3.2.3. Án tích
Án tích đối với người bị kết án là một trong những hình thức của TNHS. TNHS
và hình phạt luôn gắn với hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích. Án tích gắn
liền với bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đối với người thực hiện
các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và bị áp dụng hình phạt thì sau khi chấp
hành xong bản án của Tòa án, án tích sẽ là một hình thức để tiếp tục ràng buộc họ, vì
nếu họ chưa được xóa án tích về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mà lại phạm
tội mới thì dấu hiệu án tích có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải
quyết vấn đề TNHS của người đó. Người chưa được xóa án tích lại phạm tội mới có
thể bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm và gắn với việc bị coi là tái phạm, tái
phạm nguy hiểm thì người phạm tội phải chịu TNHS nặng hơn những người không
có án tích mà phạm tội khi các điều kiện khác giống nhau (người tái phạm hoặc tái
phạm nguy hiểm có thể bị áp dụng khung hình phạt tăng nặng của tội phạm đã thực
hiện hoặc bị áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS áp dụng chung).
Trong số các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được quy định tại BLHS
năm 2015, có 04/09 tội có đề cập đến vấn đề án tích được xác định trong phần mô
tả cấu thành tội phạm, cụ thể: khoản 1 Điều 286: Tội phát tán chương trình tin học
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử;
khoản 1 Điều 287: Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử; khoản 1 Điều 293: Tội sử dụng trái phép
tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ,
cứu nạn, quốc phòng, an ninh; khoản 1 Điều 294: Tội cố ý gây nhiễu có hại. Về
việc tái phạm nguy hiểm, có 08/09 tội đề cập đến vấn đề này trong việc xác định
các tình tiết tăng nặng TNHS của tội phạm (quy định tại các Điều 285, 286, 287,
289, 290, 291, 293, 294 BLHS năm 2015), trừ Tội đưa hoặc sử dụng trái phép
thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288 BLHS năm 2015).
Tiểu kết Chương 2
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc
phạm tội có thể được hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể:
Nhà nước - bên thực hiện TNHS và người phạm tội - bên chịu TNHS. Người
70
phạm tội có nghĩa vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, của
các biện pháp cưỡng chế nhà nước và có quyền yêu cầu Nhà nước đảm bảo các
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng là một dạng trách
nhiệm pháp lý, là nghĩa vụ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà
nước của người phạm tội do đã thực hiện hành vi được quy định trong BLHS bị
coi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT được thể hiện qua việc người phạm tội bị áp dụng hình phạt
trong bản án kết tội của Tòa án, và/hoặc có thể bị áp dụng biện pháp cưỡng chế
khác do PLHS quy định.
Các hình thức của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được
Nghiên cứu sinh nghiên cứu bao gồm: hình phạt (hình phạt chính và hình phạt bổ
sung), các biện pháp tư pháp và án tích. Cơ sở của TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của một
người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS, có lỗi (cơ sở thực tế) và hành vi đó
thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành một trong các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT được quy định trong BLHS (cơ sở pháp lý). Bên cạnh đó, Chương 2
cũng đã xác định các nguyên tắc, ý nghĩa, nội dung, giai đoạn và phạm vi, giới
hạn của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tạo cơ sở nền tảng
để triển khai nghiên cứu quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm này
71
cũng như thực tiễn áp dụng tại Việt Nam hiện nay ở Chương 3.
Chương 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
ĐỐI VỚI TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN,
MẠNG VIỄN THÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
3.1. Khái quát quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
3.1.1. Quy định của pháp luật quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những đối tượng rất
quan trọng được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế. Trên phương diện pháp luật
quốc tế, Luận án phân tích một số nội dung chủ yếu của các công ước quốc tế và
BLHS của một số quốc gia tiêu biểu, như: Hoa Kỳ, Canada, Nga, Trung Quốc về
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Từ đó, đưa ra những kinh
nghiệm, nội dung phù hợp để nghiên cứu, vận dụng ở nước ta, góp phần nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này cả ở trong nước và trên thế
giới bởi “tính quốc tế” đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
3.1.1.1. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong một số công ước quốc tế
Thứ nhất, Công ước của Hội đồng châu Âu về tội phạm mạng năm 2001
(còn gọi là Công ước Bu-đa-pet năm 2001). Đây là công ước đầu tiên trên thế giới
điều chỉnh hành vi của tội phạm mạng, chia thành 04 nhóm: (1) Những tội phạm
chống lại tính bí mật, toàn vẹn và sẵn có của dữ liệu máy tính và hệ thống máy
tính; (2) Những tội phạm liên quan đến máy tính; (3) Những tội phạm liên quan
đến nội dung; (4) Những tội xâm phạm quyền tác giả và các quyền liên quan.
Tại khoản 1 Điều 12 Công ước thì chủ thể của tội phạm mạng phải chịu
TNHS không chỉ có cá nhân mà còn có cả pháp nhân, rộng hơn cả pháp nhân
thương mại ở nước ta, nếu đáp ứng các điều kiện về: hành vi phạm tội do cá
nhân thực hiện vì lợi ích của pháp nhân; cá nhân phạm tội là đại diện hoặc là
nhân viên của pháp nhân và nắm vị trí lãnh đạo dựa trên cơ sở: có quyền đại diện
cho pháp nhân; có thẩm quyền ra quyết định nhân danh pháp nhân; có thẩm
quyền thực hiện việc kiểm soát trong nội bộ pháp nhân. Đặc biệt, tại Điều 13
72
Công ước Bu-đa-pet xác định “Biện pháp chế tài và biện pháp khác” [122] đối
với tội phạm này, theo đó, các quốc gia thành viên phải ban hành luật và các biện
pháp cần thiết khác để bảo đảm rằng, các tội phạm được nêu trong Công ước
được trừng trị bởi hệ thống chế tài tương xứng, hiệu quả và có tác dụng răn đe,
bao gồm cả việc tước quyền tự do cá nhân. Đối với pháp nhân cũng phải chịu
trách nhiệm phù hợp và bị áp dụng các biện pháp chế tài hình sự hoặc phi hình
sự mang tính tương xứng, hiệu quả và có tính răn đe hoặc các biện pháp khác,
bao gồm cả chế tài phạt tiền.
Thứ hai, Công ước Ả Rập về phòng, chống tội phạm công nghệ thông tin
năm 2010. Công ước Ả Rập năm 2010 có sự khác biệt về tên gọi “tội phạm công
nghệ thông tin”, không giống tên gọi “tội phạm mạng” trong Công ước Bu-đa-pet
năm 2001 nêu trên và không có sự phân chia nhóm mà quy định theo cách liệt kê,
với 13 loại tội phạm cụ thể, liên quan. Về TNHS, Điều 21 Công ước Ả Rập yêu cầu
các quốc gia thành viên phải cam kết về việc tăng nặng TNHS đối với trường hợp
thực hiện tội phạm truyền thống nhưng người phạm tội sử dụng công nghệ thông tin
để thực hiện tội phạm. Bên cạnh đó, Điều 20 của Công ước này quy định các quốc
gia thành viên phải cam kết việc quy định TNHS đối với pháp nhân trong trường
hợp hành vi phạm tội do người đại diện của pháp nhân thực hiện nhân danh pháp
nhân hoặc vì lợi ích pháp nhân và việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân cũng
không làm ảnh hưởng đến việc áp dụng hình phạt đối với cá nhân thực hiện hành vi
phạm tội [125].
Thứ ba, Công ước của Liên minh châu Phi về an ninh mạng và bảo vệ dữ
liệu cá nhân năm 2014. Nhằm mục đích thiết lập khung pháp lý cơ bản về an ninh
mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân, trực tiếp góp phần chống lại tội phạm công nghệ
thông tin, theo Công ước này, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin được
phân thành 04 nhóm: (1) Các tội phạm tấn công hệ thống máy tính; (2) Các tội
xâm phạm dữ liệu máy tính; (3) Các tội phạm liên quan đến nội dung; (4) Các tội
xâm phạm tài sản có liên quan đến công nghệ thông tin và truyền thông. Về vấn
đề TNHS, khoản 1 Điều 30 Công ước châu Phi yêu cầu các quốc gia thành viên
phải hình sự hóa các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản có liên quan đến
dữ liệu máy tính, bao gồm: trộm cắp, lừa đảo, tiêu thụ tài sản trộm cắp, lạm dụng
tín nhiệm, cưỡng đoạt tài sản. Đối với tình tiết sử dụng công nghệ thông tin và
truyền thông để thực hiện hành vi phạm tội nêu trên và hành vi khủng bố, rửa tiền,
73
các quốc gia phải coi đó là tình tiết tăng nặng TNHS. Bên cạnh đó, cũng theo
khoản 2 Điều 30 Công ước này thì pháp nhân phải chịu TNHS về những hành vi
phạm tội được quy định nếu hành vi đó do đại diện của pháp nhân thực hiện nhân
danh pháp nhân [124].
Như vậy, có thể thấy điểm chung của cả 03 công ước nêu trên là đều quy định về TNHS của pháp nhân đối với tội phạm công nghệ thông tin khi hành vi phạm tội do cá nhân thực hiện vì lợi ích của pháp nhân hoặc nhân danh pháp nhân và cá nhân phạm tội là người đại diện của pháp nhân đó. Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân sẽ không loại trừ TNHS của cá nhân trực tiếp thực hiện tội phạm trong lĩnh vực này.
3.1.1.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật một số quốc gia
Một là, trong pháp luật của Hoa Kỳ. Tại Bộ luật số 18 thuộc Bộ tổng luật Hoa Kỳ (viết tắt 18 USC) không có điều khoản riêng quy định về chủ thể của tội phạm nói chung cũng như các tội liên quan đến công nghệ thông tin, viễn thông nói riêng [36]. Nhiều tài liệu về Luật Hình sự của Hoa Kỳ cũng đề cập rằng chủ thể của tội phạm có thể là thể nhân, tổ chức hoặc cả hai. Khi cân nhắc quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, công tố viên phải tuân thủ các nguyên tắc về truy cứu đối với tổ chức [37].
Ngoài các luật chung của Liên bang, pháp luật Hoa Kỳ còn tạo điều kiện cho từng tiểu bang thông qua những sắc luật riêng để phòng, chống tội phạm CNTT, MVT trên cơ sở phù hợp với tình hình của mỗi bang. Ví dụ, New York nghiêm cấm việc sử dụng các công cụ, thiết bị công nghệ cao với mục đích truy cập vào các tài liệu trong máy tính một cách bất hợp pháp (xâm phạm máy tính), với hành vi vi phạm trên có thể áp dụng hình phạt lên đến 4 năm tù hoặc các hình phạt khác lên đến 15 năm tù tùy theo mức độ vi phạm [136].
74
Về dấu hiệu định khung tăng nặng TNHS theo quy định Luật Hình sự Hoa Kỳ thì “tiền án” cũng được là một dấu hiệu. Tuy nhiên, đối với trị giá tài sản liên quan đến hành vi phạm tội thì pháp luật Hoa Kỳ còn đưa thêm một dấu hiệu để xác định đó là giới hạn thời gian. Điểm lưu ý tiếp theo là hình phạt, cụ thể: hình phạt áp dụng đối với thể nhân là hình phạt tiền hoặc hình phạt tù (gồm tù có thời hạn hoặc tù chung thân) hoặc cả hai. Đối với từng tội phạm cụ thể, Luật Hình sự Hoa Kỳ không quy định mức phạt tù tối thiểu mà chỉ giới hạn mức phạt tối đa, do vậy, Bộ tổng luật Hoa Kỳ cũng chỉ quy định hình phạt tối đa được áp dụng đối với mỗi loại tội phạm và mỗi trường hợp phạm tội liên quan đến CNTT, MVT. Theo Luật Hình sự Hoa Kỳ, hình phạt cao nhất đối với tội phạm này là tù
chung thân đối với một số trường hợp hành vi phạm tội xâm hại dữ liệu liên quan đến an ninh, quốc phòng hoặc vị thế chính trị hoặc quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ với các nước khác.
Hai là, trong pháp luật của Canada. BLHS của Canada có 28 phần, trong đó có 10 phần quy định về tội phạm cụ thể, nhưng không có phần hay mục nào quy định riêng về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT [101]. Các hành vi phạm tội liên quan đến lĩnh vực này được quy định đan xen trong các phần liên quan. Theo Luật Hình sự Canada, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được đặt ra đối với cả thể nhân và tổ chức. Trong đó, đối với thể nhân, độ tuổi chịu TNHS là từ 12 tuổi (nhỏ hơn so với quy định của PLHS Việt Nam) và quy định rõ ràng về suy đoán đương nhiên có TNHS và “Việc người phạm tội thiếu hiểu biết pháp luật không phải là lý do được chấp thuận để họ thực hiện tội phạm” (s19). BLHS Canada phân loại 02 trường hợp mà tổ chức phải chịu TNHS về tội phạm với lỗi cẩu thả và lỗi không phải do cẩu thả. Tội phạm liên quan đến công nghệ thông tin trong BLHS Canada đều có lỗi cố ý (nghĩa là không có lỗi vô ý do cẩu thả). BLHS này cũng không quy định dấu hiệu định khung tăng nặng riêng đối với các tội phạm liên quan đến CNTT, MVT.
Về hình phạt đối với tội phạm này trong BLHS Canada, gồm: phạt tiền, phạt tù có thời hạn và phạt tù chung thân, được phân hóa theo tội phạm với 03 loại là: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm hỗn hợp. Khi áp dụng hình phạt tiền, Tòa án phải nêu rõ số tiền phạt, cách thức nộp tiền phạt, thời hạn nộp phạt, những loại tài sản nào được chấp nhận cho việc nộp phạt. Điểm rất đặc biệt là Canada cho phép quy đổi từ phạt tiền sang phạt tù nếu người phạm tội vi phạm nghĩa vụ nộp phạt (nghĩa là chưa nộp đầy đủ tiền phạt theo thời hạn quy định). Tòa án có thể áp dụng đồng thời hình phạt tiền và hình phạt tù đối với người phạm tội. Nếu phạm tội ít nghiêm trọng có thể bị áp dụng hình phạt tiền không quá 5.000 USD hoặc hình phạt tù dưới 02 năm hoặc cả hai. Nếu phạm tội nghiêm trọng, hình phạt tù phổ biến là không quá 10 năm. Quy định đó chứng minh quan điểm của nhà làm luật Canada xác định tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là những tội nghiêm trọng ở mức trung bình. Đối với tổ chức, BLHS Canada chỉ quy định hình phạt tiền.
Ba là, trong pháp luật của Nga. BLHS Liên bang Nga xác định đối với các tội phạm trong lĩnh vực này là tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính. Trước hết, BLHS Liên bang Nga xác định chủ thể của các tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính là cá nhân và hầu hết là chủ thể thường. Duy chỉ có tội phạm được quy định tại Điều 274.2 (Tội vi phạm các quy tắc quản lý tập trung 75
các phương tiện kỹ thuật để chống lại các mối đe dọa đối với sự ổn định, an ninh và toàn vẹn hoạt động của mạng thông tin và viễn thông “internet” và mạng truyền thông công cộng trên lãnh thổ Liên bang) là chủ thể đặc biệt - người có chức vụ thực hiện.
Nghiên cứu các quy định của BLHS Liên bang Nga về chế tài áp dụng đối với các tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính cho thấy, Nga sử dụng nhiều hình phạt chính không tước tự do, như: phạt tiền, lao động cải tạo, hạn chế tự do, cưỡng bức lao động. Bên cạnh đó, tất cả các tội phạm trong lĩnh vực thông tin, máy tính đều dự liệu đến việc áp dụng hình phạt tù mà mức tối đa có thể là 03 năm tù, 05 năm tù, thậm chí đến 08 năm tù. BLHS Nga còn quy định các hình phạt bổ sung như phạt tiền, hạn chế tự do, cấm đảm nhiệm chức vụ, một số công việc nhất định. Các quy định này chứng tỏ Nga có sự phân hóa rất rõ ràng trong chính sách hình sự đối với các trường hợp phạm tội cụ thể [102].
Bốn là, trong pháp luật của Trung Quốc. BLHS của Trung Quốc không quy định tên riêng cho các tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông mà quy định tại mục 1, Chương VI. Theo đó, các tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông có thể do cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện. Điều 30, BLHS Trung Quốc quy định: công ty, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức công cộng thực hiện hành vi nguy hại cho xã hội mà hành vi đó được quy định là tội phạm thì phải chịu TNHS, nghĩa là không giới hạn phạm vi pháp nhân và giới hạn nhóm hay loại tội phạm mà pháp nhân phải chịu TNHS. Quy định về tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông tại Điều 285, 286, 286-1, 287-1, 287-2 BLHS chỉ rõ: trường hợp đơn vị phạm tội quy định tại khoản 1 thì đơn vị đó bị phạt tiền, người phụ trách trực tiếp và những người chịu trách nhiệm trực tiếp khác bị xử phạt theo quy định tại khoản 1.
Về hình phạt quy định đối với các tội phạm liên quan đến mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định của BLHS Trung Quốc chủ yếu là hình phạt tù có thời hạn, giam giữ ngắn hạn và hình phạt tiền [103]. Xu thế chung của PLHS Trung Quốc là ngày càng trừng phạt nghiêm khắc hơn nữa các tội phạm này.
3.1.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện chế định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và mạng viễn thông Trên cơ sở pháp luật quốc tế về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT đã nêu trên, có thể rút ra một số kinh nghiệm của pháp luật quốc tế
76
cho Việt Nam như sau:
Thứ nhất, có thể bổ sung quy định về việc pháp nhân thương mại phải chịu
TNHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS. Các công ước quốc
tế hiện nay đều yêu cầu các nước thành viên phải truy cứu TNHS đối với pháp
nhân khi có tội phạm công nghệ thông tin do cá nhân thực hiện vì lợi ích của
pháp nhân hoặc nhân danh pháp nhân và cá nhân phạm tội là người đại diện của
pháp nhân đó. Thực tiễn ở nước ta đã xảy ra trường hợp pháp nhân được thành
lập chỉ nhằm mục đích thực hiện một số tội phạm công nghệ thông tin nhưng do
BLHS năm 2015 chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội phạm
này, dẫn đến cơ quan chức năng không thể đấu tranh, xử lý được.
Thứ hai, cần làm rõ và phân hóa hơn nữa TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT trong PLHS hiện nay. PLHS nói chung và BLHS Việt Nam
nói riêng cần làm rõ và phân hóa cao độ TNHS đối với từng loại tội phạm cụ thể
trong lĩnh vực CNTT, MVT với xu hướng đa dạng hóa các loại hình phạt chính,
hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp áp dụng đối với chủ thể phạm tội, mở
rộng thêm các hình phạt không tước tự do nhưng vẫn cần thể hiện tính răn đe,
trấn áp nghiêm minh của Nhà nước. Đồng thời, chú trọng xu thế nhân đạo, khắc
phục triệt để hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra và khắc phục nguyên nhân,
điều kiện của tội phạm trong lĩnh vực này. Nhấn mạnh lại mục đích của TNHS
đối với tội phạm này không phải và không chỉ là trừng trị mà quan trọng là bảo
đảm công lý, công bằng xã hội và làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm.
Thứ ba, cần có sự điều chỉnh độ rộng của khung hình phạt cải tạo không
giam giữ, phạt tiền và phạt tù có thời hạn áp dụng đối với chủ thể phạm tội trong
lĩnh vực CNTT, MVT bảo đảm cân đối, hợp lý, dễ áp dụng, tránh dẫn đến sự tùy
tiện và thể hiện được sự công bằng. Theo đó, BLHS cần giới hạn định mức tối
thiểu và tối đa của khung hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của
tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
của chủ thể phạm tội trong từng vụ án cụ thể. Riêng đối với hình phạt tiền nên
định lượng theo trị giá tài sản, thiệt hại gây ra hoặc chiếm đoạt được dùng làm
căn cứ quyết định mức phạt. Bên cạnh đó, nên tham khảo kinh nghiệm của
Canada trong việc quy đổi từ phạt tiền sang phạt tù khi người phạm tội vi phạm
quy định về nộp phạt tiền. Đặc biệt, rất cần lưu ý nâng mức phạt tù có thời hạn
lên mức tù chung thân đối với một số tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT,
77
MVT mà gây hậu quả, thiệt hại rất lớn cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự
bảo vệ, ví dụ: hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, tài sản của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Thứ tư, PLHS Việt Nam cần quy định rõ trong BLHS về việc suy đoán
đương nhiên có TNHS đối với chủ thể là cá nhân phạm tội nói chung, phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng theo kinh nghiệm của Canada. Đồng thời,
phải xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước mà đại diện là các cơ quan
chức năng có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình truy cứu TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Cần xác định rõ vai trò, nghĩa vụ và trách
nhiệm của Nhà nước, cụ thể là các cơ quan nhà nước trong việc phải bảo đảm truy
cứu TNHS một cách đúng đắn, khách quan, trên tinh thần “thượng tôn pháp luật”.
Thứ năm, Việt Nam cần sớm hoàn chỉnh khung pháp lý cần thiết liên quan
đến các hoạt động trên không gian mạng, trong đó tiếp tục xác định rõ ràng, chặt
chẽ những quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Trong đó chú ý vấn đề ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan đến các hoạt
động trên không gian mạng, các vi phạm pháp luật nói chung, tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT nói riêng và chế tài xử lý đối với các vi phạm đó, bảo đảm cụ
thể, chi tiết, phù hợp và dễ áp dụng trong thực tiễn. Để thực hiện tốt vấn đề này,
chúng ta cần tham khảo việc nội luật hóa một số quy định trong các văn bản pháp
luật quốc tế như: Công ước Bu-đa-pet năm 2001 hay tham khảo kinh nghiệm lập
pháp của một số nước tiên tiến, như: Hoa Kỳ, Canada về chế định TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đặc biệt tới đây, Liên hợp quốc sẽ thông
qua Công ước về tội phạm mạng, Công ước sẽ được mở để ký kết ở Hà Nội (hay
còn gọi là Công ước Hà Nội) vào năm 2025 và tiếp tục mở tại Trụ sở Liên hợp
quốc ở New York (Mỹ) cho đến ngày 31/12/2026. Công ước này tập hợp các quốc
gia tham gia vào một mục tiêu chung: ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm mạng,
tăng cường hợp tác quốc tế, thúc đẩy hỗ trợ kỹ thuật và phát triển năng lực. Đây là
cơ hội, điều kiện rất lớn để Việt Nam tham gia hội nhập và không ngừng hoàn
thiện hệ thống pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Trên cơ sở những nội dung chủ yếu trong quy định của pháp luật quốc tế về
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cho thấy, nhiều giá trị tiến
bộ, phù hợp và rất khả thi để nước ta tham khảo, điều chỉnh chính sách và quy
định của PLHS liên quan vấn đề này. Thiết nghĩ, BLHS và một số các văn bản
pháp lý khác ở Việt Nam cần có sự tiếp thu, vận dụng trong những lần sửa đổi, bổ
78
sung trong thời gian tới, góp phần hoàn thiện chế định TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT nhằm đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm trong tình hình mới.
3.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với
tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trước khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 2015
3.1.2.1. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến khi ban
hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Trong thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tình hình đời sống kinh tế, xã hội, khoa
học công nghệ ở nước ta còn nhiều khó khăn, CNTT, MVT chưa được ứng dụng
phổ biến, do đó tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng chưa xuất hiện. Có
thể khẳng định BLHS năm 1985 không có quy định nào về tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT. Khi Quốc hội ban hành BLHS năm 1999 thì CNTT, MVT đã
được sử dụng và áp dụng nhiều hơn trong cuộc sống. Các đối tượng đã sử dụng
CNTT, MVT để thực hiện tội phạm cũng như tác động, gây thiệt hại đối với
CNTT, MVT. Các loại tội phạm ấy gây mất an toàn công cộng, trật tự công
cộng, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và có xu
hướng tăng nhanh. BLHS năm 1999 đã quy định về 03 tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT tại Chương XIX. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng, gồm: Điều 224. Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút
tin học; Điều 225. Tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng
mạng máy tính điện tử; Điều 226. Tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và
trong máy tính. Tuy vậy, 03 tội này chưa được quy định thành nhóm riêng, chưa
được gọi là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như hiện nay mà chỉ là các tội
phạm cụ thể thuộc Chương XIX của BLHS nêu trên.
BLHS năm 1999 quy định phạm vi của tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT rất hạn hẹp, bởi lẽ theo quy định của BLHS năm 1999, khách thể loại của
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Điều này cũng lặp lại tương tự trong các lần sửa đổi, bổ sung sau và kể cả BLHS
năm 2015 hiện hành cũng không thay đổi.
Theo quy định của BLHS năm 1999, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT đặt ra như sau:
Thứ nhất, TNHS đối với tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình
79
vi-rút tin học (Điều 224):
Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi-rút được thực hiện bởi
02 hành vi, bao gồm: tạo ra chương trình vi-rút và lan truyền hoặc phát tán
chương trình vi-rút. Chương trình vi-rút là một loại chương trình tin học có tính
năng gây hại, có khả năng “tự động hóa xử lý thông tin, gây ra hoạt động không
bình thường cho thiết bị số hoặc sao chép, sửa đổi, xóa bỏ thông tin lưu trữ trong
thiết bị số”. Theo quy định tại Điều 224, BLHS năm 1999, sau khi tạo ra chương
trình vi-rút, người phạm tội đã cố ý lan truyền hoặc phát tán chương trình vi-rút
đó nhằm gây rối loạn hoạt động, phong tỏa, sao chép, làm biến dạng, huỷ hoại
các dữ liệu của máy tính, thiết bị viễn thông, thiết bị số. Trên thực tế, quy định
này là rất hạn chế vì đã thu hẹp khoảng cách bị xử lý hình sự đối với tội phạm
này, vì người phạm tội phải trực tiếp tạo ra chương trình vi-rút và cố ý phát tán,
lan truyền chương trình vi-rút này thì mới thỏa mãn dấu hiệu hành vi trong mặt
khách quan của cấu thành tội phạm. Ngoài ra, chương trình vi-rút tin học chỉ là
một trong số nhiều những chương trình tin học có tính năng gây thiệt hại khác.
Đến khi sửa đổi, bổ sung BLHS năm 2009, các nhà làm luật đã khắc phục được
các hạn chế, thiếu sót này.
Về TNHS liên quan, BLHS năm 1999 quy định hình phạt đối với tội phạm
này là phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì
bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ hai, TNHS đối với tội vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và
sử dụng mạng máy tính điện tử (Điều 225):
Tội phạm này có hành vi khách quan là sử dụng mạng máy tính vi phạm
các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính gây rối loạn hoạt
động, phong tỏa hoặc làm biến dạng, làm hủy hoại các dữ liệu của máy tính hoặc
đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Hành vi
“vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính” có
phạm vi rất rộng bao gồm nhiều hành vi khác nhau dẫn đến hậu quả là “gây rối
loạn hoạt động, phong tỏa hoặc làm biến dạng, làm hủy hoại các dữ liệu của máy
tính” và cả những hành vi tuy không dẫn đến hậu quả này nhưng “đã bị xử lý kỷ
luật, xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Điều này làm cho
80
những hành vi không liên quan trực tiếp đến lĩnh vực CNTT, MVT cũng bị đưa
vào hành vi khách quan của tội này. Điểm bất cập này trong BLHS năm 1999 đã
được sửa đổi, bổ sung khắc phục vào năm 2009, các nhà làm luật đã sửa đổi tên
tội danh thành “tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet, thiết bị số”. Sự thay đổi này đã thu hẹp phạm vi xử lý
hình sự của Điều 225 và thể hiện rõ bản chất của tội phạm này này thông qua
việc xác định đúng đắn hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm, gồm 3
hành vi cụ thể: (1) tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu thiết bị
số; (2) ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet, thiết bị số; (3) hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số. Đây là
hành vi cố ý của người không có quyền quản lý, vận hành, khai thác mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số đã làm ảnh hưởng đến hoạt
động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị
số bằng việc đưa vào, truyền tải làm hư hỏng, xóa, làm suy giảm, thay thế hoặc
nén dữ liệu máy tính, thiết bị viễn thông hoặc thiết bị số.
Về TNHS liên quan, BLHS năm 1999 quy định hình phạt đối với tội phạm
này là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường
hợp: Có tổ chức; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền
từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Thứ ba, TNHS đối với tội sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong
máy tính (Điều 226):
Hành vi khách quan của tội là hành vi sử dụng trái phép thông tin trên
mạng và trong máy tính hoặc đưa vào mạng máy tính những thông tin trái với
quy định của pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng. Điều luật này được BLHS
năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đổi tên tội danh thành “tội đưa hoặc sử
dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet”.
Theo đó, hành vi khách quan của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin trên
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, bao gồm các hành vi sau: (1)
đưa lên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet những thông tin trái với
quy định của pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 88 và
81
Điều 253 của BLHS năm 1999; (2) mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay
đổi hoặc công khai hóa những thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet mà không được
phép của chủ sở hữu thông tin đó; (3) hành vi khác sử dụng trái phép thông tin
trên mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet.
Về TNHS liên quan, BLHS năm 1999 quy định hình phạt đối với tội phạm
này là phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Phạm tội thuộc một trong các
trường hợp: có tổ chức; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 03 triệu đồng đến 30 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3.1.2.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung
năm 2009 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
Qua 10 năm triển khai thực hiện, BLHS năm 1999 đã xuất hiện những hạn
chế, bất cập. Trên cơ sở biến đổi của tình hình xã hội, Luật sửa đổi, bổ sung
BLHS năm 1999 ngày 19/6/2009 đã được ban hành. Theo đó, quy định của
BLHS năm 1999 về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng được sửa đổi, bổ
sung tương đối nhiều. Ngoài những sửa đổi, bổ sung trong các điều luật trên,
BLHS năm 1999 còn được sửa đổi, bổ sung thêm các nội dung sau:
Một là, đã quy định bổ sung thêm 02 điều luật mới là Điều 226a. Tội truy cập
bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số
của người khác và Điều 226b. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Từ đó, nâng tổng số
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009 lên
thành 05 tội. Có thể khẳng định 02 tội danh mới này rất phù hợp với xu thế phát
triển và biến đổi của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở trong nước và trên thế
giới lúc bấy giờ.
Hai là, sửa đổi các Điều 224, Điều 225 và Điều 226 cụ thể hơn. BLHS sửa
đổi năm 2009 đã đưa thêm vào cấu thành tăng nặng một số tình tiết định khung
như: “có tổ chức”, “tái phạm nguy hiểm”, “đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật
nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng”... Đồng thời sửa đổi
bằng cách tăng nặng hình phạt tiền “từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng” lên “từ 20
triệu đồng đến 200 triệu đồng” (khoản 1 Điều 224 và Điều 225) và từ 05 triệu
82
đồng đến 50 triệu đồng lên “từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng” (khoản 1 Điều
226). Đối với hình phạt bổ sung là hình phạt tiền trong Điều 226 đã tăng từ “03
triệu đồng đến 30 triệu đồng” lên “từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng”.
Về TNHS đối với 05 tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy
định của BLHS sửa đổi, bổ sung năm 2009, như sau:
- Đối với tội phát tán vi-rút, chương trình tin học có tính năng gây hại cho
hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet, thiết bị số (Điều
224) là bị phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm
đến 05 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Có tổ chức; gây hậu quả
nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp: đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước;
hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng; đối với cơ sở hạ tầng thông tin
quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống thông tin tài
chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông; Gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet, thiết bị số (Điều 225) là bị phạt tiền từ 20 triệu đồng
đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet; gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Đối với hệ thống dữ liệu
thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng; đối với
cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc
gia; hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao
thông; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet (Điều 226) là bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100
triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng quyền
83
quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet; thu lợi bất chính từ 100
triệu đồng trở lên; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì
bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng internet hoặc thiết bị số của người khác (Điều 226a) là bị phạt tiền từ 20
triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội thuộc
một trong các trường hợp: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; thu lợi bất
chính lớn; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: đối với hệ thống dữ liệu
thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ an ninh, quốc phòng; đối với
cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia;
hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông;
thu lợi bất chính rất lớn hoặc đặc biệt lớn; gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Ngoài ra, người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
- Đối với tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc
thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 226b) là bị phạt tiền từ 10
triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp: có tổ chức; phạm tội nhiều lần; có tính chất
chuyên nghiệp; chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu
đồng; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm nguy hiểm thì bị phạt tù từ 03 năm
đến 07 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: chiếm đoạt tài sản có giá
trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp: chiếm
đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên; gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, người
phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 100 triệu đồng, tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Ở giai đoạn phát triển tiếp theo (từ năm 2010 đến năm 2015) những thủ
đoạn phạm tội mới xuất hiện đặt ra vấn đề cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn
84
thiện quy định của BLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đáp ứng yêu
cầu cấp bách trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng, BLHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ
sung đáng kể trong các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT so với
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), trong đó có những quy định về
TNHS đối với loại tội phạm này.
3.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông hiện nay
3.2.1. Các hình thức trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được biểu hiện ra bên
ngoài bằng các hình thức cụ thể. Nó phản ánh mức độ phải chịu TNHS của
người phạm tội, cũng như quyền, nghĩa vụ và địa vị pháp lý của các bên trong
mối quan hệ PLHS. Hình thức TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT chính là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải gánh chịu do việc
người đó đã thực hiện tội phạm này. Nghiêm khắc và nổi bật nhất trong các hình
thức TNHS đối với tội phạm đó là hình phạt và đi kèm là án tích. Đối với các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì hình phạt được quy định ngay trong chế tài
của các tội phạm tại mục 2, chương XXI. Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng của BLHS năm 2015.
Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT không chỉ giới hạn ở nghĩa vụ phải chịu hình phạt, mà còn phải chịu
sự tác động của các hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, bị áp dụng các biện
pháp cưỡng chế TNHS (hình phạt và các biện pháp tư pháp) và bị mang án tích.
Kể cả trong trường hợp người phạm tội được miễn TNHS thì trước khi miễn
TNHS, hành vi mà người đó thực hiện vẫn bị coi là tội phạm và người đó vẫn bị
coi là người có tội. Vì thế, người đó phải có nghĩa vụ pháp lý là gánh chịu các biện
pháp cưỡng chế hình sự đặt ra. Bởi lẽ, TNHS xuất hiện từ khi người đó thực hiện
hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Việc người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được miễn TNHS chính là
việc chấm dứt TNHS đối với họ, do đã thoả mãn điều kiện được miễn TNHS được
quy định tại BLHS năm 2015. Theo đó, họ không phải gánh chịu hậu quả bất lợi
mà luật quy định đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, do cơ quan
85
có thẩm quyền thấy rằng việc truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt hay các dạng
TNHS khác đối với họ là không cần thiết và vì thế họ được miễn TNHS. Khi
người phạm tội bị tác động bởi hình thức TNHS phổ biến là hình phạt, hay ngay
cả trong trường hợp được miễn hình phạt thì đều có hậu quả là họ bị mang án tích
trong một thời hạn nhất định. Nếu chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới thì
tùy từng trường hợp họ sẽ bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
3.2.1.1. Về hình phạt chính
Hình phạt chính đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bao gồm 3/7
loại hình phạt chính theo quy định tại Điều 32 BLHS hiện hành đó là: phạt tiền,
cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn. Còn đối với hình phạt trục xuất, theo quy
định tại Điều 37, BLHS hiện hành thì hình phạt này chỉ áp dụng đối với người
nước ngoài phạm tội và được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt
bổ sung tùy từng trường hợp cụ thể. Như vậy, đối với 09 tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT sẽ không có tội nào mà người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình, nhưng cũng không có tội nào mà chỉ bị áp dụng hình
phạt cảnh cáo. Có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của các hình phạt chính
được áp dụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT như sau:
Một là, về tần suất quy định các loại hình phạt chính trong tổng số 09 tội danh
trong lĩnh vực CNTT, MVT (xem phụ lục 1). Qua đó cho thấy, tần suất quy định
loại hình phạt chính là phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn tương đối
đồng đều trong tổng số các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nhiều nhất là
hình phạt tù có thời hạn được quy định ở 09/09 tội (chiếm 100%), kế tiếp là hình
phạt tiền được quy định ở 08/09 tội (chiếm 88,89%) và sau cùng là hình phạt cải tạo
không giam giữ được quy định ở 07/09 tội (chiếm 77,78%).
Như vậy hình phạt được áp dụng phổ biến nhất đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT là hình phạt tù có thời hạn. Hình phạt này cũng có sự phân
hóa, giới hạn nhất định giữa các tội phạm này (xem phụ lục 2).
Hai là, các quy định về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
trong BLHS năm 2015 đã thể hiện rõ chính sách hình sự của nước ta theo Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020: “... đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc
xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt
cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm...”, với quan điểm áp dụng
86
TNHS tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm mà tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT gây ra đối với xã hội, cụ thể: chỉ có 03/07 hình phạt chính trong
BLHS được áp dụng đối với tội phạm này, trong đó mức phạt nhẹ nhất là phạt tiền
từ 20 triệu đồng và mức phạt nặng nhất là phạt tù có thời hạn đến 20 năm.
Căn cứ Điều 9, BLHS hiện hành về phân loại tội phạm thì đối với 09 tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở cấu thành cơ bản, thì có 08/09 tội là tội
phạm ít nghiêm trọng (phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03
năm); 01/09 tội là tội phạm nghiêm trọng (đến 05 năm tù): Điều 289. Tội xâm
nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử
của người khác.
Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở khung cấu thành tăng
nặng, thì không có tội nào là tội phạm ít nghiêm trọng; có 05/09 tội là tội phạm
nghiêm trọng (phạt tù đến 05 năm hoặc phạt tù đến 07 năm); 03/09 tội là tội
phạm rất nghiêm trọng (phạt tù đến 12 năm) và 01/09 tội là tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng (phạt tù đến 20 năm).
Ba là, khoảng cách thời hạn phạt tù giữa mức khởi điểm thấp nhất và mức
cao nhất của khung hình phạt tù có thời hạn còn chênh lệch khá lớn. Cụ thể: từ
03 tháng đến 02 năm; từ 06 tháng đến 03 năm; từ 01 năm đến 05 năm; từ 02 năm
đến 07 năm; từ 03 năm đến 07 năm; từ 07 năm đến 12 năm; từ 07 năm đến 15
năm; thậm chí là từ 12 năm đến 20 năm (khoảng cách rất lớn đến 08 năm). Việc
BLHS hiện hành quy định khoảng thời hạn phạt tù có sự chênh lệch lớn trong
khung hình phạt mặc dù tạo sự linh hoạt, cơ động cho Tòa án khi xét xử, quyết
định hình phạt, nhưng chính nó cũng gây nhiều khó khăn cho Tòa án khi áp dụng
TNHS. Đồng thời việc này cũng chưa thể hiện sự phân hóa rõ nét về TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Bốn là, mức khởi đầu của một số khung hình phạt tù có thời hạn rất thấp,
chỉ từ 03 tháng tù. Theo Nghiên cứu sinh, 03 tháng tù là quá ngắn để trừng trị
người bị coi là phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, mức phạt này khó có thể
răn đe, giáo dục, cải tạo người bị kết án cũng như tạo ra sự phòng ngừa chung
đối với xã hội. Đây thực sự là hạn chế trong quy định về TNHS đối với các tội
phạm cụ thể được quy định bởi khung hình phạt này, không riêng gì đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Năm là, mức án phạt tù có thời hạn cao nhất và cũng là khung hình phạt cao
87
nhất được áp dụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo quy định của
BLHS hiện hành là 20 năm tù (khoản 4, Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản) thuộc
một trong các trường hợp: chiếm đoạt tài sản từ 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại
500 triệu đồng trở lên hoặc số lượng thẻ giả (thẻ ngân hàng giả) 500 thẻ trở lên.
Theo Nghiên cứu sinh, mức cao nhất của hình phạt tù có thời hạn là 20 năm tù đối
với tội phạm có cấu thành tăng nặng nêu trên là tương đối nhẹ. Đặc biệt, cũng chỉ
duy nhất khoản 4, Điều 290 có mức hình phạt cao nhất này trong số tất cả hình phạt
áp dụng đối với nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Điều đó cho thấy tính
nghiêm khắc của PLHS đối với loại tội phạm này còn hạn chế, nhất là trong bối
cảnh tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT diễn biến vô cùng gay gắt,
phức tạp, để lại nhiều hậu quả lớn trong xã hội như hiện nay. Rất cần thiết phải tăng
chế tài áp dụng đối với loại tội phạm này trong thời gian tới.
3.2.1.2. Về hình phạt bổ sung
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 32, BLHS năm 2015, hình phạt bổ sung đối
với người phạm tội bao gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu
tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp
dụng là hình phạt chính. Bên cạnh đó, khoản 3, Điều 32 này cũng quy định: “Đối
với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị
áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”.
Đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thì hình phạt bổ sung được
quy định bao gồm: phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Qua nghiên cứu quy
định của BLHS hiện hành về hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với các tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, rút ra một số điểm đáng chú ý sau:
Một là, về tần suất quy định các loại hình phạt bổ sung, qua thống kê 09 tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhận thấy: hình phạt bổ sung được quy định để
áp dụng với tỷ lệ tương đối cao. Cụ thể có 07/09 tội có quy định về hình phạt bổ
sung ở khoản cuối cùng trong điều luật (chiếm 77,78%). Có 02/09 tội không quy
định hình phạt bổ sung (chiếm 22,22%) đó là “tội sử dụng trái phép tần số vô
tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn,
quốc phòng, an ninh” (Điều 293) và “tội cố ý gây nhiễu có hại” (Điều 294).
88
Đúng như tên gọi của hình phạt bổ sung, theo đó hình phạt này chỉ quy định
để áp dụng đối với các tội phạm cụ thể, chứ không quy định áp dụng đối với tất
cả tội phạm trong BLHS nói chung, tất cả tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
nói riêng. Bởi đây là các hình phạt bổ sung cho hình phạt chính, góp phần hỗ trợ
đạt được mục đích, giúp thực hiện hiệu quả mục đích của hình phạt tại Điều 31,
BLHS hiện hành. Theo đó, đối với các tội phạm mà hình phạt chính được quy
định chưa đủ sức răn đe, trừng trị và giáo dục cũng như chưa thể hiện hết yêu
cầu, mục đích của hình phạt thì có thể áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với
người phạm tội ấy.
Hai là, hình phạt bổ sung được quy định đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT cũng mang tính tùy nghi khi tại khoản cuối cùng trong các Điều 285,
286, 287, 288, 289, 290, 291 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị ...”, với 02
hình phạt bổ sung xuất hiện trong cả 07 điều luật nêu trên là: phạt tiền, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Riêng đối với hình
phạt bổ sung là “tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” có thể được áp dụng đối
với 03 tội, đó là: “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị,
phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” (Điều 285); “tội sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản” (Điều 290) và “tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái
phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291).
Điều này cho thấy đặc thù của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT như đã phân tích nêu trên, cần có sự trừng trị thêm của hình phạt bổ
sung để hỗ trợ, tăng cường hiệu quả đối với hình phạt chính. Từ đó, cho thấy
TNHS đối với nhóm tội này vừa thể hiện được quan điểm trừng trị, vừa nhằm
phòng ngừa, răn đe các trường hợp khác trong xã hội, qua đó giúp Nhà nước
khắc phục tốt nhất các thiệt hại do tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT gây ra.
Ba là, các hình phạt bổ sung không được quy định áp dụng đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT là: trục xuất, quản chế, tước một số quyền công dân,
cấm cư trú. Bởi trên thực tế, các hình phạt bổ sung này không phù hợp với đặc
điểm của chủ thể phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT như đã phân tích trong
phần cơ sở của TNHS đối với tội phạm này ở trên. Đồng thời, trong yêu cầu
phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng không cần
thiết đặt ra yêu cầu áp dụng các hình phạt bổ sung này (xem phụ lục 3).
Bốn là, trong 03 loại hình phạt bổ sung nêu trên, thì phổ biến hơn cả là phạt
89
tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính và cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm công việc nhất định. Theo Nghiên cứu sinh, quy định này rất phù
hợp bởi lẽ một trong những mục đích quan trọng mà người phạm tội mong muốn
đạt được khi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT là chiếm đoạt tiền hoặc tài
sản. Đồng thời, vị trí công việc, nghề nghiệp hay tính chất việc làm của người
phạm tội này trước đó chính là những nguyên nhân - điều kiện thuận lợi để họ
lợi dụng thực hiện tội phạm, mặc dù tội phạm này không đòi hỏi chủ thể phạm
tội là chủ thể đặc biệt. BLHS hiện hành quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định rất có ý
nghĩa không chỉ trong việc khắc phục hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra, mà
còn góp phần hạn chế, loại bỏ khả năng, điều kiện để người bị kết án tái phạm
hoặc vi phạm pháp luật khác.
Năm là, đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền thì BLHS hiện hành cũng quy
định mức phạt rất đa dạng và tùy nghi áp dụng theo phán quyết của Tòa án. Quy
định này rất tạo điều kiện để Tòa án chủ động, vận dụng và quyết định linh hoạt
trong việc có hay không việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. Cùng
với đó, giới hạn định mức phạt tiền từ thấp nhất đến cao nhất được quy định khá
rộng, thường có khoảng cách khá xa. Qua thống kê cho thấy: mức phạt cao nhất
gấp nhiều lần mức khởi điểm (từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng; từ 5 triệu đồng
đến 100 triệu đồng; từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng; từ 20 triệu đồng đến 100
triệu đồng; từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng; từ 30 triệu đồng đến 200 triệu
đồng). Khoảng cách chênh lệch lớn nhất trong giới hạn liệt kê nêu trên là 20 lần
(từ 5 triệu đồng đến 100 triệu đồng). Tuy nhiên, nếu nhìn ở một góc độ khác, quy
định này có thể coi là một hạn chế của BLHS hiện hành khi có thể dẫn tới việc cơ
quan có thẩm quyền không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung hoặc có áp
dụng nhưng rất dễ áp dụng tùy tiện (xem phụ lục 4).
3.2.1.3. Các biện pháp tư pháp
Biện pháp tư pháp là một hình thức TNHS mang tính cưỡng chế nhằm thay
thế hình phạt hoặc hỗ trợ hình phạt theo các điều kiện và căn cứ do PLHS quy
định. Theo đó, khi xét xử, Tòa án sẽ căn cứ các quy định của PLHS hiện hành để
quyết định áp dụng biện pháp tư pháp cụ thể đối với người phạm tội trong lĩnh
vực CNTT, MVT. Khoản 1, Điều 46 BLHS hiện hành quy định các biện pháp tư
pháp đối với người phạm tội bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến
tội phạm; Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin
90
lỗi; Bắt buộc chữa bệnh. Riêng đối với biện pháp “bắt buộc chữa bệnh”, như đã
nêu ở phần trên, vì TNHS là những hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu, do đó thì “bắt buộc chữa bệnh” sẽ
không phải là hình thức của TNHS mà chỉ là một biện pháp tác động hình sự
khác được áp dụng dành cho người phạm tội trong trường hợp họ bị mắc bệnh
tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh bên cạnh việc phòng ngừa
người phạm tội gây thiệt hại thì bản thân nó còn mang tính nhân đạo sâu sắc, vì
thế không thể coi đây là “hậu quả pháp lý bất lợi” với tư cách là TNHS áp dụng
đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Trong mục 2, chương XXI, BLHS hiện hành về các tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT không quy định trực tiếp biện pháp tư pháp cụ thể nào được áp dụng
đối với tội phạm trong lĩnh vực này. Qua nghiên cứu cho thấy, các biện pháp tư
pháp phổ biến áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, đó là:
- Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47, BLHS hiện
hành): Việc tịch thu tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm sung vào ngân sách nhà
nước hoặc tịch thu vật liên quan đến tội phạm để tiêu hủy được áp dụng đối với:
Công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; Vật hoặc tiền do phạm tội hoặc
do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; khoản thu lợi bất chính từ việc phạm
tội; Vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Bên cạnh đó, đối với
vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép, thì không tịch thu
mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Ngoài ra, đối với vật,
tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người
phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu.
- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
(Điều 48 BLHS hiện hành). Theo đó, người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm
đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra. Bên cạnh đó, trong
trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải
bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
Các biện pháp tư pháp bị áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT chủ yếu nhằm thu hồi tài sản đã bị chiếm đoạt, trực tiếp góp phần
khắc phục hậu quả do người phạm tội gây ra, hạn chế thiệt hại cho cơ quan, tổ
91
chức, cá nhân liên quan.
3.2.1.4. Án tích
Án tích trong TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT
theo quy định của BLHS năm 2015 cơ bản tương tự so với người phạm các loại
tội phạm khác. Khoản 1 Điều 69 BLHS năm 2015 quy định: “Người được xóa
án tích coi như chưa bị kết án”. Điều đó có nghĩa rằng người mang án tích phải
là người bị kết án và án tích chính là hậu quả pháp lý sau cùng của người phạm
tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Việc xóa án tích đối với người bị kết án về tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được thực hiện theo quy định chung tại các
Điều 69, 70, 72 và 73 thuộc Chương X của BLHS hiện hành, trừ Điều 71. Xóa
án tích theo quyết định của Tòa án, bởi trường hợp xóa án tích theo quyết định
của Tòa án chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về một trong các tội quy
định tại Chương XIII (các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI
(các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) của BLHS,
nghĩa là việc xóa án tích đối với người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT chỉ được thực hiện trong 02 trường hợp: đương nhiên được xóa án
tích (Điều 70) và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt (Điều 72). Những quy
định này đã thể hiện rõ nét chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta đối với
người bị kết án, trong đó có những người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT nhằm tạo động lực để họ chấp hành nghiêm túc bản án của Tòa án
đã tuyên và có hiệu lực, đồng thời có ý thức tuân thủ pháp luật sau khi đã chấp
hành xong bản án đó.
3.2.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm cụ thể trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông trong Bộ luật Hình sự năm 2015
3.2.2.1. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội sản xuất, mua bán, trao
đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái
pháp luật
TNHS đặt ra đối với người phạm tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng
cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều
285 BLHS) gồm 03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với
mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội là hành vi sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc
tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử để sử dụng vào mục đích trái pháp luật.
92
Trong trường hợp này người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 20 triệu
đồng đến 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù
từ 03 tháng đến 02 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phạm tội 02
lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới
500 triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản từ 100 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; tái
phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 100 triệu
đồng đến 500 triệu đồng (gấp 05 lần mức phạt ở khung cơ bản) hoặc phạt tù từ 01
năm đến 05 năm.
Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội thu lợi bất chính 500 triệu đồng
trở lên; gây thiệt hại về tài sản 1 tỷ đồng trở lên thì người phạm tội có thể bị áp dụng
hình phạt tiền từ 500 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
có thể áp dụng đối với người phạm tội này, đó là: phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 100
triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3.2.2.2. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phát tán chương trình tin
học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
TNHS đặt ra đối với người phạm tội phát tán chương trình tin học gây hại
cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều
286 BLHS) gồm 03 khung hình phạt theo mức độ tăng dần tương ứng với mức
độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi cố ý phát tán
chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp: Thu lợi bất chính từ 50 triệu
đồng đến dưới 200 triệu đồng; gây thiệt hại từ 50 triệu đồng đến dưới 300
triệu đồng; làm lây nhiễm từ 50 phương tiện điện tử đến dưới 200 phương
tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 50 người sử dụng đến dưới 200
người sử dụng; đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong các trường
hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến
200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; thu lợi bất
93
chính từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây thiệt hại từ 300 triệu đồng
đến dưới 1 tỷ đồng; làm lây nhiễm từ 200 phương tiện điện tử đến dưới 500
phương tiện điện tử hoặc hệ thống thông tin có từ 200 người sử dụng đến dưới 500
người sử dụng; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt
tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội đối với hệ thống dữ liệu thuộc
bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ
sở hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia;
hệ thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao
thông; thu lợi bất chính 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 1 tỷ đồng trở lên;
làm lây nhiễm 500 phương tiện điện tử trở lên hoặc hệ thống thông tin có từ 500
người sử dụng trở lên thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 07
năm đến 12 năm trong trường hợp:
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội này, đó là: phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
3.2.2.3. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội cản trở hoặc gây rối
loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
TNHS đặt ra đối với người phạm tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động
của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 287 BLHS) gồm
03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng
của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi tự ý xóa, làm
tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc
truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
hoặc có hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau
đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 286 và Điều 289 của
BLHS: Thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; gây thiệt
hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; làm tê liệt, gián đoạn, ngưng
trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 30
phút đến dưới 24 giờ hoặc từ 03 lần đến dưới 10 lần trong thời gian 24 giờ;
làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ đến dưới 72 giờ; đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
94
được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong các trường hợp này, người phạm tội
có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; lợi dụng
quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông; tái phạm nguy hiểm; thu lợi bất
chính từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; gây thiệt hại từ 500 triệu đồng đến
dưới 1,5 tỷ đồng; làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 24 giờ đến dưới 168 giờ hoặc từ 10 lần
đến dưới 50 lần trong thời gian 24 giờ; làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ
chức từ 72 giờ đến dưới 168 giờ thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt
tiền từ 200 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội đối với hệ thống dữ liệu thuộc
bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở
hạ tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ
thống thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông;
Thu lợi bất chính 1 tỷ đồng trở lên; Gây thiệt hại 1,5 tỷ đồng trở lên; Làm tê liệt,
gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử 168 giờ trở lên hoặc 50 lần trở lên trong thời gian 24 giờ, Làm đình
trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức 168 giờ trở lên thì người phạm tội có thể bị áp
dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
3.2.2.4. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội đưa hoặc sử dụng trái
phép thông tin máy tính, mạng viễn thông
TNHS đặt ra đối với người phạm tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin
máy tính, mạng viễn thông (Điều 288 BLHS) gồm 02 khung hình phạt chính theo
mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là việc thực hiện một trong
các hành vi sau đây, thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu
đồng hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc gây
dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân: Đưa lên mạng
máy tính, mạng viễn thông những thông tin trái với quy định của pháp luật,
95
nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại các Điều 117, 155,
156 và 326 của BLHS; mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc
công khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên
mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông
tin đó; hành vi khác sử dụng trái phép thông tin trên mạng máy tính, mạng
viễn thông. Trong các trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình
phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03
năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo và cũng là mức cao nhất, trong trường hợp phạm
tội có tổ chức; lợi dụng quyền quản trị mạng máy tính, mạng viễn thông; thu lợi
bất chính 200 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; xâm phạm
bí mật cá nhân dẫn đến người bị xâm phạm tự sát; gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc quan hệ đối ngoại của Việt Nam; dẫn đến biểu
tình thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 1
tỷ đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
3.2.2.5. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội xâm nhập trái phép vào
mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác
TNHS đặt ra đối với người phạm tội xâm nhập trái phép vào mạng máy
tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (Điều 289
BLHS) gồm 03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức
độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã
truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương
thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào
chức năng hoạt động của phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm
giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ. Trong các trường hợp này,
người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 300 triệu
96
đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; lợi dụng
chức vụ, quyền hạn; thu lợi bất chính từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng;
gây thiệt hại từ 300 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng; đối với trạm trung chuyển
internet quốc gia, hệ thống cơ sở dữ liệu tên miền và hệ thống máy chủ tên miền
quốc gia; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền
từ 300 triệu đồng đến 1 tỷ đồng hoặc bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí
mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ quốc phòng, an ninh; đối với cơ sở hạ
tầng thông tin quốc gia; hệ thống thông tin điều hành lưới điện quốc gia; hệ thống
thông tin tài chính, ngân hàng; hệ thống thông tin điều khiển giao thông; thu lợi bất
chính 500 triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 1 tỷ đồng trở lên thì người phạm tội có
thể bị áp dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm.
3.2.2.6. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
TNHS đặt ra đối với người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290
BLHS) gồm 04 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức
độ tăng nặng của cấu thành tội phạm (là tội có số lượng khung hình phạt chính
nhiều nhất và cao nhất trong tất cả các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được
quy định trong BLHS năm 2015), cụ thể:
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội là hành vi sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông hoặc phương tiện điện tử thực hiện một trong những hành vi sau
đây, nếu không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 173 và
Điều 174 của BLHS: Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của Cơ
quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc
thanh toán hàng hóa, dịch vụ; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ
ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ thẻ hoặc thanh
toán hàng hóa, dịch vụ; truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; lừa đảo trong thương mại điện tử,
thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc
97
giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; thiết lập, cung cấp
trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản. Trong các
trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng thứ hai, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phạm tội
02 lần trở lên; có tính chất chuyên nghiệp; số lượng thẻ giả từ 50 thẻ đến dưới
200 thẻ; chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; gây
thiệt hại từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng; tái phạm nguy hiểm thì người
phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Ở mức tăng nặng thứ ba, trong trường hợp phạm tội chiếm đoạt tài sản trị
giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; gây thiệt hại từ 300 triệu đồng
đến dưới 500 triệu đồng; số lượng thẻ giả từ 200 thẻ đến dưới 500 thẻ thì người
phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500
triệu đồng trở lên; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; số lượng thẻ giả 500 thẻ
trở lên thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3.2.2.7. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội thu thập, tàng trữ, trao
đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng
TNHS đặt ra đối với người phạm tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán,
công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291 BLHS) gồm
03 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng
của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi thu thập, tàng trữ,
trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng
của người khác với số lượng từ 20 tài khoản đến dưới 50 tài khoản hoặc thu
lợi bất chính từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Trong các trường hợp
này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 100
triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo, trong trường hợp phạm tội thu thập, tàng trữ, trao
98
đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người
khác với số lượng từ 50 tài khoản đến dưới 200 tài khoản; có tổ chức; có tính chất
chuyên nghiệp; thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; tái phạm
nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 100 triệu đồng đến
200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Ở mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua
bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng của người khác
với số lượng 200 tài khoản trở lên; thu lợi bất chính 200 triệu đồng trở lên thì
người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500 triệu
đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS còn thể hiện thông qua hình phạt bổ sung
đối với người phạm tội này đó là: phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng,
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01
năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3.2.2.8. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội sử dụng trái phép tần số
vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn, quốc phòng, an ninh
TNHS đặt ra đối với người phạm tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện
dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc
phòng, an ninh (Điều 293 BLHS) gồm 02 khung hình phạt chính theo mức độ
tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi sử dụng trái phép
tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu
hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh vào mục đích khác gây thiệt hại từ 200 triệu
đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành
vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trong các trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50
triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo và cũng là mức cao nhất, trong trường hợp phạm
tội có tổ chức; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm thì người
phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Đáng chú ý, BLHS năm 2015 không quy định về hình phạt bổ sung đối với
99
người phạm tội này.
3.2.2.9. Quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội cố ý gây nhiễu có hại TNHS đặt ra đối với người phạm tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294 BLHS) gồm 02 khung hình phạt chính theo mức độ tăng dần tương ứng với mức độ tăng nặng của cấu thành tội phạm.
Ở mức cơ bản, dấu hiệu định tội và định khung là hành vi cố ý gây nhiễu có hại, cản trở hoạt động bình thường của hệ thống thông tin vô tuyến điện gây thiệt hại từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong các trường hợp này, người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Ở mức tăng nặng tiếp theo và cũng là mức cao nhất, trong trường hợp phạm tội có tổ chức; gây thiệt hại 500 triệu đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Tương tự như đối với Điều 293, BLHS năm 2015 cũng không quy định về
hình phạt bổ sung đối với người phạm tội cố ý gây nhiễu có hại này.
Tóm lại, qua nghiên cứu TNHS đối với các tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS hiện hành cho thấy, chính sách hình sự thể hiện trong quy định của BLHS cơ bản đã phân hóa rõ nét TNHS, cá thể hóa chi tiết TNHS đối với người phạm tội, thông qua các hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác, cơ bản phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và yêu cầu đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta hiện nay.
3.3. Thực tiễn áp dụng quy định về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam (từ năm 2013 đến 6/2024)
100
Thời gian qua, sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, MVT đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội ở nước ta; song nó cũng làm phát sinh các loại tội phạm trong lĩnh vực này. Hiện nay, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đang tiếp tục gia tăng và có những diễn biến phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Các đối tượng phạm tội thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn, gây ra nhiều khó khăn trong việc phát hiện, xử lý của cơ quan chức năng. Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, từ năm 2013 - 6/2024, cả nước xét xử 884 vụ án, với 1.787 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Bảng 3.1. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT ở nước ta từ năm 2013 đến 6/2024
Số bị cáo
Năm
Chiếm tỷ lệ (%)
Tổng số bị cáo bị xét xử
Chiếm tỷ lệ (%)
2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 6/2024 Tổng
Số vụ án Tổng số vụ án hình sự đưa ra xét xử 67.779 64.321 61.158 60.343 58.312 58.587 62.514 64.086 66.601 69.095 76.454 38.023 747.273
17 47 70 85 63 49 44 42 84 104 175 104 884
0,02 0,7 0,11 0,14 0,11 0,08 0,07 0,07 0,13 0,15 0,23 0,27 1,12
51 135 139 202 118 87 68 76 135 205 374 197 1.787
119.889 115.349 107.241 100.494 95.995 98.508 104.180 110.581 115.605 128.375 142.129 71.537 1.309.883
0,04 0,12 0,13 0,20 0,12 0,09 0,07 0,07 0,12 0,16 0,26 0,27 0,14
(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)
3.3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích
3.3.1.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt
Trong áp dụng TNHS thì áp dụng hình phạt là hình thức nổi bật nhất, là minh
chứng rõ nét cho hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,
MVT phải gánh chịu do việc họ đã thực hiện hành vi phạm tội này, việc phân tích,
làm rõ thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
có tác dụng quan trọng trong việc góp phần hoàn thiện chính sách hình sự để có
những kiến nghị, hoàn thiện PLHS hiện hành.
Kết quả áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT của
các Tòa án trong cả nước còn được thể hiện trong các quy định về tội danh cụ
thể. Trong đó, giai đoạn từ năm 2013 - 2017 và giai đoạn từ năm 2018 - 6/2024
101
cũng có sự khác biệt.
Bảng 3.2. Số lượng vụ án và bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo từng Điều luật giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024
* Giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017 (theo BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
2013
2014
2015
2016
2017
sung năm 2009)): Năm
Vụ
0
0
0
0
0
Điều 224
Bị cáo
0
0
0
0
0
Vụ
0
0
1
1
0
Điều 225
Bị cáo
0
0
1
2
0
Vụ
2
8
12
10
7
Điều 226
Bị cáo
9
21
19
17
10
Vụ
1
1
1
1
5
Điều 226a
Bị cáo
2
2
1
2
16
Vụ
14
38
56
73
51
Điều 226b
Bị cáo
40
112
118
181
92
17
47
Vụ
70
85
63
Tổng
51
135
Bị cáo
139
202
118
(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Toà án nhân dân tối cao) * Giai đoạn từ năm 2018 đến 6/2024 (kể từ khi BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) có hiệu lực):
Năm
2018 2019 2020
2021
2022
2023
6/2024
1
1
Vụ
0
0
Điều 285
2
0
2
2
3
Bị cáo
0
0
8
1
9
Vụ
1
0
Điều 286
0
0
0
0
0
Bị cáo
1
0
0
0
0
0
0
1
1
Vụ
0
0
Điều 287
0
1
1
1
1
Bị cáo
0
0
0
1
1
Vụ
3
4
Điều 288
0
0
1
5
9
Bị cáo
3
6
0
0
1
20
38
5
1
Vụ
1
10
Điều 289
6
7
13
7
1
Bị cáo
1
19
11
14
25
Vụ
64
42
44
48
Điều 290
67
80
109
Bị cáo
104
77
68
95
199
104
140
102
Vụ
1
26
Điều 291
0
0
8
11
41
Bị cáo
1
66
0
0
11
29
102
Vụ
0
0
Điều 293
0
0
0
0
0
Bị cáo
0
0
0
0
0
0
0
Vụ
0
Điều 294
0
0
0
0
0
0
Bị cáo
0
0
0
0
0
0
0
Tổng
Vụ
49
47
53
104
84
104
175
Bị cáo
87
73
100
195
135
205
374
(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Toà án nhân dân tối cao) Qua bảng số liệu này cho thấy một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bị xét xử nhiều là: tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện việc chiếm đoạt tài sản (Điều 226b BLHS năm 1999 và Điều 290 BLHS năm 2015), tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (Điều 226a BLHS năm 1999 và Điều 289 BLHS năm 2015), tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 226 BLHS năm 1999 và Điều 288 BLHS năm 2015). Ngược lại, một số tội phạm dù đã có quy định song chưa được áp dụng hoặc ít khi được áp dụng như: Điều 224 BLHS năm 1999, Điều 286, Điều 291, Điều 293, Điều 294 BLHS năm 2015. Các điều luật còn lại như Điều 225 BLHS năm 1999, Điều 285, Điều 287 BLHS năm 2015 cũng ít khi được áp dụng. a. Áp dụng hình phạt chính Hình phạt tiền: Đây là hình phạt chính, được quy định ở 08/09 tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 88,89%). Theo số liệu thống kê, từ 2013 - 6/2024, số bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp dụng loại hình phạt tiền là hình phạt chính là 103/1.787 bị cáo (chiếm tỷ lệ 5,76%). Trung bình mỗi năm, Tòa án các cấp áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với khoảng 09 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Hình phạt cải tạo không giam giữ: Như đã phân tích ở phần trên, hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định ở 07/09 tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 77,78%). Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2013 - 6/2024, số bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT bị áp dụng loại hình phạt cải tạo không giam giữ so với tổng số bị cáo phạm tội bị xét xử về các tội này là 58/1.787 bị cáo (chiếm tỷ lệ 3,25%). Bình quân mỗi năm, Tòa án các cấp áp dụng hình phạt này đối với khoảng 05 bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Số bị cáo bị áp dụng cải tạo không giam giữ nhiều nhất là về tội sử dụng 103
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290), với 31/58 bị cáo (chiếm 53,45%) và Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288) với 12/58 bị cáo (chiếm 20,69%). Việc quyết định áp dụng loại hình phạt này chiếm tỷ lệ như trên là rất nhỏ so với các loại hình phạt khác trong cùng các loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là vì PLHS quy định chặt chẽ về điều kiện để áp dụng: theo đó, Tòa án chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội (khoản 1, Điều 36, BLHS hiện hành).
Hình phạt tù có thời hạn: Hình phạt này được quy định ở 09/09 tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT (chiếm 100%), với mức phạt tù thấp nhất là 03 tháng và mức phạt tù cao nhất là 20 năm. Thực tiễn xét xử, áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chứng tỏ: hình phạt tù có thời hạn là hình phạt được áp dụng nhiều nhất đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong đó, mức hình phạt từ 03 năm trở xuống chiếm tỷ lệ cao (chiếm 39,89% tổng số bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian từ năm 2013 đến 6/2024). Trong số đó thì có tới 65,84% số bị cáo được cho hưởng án treo. Số bị cáo bị phạt tù từ trên 03 năm đến 07 năm chiếm 24,41%, còn lại, bị cáo bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm là 21,72%, phạt tù từ trên 15 năm đến 20 năm là 2,56%.
Bảng 3.3. Tình hình áp dụng loại hình phạt chính và mức hình phạt chính đối
với bị cáo bị xét xử về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm
2013 đến 6/2024
TT
Hình phạt chính
103
Số bị cáo Bị cáo được hưởng án treo
Tổng số bị cáo được hưởng án treo (tất cả các tội phạm)
Chiếm tỷ lệ (%)
Phạt tiền Cải tạo không giam giữ
1 2
58
Trục xuất
3
0
Tù từ 3 năm trở xuống
370
238.867
0,15
4
562
Tù trên 3 - 7 năm
5
344
Tù từ trên 7 - 15 năm
6
306
7
36
Tù từ trên 15 năm đến 20 năm
Tổng
1.409
104
(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)
Từ số liệu thực tiễn và biểu đồ minh họa nêu trên cho thấy việc xét xử quyết
định cho bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được hưởng án treo còn
chiếm tỷ lệ lớn, trong khi mức hình phạt tù có phần thấp… Điều này cho thấy việc
quyết định áp dụng TNHS đối với tội phạm này chưa thực sự thể hiện được tính
trừng trị nghiêm khắc của Nhà nước trong việc đấu tranh, xử lý tội phạm xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói chung và tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT nói riêng.
b. Áp dụng hình phạt bổ sung
Theo số liệu tổng hợp từ Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao, đặc biệt là
thông qua Báo cáo công tác hằng năm trong giai đoạn 2013 - 6/2024 của ngành Tòa
án cho thấy: có 55 bị cáo bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung (khi không
áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính) trong tổng số 63 bị cáo bị áp dụng hình
phạt bổ sung đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, chiếm tỷ lệ 87,31%.
Con số này cũng cho thấy phạt tiền là hình phạt bổ sung được quyết định áp dụng
tương đối nhiều, đã phần nào phát huy tác dụng, hiệu quả của hình phạt tiền trong
xử lý các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đặc biệt, trong giai đoạn từ năm
2017 - 2020, xu hướng áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung có sự tăng cao, phù
105
hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn đó.
Bảng 3.4. Tình hình áp dụng loại hình phạt bổ sung đối với bị cáo bị xét xử về tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024
TT
Hình phạt bổ sung
Số bị cáo Tổng số bị cáo bị
Tỷ lệ (%)
áp dụng hình
phạt bổ sung
Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
1
63
1,58
1
Phạt tiền
55
63
87,31
2
2
63
3
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
3,17
Trục xuất
5
63
7,94
4
(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)
Qua bảng số liệu và biểu đồ minh họa trên cho thấy, các hình phạt bổ sung
được áp dụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chủ yếu là hình
phạt tiền, còn lại hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định và trục xuất thì
được áp dụng rất ít, lần lượt chỉ chiếm 1,58%, 3,17% và 7,94% trong tổng số bị
cáo bị áp dụng hình phạt bổ sung. Trong đó:
- Đối với hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản: Trên thực tế,
dường như các Tòa án đã quyết định áp dụng hình phạt tiền để góp phần khắc
phục hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra, có tâm lý cho rằng phạt tiền khi
không áp dụng là hình phạt chính sẽ thay thế hình phạt bổ sung là tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản, vừa thể hiện tính răn đe, vừa thể hiện tinh thần nhân
đạo trong quyết định hình phạt của Nhà nước đối với bị cáo phạm tội trong lĩnh
vực CNTT, MVT.
106
- Đối với hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định: Thời gian bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc trong lĩnh vực liên quan đến CNTT, MVT chủ yếu là từ 02 đến 05 năm.
3.3.1.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp và án tích
a. Áp dụng các biện pháp tư pháp
Các biện pháp tư pháp là một trong những hình thức thể hiện của TNHS bên
cạnh hình thức nổi bật là hình phạt. So với hình phạt thì tính chất cưỡng chế về hình
sự của biện pháp tư pháp ít nghiêm khắc hơn. Trên thực tế hiện nay, chưa có thống
kê của cơ quan chức năng về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với các bị cáo
phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Do vậy, việc tiếp cận vấn đề này của
Nghiên cứu sinh rất khó khăn. Trên cơ sở thực hiện phương pháp nghiên cứu
điển hình các bản án của Tòa án nhân dân các cấp đã xét xử về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT trên địa bàn cả nước giai đoạn từ 2013 - 6/2024 (xem phụ
lục 5), rút ra một số kết quả như sau:
- Đối với biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm: Qua
thống kê các bản án điển hình, việc tịch thu tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm
để sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu vật liên quan đến tội phạm để tiêu
hủy chủ yếu được áp dụng đối với tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290
BLHS) với 28/70 vụ, chiếm 40%; còn lại đối với tội “Sử dụng trái phép thông tin
mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS) chiếm tỷ lệ ít hơn (03/70
vụ, chiếm 4,29%) và tội “Mua bán phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp
luật” (Điều 285 BLHS) chỉ có 01/70 vụ (chiếm 1,43%).
- Đối với biện pháp trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc
công khai xin lỗi: Qua nghiên cứu có 13/70 vụ án có áp dụng biện pháp tư pháp
bồi thường thiệt hại (chiếm 18,57%), chủ yếu đối với tội “Sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”
(Điều 290 BLHS) và “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông” (Điều 288 BLHS). Bên cạnh đó, trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại
về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai
xin lỗi người bị hại. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít khi áp dụng biện pháp buộc công
khai xin lỗi. Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh, cần bắt buộc người phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT phải công khai xin lỗi không những trước cơ quan, tổ
chức, cá nhân bị thiệt hại mà còn trước Nhà nước và pháp luật.
107
Qua nghiên cứu các bản án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có áp
dụng các biện pháp tư pháp nêu trên, chưa thấy có tồn tại lớn trong quá trình áp
dụng. Nhưng qua thực tiễn cũng phản ánh việc áp dụng các biện pháp tư pháp
nhằm mục đích hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt áp dụng đối với người phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT chưa thực sự được chú trọng, vẫn có tư tưởng nặng
về áp dụng hình phạt, do vậy chưa phát huy tính hiệu quả trong thực tế xử lý tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
b. Áp dụng án tích
Án tích là một trong những hậu quả pháp lý bất lợi mà người bị kết án về
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải gánh chịu do việc người đó đã phạm
tội này và bị kết án. Như phần trên đã phân tích, đây cũng là hậu quả pháp lý sau
cùng của việc phạm tội. Hiện nay, chưa có thống kê chính thức về thực tiễn áp
dụng án tích và xóa án tích đối với người bị kết án về các tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT trên cả nước. Tuy nhiên, qua trao đổi thực tiễn, việc áp dụng
quy định về án tích đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT dường như
chưa có vấn đề vướng mắc, bất cập lớn. Theo đó, người bị kết án về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT được xóa án tích theo quy định tại các điều 69, 70,
72 và 73 của BLHS hiện hành. Khi đã được xóa án tích thì người đó coi như
chưa bị kết án.
3.3.2. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
3.3.2.1. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự
Trong thời gian qua, có thể khẳng định việc áp dụng TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta cơ bản là đúng đắn so với quy định của
PLHS. Tòa án các cấp đã xem xét, đánh giá, cân nhắc cụ thể tính chất, mức độ của
tội phạm, nhân thân người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án để quyết định
thực hiện TNHS phù hợp với người phạm tội. Các bản án, quyết định của Tòa án đã
tuyên nhìn chung là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo các nguyên tắc
của TNHS đối với tội phạm này.
Quá trình xem xét, quyết định áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và các biện
pháp tác động hình sự khác đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT, Tòa
án luôn chú trọng việc khắc phục thiệt hại do tội phạm gây ra, bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Đồng thời chú trọng
việc giáo dục người phạm tội nhận thức sai lầm, ăn năn hối cải và cải tạo để trở thành
108
đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
người có ích cho xã hội, thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của nước ta. Việc quy
định và đảm bảo áp dụng tốt các quy định của PLHS về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền
con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong đó có cả
quyền và lợi ích của chính người phạm tội này, góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, đẩy mạnh công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm nói chung, phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT nói riêng vốn đang có sự diễn biến hết sức phức tạp như hiện nay. Đồng thời
tạo được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận, củng cố niềm tin của Nhân dân vào công lý, công bằng, kỷ cương và sự phát triển trong xã hội.
3.3.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT trong thời gian qua (từ năm 2013 đến 6/2024), bên cạnh những kết
quả tích cực đã đạt được, có thể thấy còn có những hạn chế trong áp dụng như sau:
Một là, còn xảy ra tình trạng nhầm lẫn về định tội danh khi xét xử đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT với các loại tội phạm “truyền thống”
rất dễ bị nhầm lẫn với nhau nếu không nghiên cứu, đánh giá và phân biệt rạch
ròi, nhất là đối với dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của cấu thành tội
phạm. Trong đó, nổi bật phải kể đến là việc nhầm lẫn giữa tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
(Điều 290) với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174) hoặc tội trộm cắp tài
sản (Điều 173) của BLHS năm 2015.
Ví dụ: Trần Hoàng N và Ngải Seo Ng là bạn làm chung tại Công ty K.Bang
Việt Nam. Quá trình làm việc, cả hai ở lại Công ty theo hình thức “ba tại chỗ”, N
nhiều lần được Ng nhờ cài đặt các ứng dụng trên điện thoại của Ng. Từ đó, N đã
biết được mật khẩu điện thoại của Ng và biết Ng có nhiều tiền trong tài khoản
ngân hàng nên nảy sinh và đã thực hiện ý định chiếm đoạt tiền tiêu xài của Ng. Cụ
thể: Ngày 18/10/2021, Ng đưa điện thoại cho N để khai báo y tế hộ. N lấy điện
thoại mở máy rồi vào ứng dụng ví điện tử MoMo sau đó nhập mật khẩu của ứng
dụng (mật khẩu này do N nhìn thấy Ng đã từng nhập trước đó) rồi chuyển tiền từ
tài khoản của Ng vào số tài khoản 15716207 mang tên “TRAN PHU S” số tiền 5
triệu đồng. N đã ngay lập tức xóa tin nhắn báo số dư còn lại trong tài khoản của
Ng và nói với Ng là không khai báo y tế được. Đến ngày 20/10/2021, N mượn 109
điện thoại của Ng và tiếp tục sử dụng để chuyển tiền như lần trước vào số tài
khoản 1014415654 mang tên “HOANG VAN T” số tiền 19 triệu đồng. Sau đó, N
thực hiện rút tiền từ 02 tài khoản này chuyển về tài khoản của N để chiếm đoạt số
tiền 24 triệu đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 89/2022/HS-ST ngày 08/9/2022 của Tòa án
nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định: “bị cáo đã lén lút lấy tài
sản của người khác” và “hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản của công dân” nên định tội của bị cáo N là “Trộm cắp tài sản” (Điều 173
BLHS). Sau đó, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã kháng nghị phúc
thẩm đối với một phần bản án hình sự sơ thẩm nêu trên. Tại bản án hình sự phúc
thẩm số 05/2023/HS-PT ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
nhận định: bị cáo đã thực hiện hành vi “truy cập bất hợp pháp vào tài khoản cá
nhân (tài khoản ví điện tử) của bị hại” và hành vi “chiếm đoạt 24 triệu đồng của
bị hại”. 02 hành vi này tác động đến hai đối tượng tác động khác nhau là tài khoản
cá nhân và tiền; xâm phạm cùng lúc đến 02 khách thể, đó là: an toàn thông tin tài
khoản cá nhân và quyền sở hữu tài sản nên xác định tội danh của N là “Sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS).
Hay như một ví dụ khác: Từ tháng 6/2020, trên mạng xã hội, Hoàng Hữu A,
sinh năm 1996, trú tại xã T, huyện P, tỉnh T sử dụng tài khoản facebook có tên
“Quậy Harold”, vào các nhóm của cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, lao
động tại nước ngoài, gửi lời kết bạn đến các thành viên trong nhóm. Sau khi kết
bạn, A vào trang cá nhân của họ tìm kiếm thông tin cá nhân (họ tên, ngày, tháng,
năm sinh) để dò tìm mật khẩu. Khi tìm được mật khẩu, A thay đổi mật khẩu và
chiếm đoạt quyền sử dụng các tài khoản facebook này, đồng thời vào danh sách
bạn bè của họ, xem nội dung, lịch sử tin nhắn trong mục Messenger để mạo danh
nhắn tin đề nghị họ chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của mình, với lý do cần
tiền để giải quyết công việc hoặc các lý do khẩn cấp khác, rồi chiếm đoạt. A đã
chiếm đoạt được tài khoản facebook “Van H Nguyen” của anh Nguyễn Văn H, là
người tỉnh B, đang làm việc tại Đức. A đã sử dụng tài khoản facebook này, mạo
danh anh H, nhắn tin bằng ứng dụng Messenger cho tài khoản “H Nước” của anh
Lê Thanh H (sinh năm 1974, trú tại phường Đ, thành phố H) và tài khoản
facebook “Nguyễn Thị D” của chị Nguyễn Thị D (sinh năm 1971, trú tại huyện Q,
110
tỉnh B), đề nghị anh H và chị D chuyển tiền sau đó chiếm đoạt. Tổng số tiền A đã
chiếm đoạt là 109,5 triệu đồng, trong đó của chị Nguyễn Thị D là 37,5 triệu đồng
và của anh Lê Thanh H là 72 triệu đồng.
Trong vụ án này, Hoàng Hữu A bị xét xử về “Tội sử dụng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, theo điểm
đ khoản 2 Điều 290 BLHS hiện hành. Về vụ án này, Nghiên cứu sinh nhận thấy
một số vấn đề về định tội danh như sau:
Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các công cụ phạm tội như sử dụng máy
tính, mạng viễn thông, mạng internet và thiết bị số theo quy định tại Điều 290
BLHS năm 2015 thể hiện ở một số dạng sau: (1) Sử dụng thông tin về tài khoản,
thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt tài sản của chủ tài
khoản, chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; (2) Làm, tàng trữ, mua bán, sử
dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ tài khoản, chủ
thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ; (3) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản
của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản; (4) Lừa đảo trong thương
mại điện tử, thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa
cấp hoặc giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản; (5) Thiết
lập, cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản.
Do đó, nếu một hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm không
thuộc một trong các hành vi trên thì không thể xét xử người đó về “Tội sử dụng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản” theo Điều 290 BLHS hiện hành được. Trong vụ án này, dấu hiệu thuộc hành
vi khách quan của các bị cáo bị xét xử về “Tội sử dụng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” là không thỏa
mãn bất cứ hành vi nào trong 05 loại hành vi khách quan theo quy định tại Điều
290 BLHS nêu trên. Ở đây, hành vi tìm được, lấy được mật khẩu để chiếm đoạt tài
khoản facebook của người khác, sau đó tiếp tục lừa đảo chiếm đoạt tài sản của
người thân quen của những người có tài khoản facebook bị chiếm đoạt không phải
là hành vi được quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 290 BLHS hiện hành.
Thực chất ở đây đã có sự nhầm lẫn, cụ thể thuật ngữ “tài khoản” quy định tại Điều
290 BLHS năm 2015 là nói đến tài khoản về tiền được đăng ký ở các tổ chức tín
dụng, nghĩa là khi xảy ra việc sử dụng thông tin về tài khoản, truy cập bất hợp
pháp vào tài khoản là ngay sau đó có thể chiếm đoạt được tiền, tài sản; còn “tài
khoản facebook” không liên quan gì đến tiền, tài sản. Việc chiếm đoạt được tài
111
khoản facebook của người khác thực chất chỉ là việc có được mật khẩu facebook
của họ, nên có được những thông tin và đăng được những thông tin trên đó, đồng
thời, thay đổi mật khẩu để người chủ tài khoản facebook ban đầu không vào được
facebook của họ nữa. Việc chiếm đoạt facebook không liên quan gì đến việc chiếm
đoạt tiền, tài sản. Muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác, người chiếm đoạt tài
khoản facebook phải có thêm hành vi khác, đó là: giả danh người chủ tài khoản
facebook để liên hệ với bạn bè, người thân của họ, từ đó yêu cầu những người này
chuyển tiền vào một tài khoản ngân hàng nào đó mà người đã chiếm đoạt tài khoản
facebook đang quản lý để chiếm đoạt khi tiền được chuyển đến. Như vậy, hành vi
chiếm đoạt tài khoản facebook, sau đó lừa những người thân quen của những người
có tài khoản facebook bị chiếm đoạt để chiếm đoạt tài sản của họ cũng không phải là
hành vi được quy định tại 03 điểm còn lại là: b, d, đ khoản 1 Điều 290 BLHS hiện
hành. Theo đó, việc xét xử các bị cáo trong vụ án này về “Tội sử dụng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”, theo
Điều 290 BLHS năm 2015 là không thỏa đáng [52]. Theo Nghiên cứu sinh, trường
hợp vụ án này, Tòa án phải xét xử các bị cáo về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
(Điều 174 BLHS năm 2015).
Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy các cơ quan chức năng còn gặp khó khăn
trong việc phân hóa tội phạm, xác định tội danh giữa Điều 285, Điều 286 BLHS
hiện hành. Trong đó, Điều 285 quy định: "Người nào sản xuất, mua bán, trao đổi
hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử…" và Điều 286 BLHS quy định: "Người nào
cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử…". Với quy định tại 02 điều luật trên, chúng ta nhận thấy:
Đầu tiên, xem xét về mặt khái niệm: "Phát tán" là hành vi truyền đi các
thông tin, tài liệu, đồ vật, hình ảnh, âm thanh… bằng các hình thức khác nhau
cho nhiều người biết. Như vậy, với quy định "sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc
tặng cho" cũng là một phương thức để phát tán. Nhưng điểm khác biệt ở hai điều
luật này là: Hành vi quy định tại Điều 285 có thể gây hại hoặc không gây hại cho
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử và dấu hiệu mục đích của
hành vi là dấu hiệu bắt buộc để cấu thành tội phạm, còn hành vi quy định tại
Điều 286 phải gây nguy hại cho mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thì mới đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Tiếp theo, xem xét quy định về "Chương trình tin học" và "Phần mềm":
112
"Chương trình tin học" là một chuỗi các lệnh, được viết để thực hiện một nhiệm
vụ nhất định trên máy tính. "Phần mềm" là chương trình máy tính được mô tả
bằng hệ thống ký hiệu, mã hoặc ngôn ngữ để điều khiển thiết bị số thực hiện
chức năng nhất định. Điều này trái ngược với phần cứng vật lý, từ đó hệ thống
được xây dựng và thực sự thực hiện công việc. Trong khoa học máy tính và kỹ
thuật phần mềm, phần mềm máy tính là tất cả thông tin được xử lý bởi hệ thống
máy tính, chương trình và dữ liệu. Phần mềm máy tính bao gồm các chương
trình máy tính, thư viện và dữ liệu không thể thực thi liên quan, chẳng hạn như
tài liệu trực tuyến hoặc phương tiện kỹ thuật số.
Như vậy, một phần mềm cần phải có một hoặc nhiều chương trình tin học, có
nghĩa là, phần mềm sẽ chứa đựng chương trình tin học. Trên thực tế rất khó xác
định đâu là phần mềm và đâu là chương trình tin học một cách đơn thuần mà cần
phải có chuyên gia xem xét, đánh giá. Bởi lẽ, một hành vi phạm tội nếu phát tán
(bao hàm cả việc sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho) chương trình tin học
chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại Điều 286 BLHS vì không gây hại
(như đã phân tích trên) nhưng thỏa mãn các quy định tại Điều 285 BLHS thì có truy
tố theo tội danh này không vì Điều 285 BLHS quy định là "…phần mềm…".
Hơn nữa, nếu hành vi phát tán có đủ yếu tố cấu thành tội phạm quy định tại
Điều 286 BLHS, nhưng điều luật này quy định hậu quả là yếu tố bắt buộc, còn
Điều 285 BLHS thì hậu quả là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự,
trong khi đó mức hình phạt ở hai tội danh này khác nhau. Vậy một hành vi vừa
thỏa mãn cấu thành tội phạm theo Điều 286, vừa thỏa mãn cấu thành tội phạm và
tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 Điều 285 thì áp dụng điều luật nào để
xử lý là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi và khó xác định.
Ví dụ: Nguyễn Văn A có hành vi rao bán chương trình theo dõi tin nhắn
trên mạng xã hội, đánh cắp dữ liệu, thông tin, thay đổi cài đặt máy tính, chiếm
đoạt điều khiển của đối phương khi đã cài đặt chương trình này vào máy và máy
tính có kết nối internet. Sau một thời gian rao bán và giao dịch, khi phát hiện A
đã thu lợi bất chính từ hành vi này là 50 triệu đồng. Như vậy, hành vi của A thỏa
mãn quy định tại Điều 286 BLHS, nhưng khi đánh giá, các chuyên gia cho rằng,
chương trình tin học mà A phát tán là một phần mềm, mà phần mềm đó có tính
năng tấn công máy tính đối phương khi đã cài đặt, vậy hành vi A thỏa mãn cấu
thành quy định tại khoản 2 Điều 285 BLHS. Điều này cũng còn gây tranh cãi
113
chưa thống nhất.
Hai là, việc Tòa án quyết định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT còn chưa đúng, chưa thống nhất
Trong quá trình xét xử vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, Tòa
án một số nơi đã có sự nhầm lẫn và chưa thống nhất về việc áp dụng hình phạt
đối với tội phạm này, nhất là đối với các căn cứ quyết định hình phạt và quyết
định hình phạt cụ thể, đó là:
- Đối với tình tiết “Phạm tội nhiều lần” (theo BLHS năm 1999) hoặc “phạm
tội từ 02 lần trở lên” (theo BLHS năm 2015). Qua các bản án Nghiên cứu sinh đã
nghiên cứu cho thấy còn một số bản án áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm
tội nhiều lần” hoặc “phạm tội từ 02 lần trở lên” không đúng pháp luật. Có vụ án
người phạm tội đã thực hiện tội phạm rất nhiều lần trong thời gian dài, đối với
nhiều nạn nhân khác nhau nhưng Tòa án nhân dân lại không áp dụng tình tiết
tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần”. Ví dụ: từ tháng 12/2012 đến tháng
4/2015, Đ đã bán phần mềm theo dõi điện thoại cho khách hàng, đồng thời hỗ trợ
cài đặt phần mềm đó vào điện thoại của khách hàng, với tổng số 87 lượt khách
hàng mua và cài đặt phần mềm. Nhưng bản án số 361/2017/HS-PT ngày
20/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn không
áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần” này là không đúng pháp
luật. Trong khi có nhiều bản án đã áp dụng đúng pháp luật đối với tình tiết này.
Ví dụ: P là nhân viên của Công ty Bảo Nam, do bị cho nghỉ việc nên P cảm thấy
rất bực, P đã nhiều lần xâm nhập vào trang mạng của công ty để phá hoại gây
thiệt hại cho công ty gần 09 triệu đồng. Hành vi của P đã bị Tòa án nhân dân
huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh kết án phạm tội truy cập bất hợp pháp
vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của người
khác (Điều 226a BLHS năm 1999) và áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS là
“phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS năm 1999 [44].
- Đối với tình tiết giảm nhẹ TNHS “phạm tội lần đầu” thuộc khoản 2 Điều
46 BLHS năm 1999 cũng có bản án áp dụng sai. Ví dụ: Bị cáo phạm tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản (Điều 226b) 04 lần với 04 nạn nhân khác nhau vào ngày 08/9/2016,
29/9/2016, 03/10/2016 và đầu tháng 10/2016. Tuy nhiên, trong bản án số
26/2017/HSST ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh,
Tòa án đã nhận định “bị cáo phạm tội lần đầu,... đây không phải là tình tiết
114
giảm nhẹ nhưng cũng cần thiết xem xét khi lượng hình phù hợp với quy định
của khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999”. Việc nhận định và áp dụng tình tiết
“phạm tội lần đầu” trong trường hợp này theo Nghiên cứu sinh là không đúng.
Bởi lẽ, bị cáo đã 04 lần phạm tội này với 04 nạn nhân khác nhau vào các mốc
thời gian nêu trên (hành vi phạm tội lặp đi lặp lại tương tự). Điều đó đã được giải
thích tại Văn bản giải đáp nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017
của Tòa án nhân dân tối cao: Nếu trước đó đã phạm tội và chưa bị kết án, chưa
hết thời hiệu truy cứu TNHS, nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau
thì không được coi là phạm tội lần đầu [44].
- Một số bản án áp dụng Điều 47 (Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định
của BLHS) không đúng, do không áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội
nhiều lần” hoặc “phạm tội từ 02 lần trở lên”, đồng thời lại áp dụng sai tình tiết
giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 48 BLHS năm 1999. Ví dụ: Tại bản án số
361/2017/HS-PT ngày 20/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ
Chí Minh, bị cáo Đ có hành vi bán phần mềm theo dõi điện thoại cho khách
hàng, đồng thời hỗ trợ cài đặt phần mềm đó vào điện thoại của khách hàng trong
suốt thời gian từ tháng 12/2012 đến tháng 4/2015, với tổng cộng 87 lượt khách
hàng mua và cài đặt phần mềm. Bị cáo bị kết tội “Truy cập bất hợp pháp vào
mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của người
khác”, áp dụng điểm c khoản 3 Điều 226a; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47
của BLHS năm 1999. Như vậy, vì có 02 tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết
tăng nặng TNHS nên Hội đồng xét xử đã áp dụng Điều 47 của BLHS năm 1999.
Tuy nhiên, bản án đã có phần sai sót khi không áp dụng tình tiết tăng nặng
TNHS là “phạm tội nhiều lần” (87 lượt khách hàng đã mua và cài đặt phần
mềm), dẫn đến áp dụng Điều 47 BLHS năm 1999 là không phù hợp. Vì nếu có
02 tình tiết giảm nhẹ TNHS và 01 tình tiết tăng nặng TNHS thì sẽ không thể áp
dụng Điều 47 BLHS năm 1999 [44].
Bên cạnh đó, còn trường hợp áp dụng không đúng tinh thần của Điều 47
BLHS năm 1999, cụ thể: Theo điểm c khoản 10 Nghị quyết số 01/2000/NQ-
HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng một số quy định phần chung BLHS năm 1999, những trường hợp
nếu không có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì bị cáo bị xử phạt ở mức cao của khung
hình phạt, thì (khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ) Tòa án nhân dân có thể quyết định
một hình phạt ở mức thấp của khung hình phạt mà bị cáo bị xét xử, không thể áp
115
dụng hình phạt ở dưới khung. Nhưng một số bản án đã không áp dụng đúng tinh
thần này. Ví dụ: Trong bản án số 41/2017/HSST ngày 27/12/2017 của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Trị, bị cáo D phạm tội “sử dụng mạng internet thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản” 03 lần với 03 nạn nhân khác nhau, tổng giá trị tài sản
mà D chiếm đoạt được là 274 triệu đồng. D bị Tòa án quyết định áp dụng điểm a
khoản 3 Điều 226b BLHS năm 1999, với khung hình phạt từ 7 đến 15 năm đối
với trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đến dưới 500 triệu. Bị
cáo D có 2 tình tiết giảm nhẹ và 01 tình tiết tăng nặng TNHS nhưng Tòa án vẫn
áp dụng Điều 47 để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt là 03 năm tù. Việc áp dụng Điều 47 trong trường hợp này là không phù hợp
vì D tuy có 02 tình tiết giảm nhẹ nhưng lại có 01 tình tiết tăng nặng TNHS
(phạm tội nhiều lần, với nhiều nạn nhân khác nhau). Ngoài ra, số tiền mà D
chiếm đoạt được là 274 triệu đồng, đây là con số ở mức cao của khung hình phạt
tại điểm a khoản 3 Điều 226b BLHS năm 1999 [44].
Ba là, còn hạn chế trong việc phân hóa TNHS và cá thể hóa hình phạt đối
với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT ở những vụ án đồng phạm
Quá trình khi áp dụng TNHS đối với người phạm tội nói chung, người
phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng ở những vụ án có đồng phạm,
Tòa án cần làm tốt việc phân hóa TNHS, quyết định hình phạt đối với từng loại
người cho phù hợp, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi, vai trò và mức độ tham gia phạm tội của từng bị cáo, nhân thân và các tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với từng bị cáo. Song trên thực tế, có những
vụ việc, Tòa án khi xét xử đã chưa thực hiện tốt việc này. Ví dụ: Tòa án cấp sơ
thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Quốc V, Vũ Ngọc T về tội “Sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
sản” (điểm a khoản 4 Điều 290 BLHS năm 2015). Đây là vụ án đồng phạm,
trong đó bị cáo Nguyễn Quốc V đóng vai trò chính, là người khởi xướng kế
hoạch chiếm đoạt tiền của ngân hàng. Trong khi bị cáo Vũ Ngọc T chỉ là người
bị V rủ rê, lôi kéo, sau khi V và T đã thống nhất được phương thức chiếm đoạt
tài sản, để tránh bị phát hiện. Ở đây, T chỉ tham gia giúp sức cho V thực hiện tội
phạm và việc rút tiền chỉ được thực hiện sau khi tội phạm đã hoàn thành và theo
yêu cầu của V. Bị cáo T chỉ được hưởng lợi một số tiền nhỏ trong tổng số tiền
mà V chiếm đoạt được (619,5 triệu đồng/44 tỷ 423 triệu đồng). Tòa án đã xử
phạt 02 bị cáo này mức án như nhau là 07 năm tù. Cho đến khi T kháng cáo, Tòa
116
án cấp phúc thẩm đã phải nhận định: Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo
Vũ Ngọc T là có phần nghiêm khắc, chưa cá thể hóa hình phạt và chưa phân hóa
vai trò chủ mưu, cầm đầu và vai trò đồng phạm giúp sức của các bị cáo trong
cùng vụ án. Từ đó quyết định giảm mức án phạt đối với Vũ Ngọc T còn 05 năm
tù về tội danh nêu trên (Bản án số 253/HS-PT ngày 21/6/2021 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội).
Bốn là, chưa có sự đồng bộ trong việc quyết định cho người phạm tội trong
lĩnh vực CNTT, MVT được hưởng án treo
Trong giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024, quá trình xét xử, Tòa án nhân dân
các cấp đã cho các bị cáo phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được hưởng án treo
nhiều, chiếm tới hơn 20,71% tổng số bị cáo bị đưa ra xét xử về tội phạm này. Điều
đáng nói là việc áp dụng cho hưởng án treo lại không thống nhất: có trường hợp tội
nặng lại cho hưởng án treo, ngược lại có trường hợp tội nhẹ vẫn phải chấp hành án
phạt tù. Trường hợp phạm tội nặng song vẫn được hưởng án treo, đó là: bị cáo D
phạm tội “sử dụng mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” chiếm đoạt
274 triệu của 03 người khác nhau, bị áp dụng điểm a khoản 3 Điều 226b BLHS
năm 1999, bị phạt 03 năm tù và cho hưởng án treo (Bản án số 41/2017/HSST ngày
27/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị). Trong khi đó, bị cáo H cũng
phạm tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt” của 01 nạn nhân, với số tiền chỉ có 2,2 triệu đồng, bị áp dụng
khoản 1 Điều 290 BLHS năm 2015 (điều khoản có lợi cho người phạm tội của
BLHS hiện hành so với khoản 1 Điều 226b BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm
2009)), bị cáo H có 03 tình tiết giảm nhẹ, đặc biệt là không có tình tiết tăng nặng
TNHS nào song cũng bị phạt tù giam 6 tháng, không được hưởng án treo (Bản án
số 59/2017/HSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh
Vĩnh Phúc) [44].
Năm là, việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT,
MVT còn nhẹ, chưa áp dụng nhiều hình phạt bổ sung
Qua nghiên cứu các bản án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian
qua cho thấy: Tòa án nhân dân chủ yếu áp dụng các hình phạt được quy định tại
khoản 1, khoản 2 của các Điều luật về tội phạm này trong BLHS, với hình phạt chủ
yếu được áp dụng như đã phân tích thực trạng số liệu nêu ở phần trên, mà mức phạt
cao nhất đối với bị cáo theo khoản 2 trong các tội phạm này là không quá 07 năm
tù. Theo quan điểm của Nghiên cứu sinh thì mức hình phạt như vậy khá là nhẹ,
117
chưa tương xứng với tính chất, mức độ thiệt hại và những diễn biến phức tạp, nhức
nhối mà loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã và đang gây ra cho xã hội.
Bên cạnh đó, hình phạt bổ sung cũng ít được Tòa án áp dụng, làm cho hình phạt bổ
sung chưa phát huy được ý nghĩa, mục đích của nó. Trong các hình phạt bổ sung,
thì hình phạt tiền ít được áp dụng (vì hình phạt tiền thường được áp dụng là hình
phạt chính). BLHS năm 2015 quy định nhiều loại hình phạt bổ sung đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhất là hình phạt tiền và tịch thu một phần hoặc
toàn bộ tài sản. Song hình phạt tịch thu tài sản dường như chưa được Tòa án áp
dụng [44]. Theo thống kê cho thấy chỉ có 103/1.787 bị cáo (chiếm 5,76%) bị áp
dụng hình phạt tiền là hình phạt chính và 55/1.787 bị cáo (chiếm 3,08%) bị áp dụng
hình phạt tiền là hình phạt bổ sung khi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tìm
hiểu nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý của các cán bộ cơ quan chức năng ngại tiến
hành việc điều tra, xác minh điều kiện sinh sống, tình trạng kinh tế của bị cáo, dẫn
đến thiếu cơ sở để áp dụng hình phạt bổ sung, nhất là tịch thu tài sản, trong khi Điều
45, BLHS năm 2015 quy định: “Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết
án và gia đình họ có điều kiện sinh sống”.
Sáu là, khi áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn
nhiều trường hợp chứa đựng mâu thuẫn với những quan điểm khác nhau
Trong quá trình tố tụng đối với vụ án phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT,
thực tế giữa Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án còn có quan điểm khác
nhau trong nhiều trường hợp, dẫn đến việc áp dụng TNHS đối với tội phạm này
chưa thống nhất, đồng bộ. Thực trạng được thể hiện thông qua số vụ án mà Tòa
án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung. Theo kết quả thống kê, tỷ lệ
này luôn trong khoảng từ 15% - 20% số vụ án thụ lý về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT (tương đối cao so với các vụ án khác). Tỷ lệ Tòa án trả hồ sơ cho
Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung khi thụ lý các vụ án về tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT gấp 2,0 đến 2,2 lần các vụ án khác. Nhưng điều đáng nói là có
những vụ án khi Tòa án trả hồ sơ cho Viện Kiểm sát để điều tra bổ sung nhưng
Viện Kiểm sát lại không nhất trí [44]. Điều đó chứng tỏ quan điểm giải quyết
của các cơ quan tiến hành tố tụng về những trường hợp chung còn chưa thống
nhất, xuất hiện những ý kiến trái chiều nhau.
Ví dụ điển hình như: Trong vụ án Sa Thị H đưa lên mạng các nội dung mang
tính bịa đặt, xúc phạm danh dự, uy tín của tập thể, cá nhân các đồng chí lãnh đạo
huyện Hồng N, tỉnh Đồng Tháp ngày 24/7/2021 và 26/7/2021. Xoay quanh việc tổ
118
quản lý đất công của chính quyền địa phương đến kiểm tra, đo đạc phần đất bãi bồi
bị bao chiếm, Sa Thị H đã dùng điện thoại livestream (phát trực tiếp) trên mạng xã
hội và có nhiều lời nói bịa đặt, sai sự thật, xúc phạm danh dự của các tập thể, cá
nhân liên quan (Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hồng N, các thành viên
trong tổ công tác...). Sa Thị H bị truy cứu TNHS về tội “Đưa trái phép thông tin
mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015).
Ở vụ việc khác có tính chất tương tự, đó là vụ án Hoàng Thị S đã đăng tải
các bài viết, video lên Facebook, Youtube với lời lẽ xuyên tạc, phát ngôn không
đúng sự thật, xâm phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của một số cán bộ huyện H,
lý do Hoàng Thị S không đồng tình với kết quả trả lời, giải quyết đơn thư của
các cơ quan, người có thẩm quyền huyện H với nội dung phản ánh của mình xảy
ra ngày 06/02/2023. Trong vụ án này, Tòa án cho rằng bị cáo đã thực hiện hành
vi “đăng tải, phát tán trên mạng xã hội những bài viết không đúng sự thật, có nội
dung tiêu cực, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân” và đã xét xử Hoàng Thị S về tội “Lợi dụng các quyền tự
do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân” (Điều 331 BLHS năm 2015).
Qua hai vụ án trên cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng đã có quan điểm
khác nhau về cùng một hành vi, liên quan đến xác định khách thể và đối tượng tác
động của tội phạm, dẫn đến việc định tội danh, áp dụng TNHS không thống nhất.
Bảy là, quá trình áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội trong
lĩnh vực CNTT, MVT còn kém hiệu quả trong việc tịch thu tiền liên quan trực
tiếp đến tội phạm
Căn cứ quy định tại Điều 46, Điều 47 BLHS năm 2015, quá trình xét xử vụ án
về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đặc biệt là xét xử các tội phạm “Sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt
tài sản” (Điều 290 BLHS) trong thời gian qua, Tòa án đã quyết định áp dụng biện
pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhằm hỗ trợ đạt được mục
đích của TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên, trên thực
tế, việc tịch thu tiền liên quan đến tội phạm nhiều lúc chưa đạt được hiệu quả, số
lượng tịch thu chưa đáng kể so với hậu quả, thiệt hại do tội phạm gây ra. Điều này
xuất phát từ đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT bởi hành vi phạm tội
thường diễn ra trên không gian mạng, số tiền bị chiếm đoạt thường là tiền ảo, dưới
dạng tài khoản số, lượng tiền bị chiếm đoạt được các đối tượng “chia nhỏ”, chuyển
119
vào nhiều tài khoản khác nhau, nhất là các tài khoản ở nước ngoài, dẫn đến khó tịch
thu triệt để, toàn bộ số tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm nhằm khắc phục hậu
quả của tội phạm.
Tám là, quá trình áp dụng quy định về xóa án tích có lúc còn vướng mắc, bất
cập về trường hợp đương nhiên xóa án tích và khó khăn trong việc xác minh, cấp lý
lịch tư pháp xác nhận xóa án tích
Như phần thực trạng áp dụng án tích nêu trên, Nghiên cứu sinh đã chỉ rõ: Hiện
tại chưa có thống kê của cơ quan chức năng về việc áp dụng án tích đối với người bị
kết án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên, trong thực tế quá trình
áp dụng quy định về xóa án tích đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cơ
quan tiến hành tố tụng cũng gặp phải một số khó khăn trong việc thực hiện quy định
về trường hợp đương nhiên xóa án tích và khó khăn trong việc xác minh lý lịch tư
pháp và cấp giấy chứng nhận xóa án tích đối với người bị kết án về tội phạm này.
Trước hết, về trường hợp đương nhiên xóa án tích: Người được đương nhiên
xóa án tích sẽ không phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi từ bản án kết tội đã
được xóa trước đây trong trường hợp họ thực hiện tội phạm mới. Theo đó, họ sẽ
không bị coi là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
cho họ hòa nhập với xã hội, cộng đồng một cách tích cực. Điểm vướng mắc, bất cập
trên thực tiễn là khi người chấp hành án đã chấp hành xong hình phạt chính hoặc
hết thời gian thử thách án treo, đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích (căn
cứ Điều 70 BLHS) song họ chưa thi hành hình phạt bổ sung và nộp tiền án phí hình
sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án. Nguyên nhân là do không nhận được
thông báo và quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự, thì họ vẫn bị
xác định là chưa hết án tích (áp dụng theo Mục 7 Công văn số 64/TANDTC-PC
ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao về thông báo kết quả giải đáp trực
tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính đã hướng dẫn:
“Điều 70 của BLHS quy định về các điều kiện đương nhiên được xóa án tích,
trong đó có điều kiện: Người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong hình phạt
chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong
hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, BLHS không quy
định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp hành xong hình phạt bổ
sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Hơn nữa, pháp luật
thi hành án dân sự quy định nhiều phương thức thi hành để người phải thi hành
án có quyền lựa chọn như: Tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án hoặc nhờ
120
thân nhân nộp thay. Do vậy, trường hợp người bị kết án (sau này là bị can, bị
cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và quyết định thi hành án
của cơ quan Thi hành án dân sự nên chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp
tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án là chưa chấp
hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trong trường
hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại
Điều 70 của BLHS”.
Ngược lại, trong trường hợp khác, cơ quan chức năng áp dụng theo hướng
có lợi cho người bị kết án (thực hiện theo Mục 7 Công văn số 4632/VKSTC-V7
ngày 30/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc trả lời thỉnh thị
hướng dẫn: “… Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể trường hợp đã hết
thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự có được coi là “đã chấp hành xong” các
quyết định khác của bản án hình sự hay không hoặc có được coi là đủ điều kiện
để đương nhiên xóa án tích theo Điều 70 BLHS hay không. Tuy nhiên, theo quy
định tại Điều 70 BLHS, đương nhiên được xóa án tích không chỉ áp dụng đối với
người bị kết án mà còn áp dụng trong trường hợp hết thời hiệu thi hành bản án.
Do đó, trường hợp này đã hết thời hiệu để thi hành nên xử lý theo hướng có lợi
cho bị án cần được coi là không có tiền án”), tức người bị kết án từ khi hết thời
hiệu thi hành bản án mà họ không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn
quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015 thì đương nhiên được xóa án tích.
Vấn đề tiếp theo là khó khăn trong việc xác minh lý lịch tư pháp và cấp Phiếu
lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích đối với người bị kết án về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT. Theo khoản 4, Điều 70 của BLHS năm 2015: “Cơ quan
quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình
hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp
xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản
3 Điều này”. Do đó, người bị kết án nếu có đủ điều kiện luật định nêu trên sẽ
đương nhiên được xóa án tích mà không phải thực hiện thủ tục pháp lý nào.
Trong trường hợp họ có nhu cầu thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
sẽ cấp Phiếu lý lịch tư pháp để xác nhận là không có án tích. Song trên thực tế,
cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa được thu thập, quản lý đồng bộ, việc cập nhật
thông tin xóa án tích diễn ra chậm trễ, dẫn đến trường hợp người đã đủ điều kiện
xóa án tích về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhưng vẫn gặp khó khăn khi
đi xin việc làm hoặc tham gia các hoạt động xã hội khác, một phần xuất phát từ
121
tính đặc thù của loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đó là có tính quốc tế
(người phạm tội là người nước ngoài, hành vi phạm tội xuyên quốc gia, không bị
giới hạn bởi không gian địa lý, tiền tài khoản chiếm đoạt được “chia nhỏ”,
chuyển ra nước ngoài qua đường truyền dẫn thông tin), dữ liệu điện tử dễ bị tiêu
hủy,... ảnh hưởng rất lớn đến việc kiểm tra, xác minh tiền án hoặc vấn đề tái
phạm, phạm tội mới của người bị kết án về tội phạm này.
3.3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
a. Nguyên nhân từ pháp luật
BLHS là công cụ sắc bén để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm nói
chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Các quy định của BLHS
đã đóng góp quan trọng vào kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Quy định của BLHS là cơ sở nền tảng quyết định
việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên, trên
thực tế để đáp ứng tốt các yêu cầu về đấu tranh phòng, chống tội phạm thì các quy
định của BLHS hiện hành vẫn còn những bất cập nhất định, đó là:
Thứ nhất, bất cập trong một số quy định cụ thể về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT
Từ góc độ lập pháp đến áp dụng pháp luật về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT thời gian qua cho thấy trong BLHS năm 2015 có những
quy định về tội phạm này đã thể hiện sự hạn chế, bất cập, như sau:
- Điều 285. “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi tặng cho công cụ, thiết bị, phần
mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” quy định về dấu hiệu “để sử dụng
vào mục đích trái pháp luật” là chưa phù hợp, nhất là so với văn bản pháp luật
quốc tế và xu hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay. Bởi lẽ trả lời cho
“mục đích trái pháp luật” thì phạm vi trái pháp luật là rất rộng, dễ dẫn đến việc
tràn lan trong xử lý hình sự. Trong khi tham khảo văn bản pháp luật quốc tế quy
định về tội phạm này chỉ giới hạn mục đích của hành vi sản xuất, mua bán công
cụ, thiết bị, phần mềm là để thực hiện tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, hẹp
hơn và cụ thể hơn rất nhiều về mục đích của tội phạm trong Điều 285 BLHS
hiện hành ở nước ta.
- Điều 286. “Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, tên điều luật có cụm từ
“hoạt động của... ”, nhưng trong mô tả hành vi khách quan của tội này chỉ có là:
122
“Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, như vậy là thiếu cụm từ “hoạt động của”
trước cụm từ “mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”.
- Điều 287. “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử” chưa xác định đủ hết nội dung của điều
luật. Có 02 đối tượng tác động của tội phạm này là “mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử” và “dữ liệu điện tử”, nhưng tên của điều luật chỉ xác
định 01 đối tượng tác động là mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử, đối tượng tác động còn lại là dữ liệu điện tử chưa được xác định.
- Điều 288. “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng
viễn thông” không quy định dấu hiệu định khung tăng nặng “tái phạm nguy
hiểm” là không đồng bộ với 08 điều luật còn lại về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT. Trong khi Điều 288 này vẫn có thể quy định được dấu hiệu định
khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”. Sự bất cập này đã ảnh hưởng đến việc
phân hoá TNHS trong nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung,
của tội phạm quy định tại Điều 288 này nói riêng.
Hiện nay, trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa giải thích cụ thể thế
nào là “thông tin trái với quy định của pháp luật” trong Điều 288, BLHS năm
2015. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, có rất nhiều cách tiếp cận nội dung này
với khía cạnh và phạm vi khác nhau. Cụ thể tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013;
các Điều 8, 16, 17 và 18 quy định về các hành vi xâm phạm an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng của Luật An ninh mạng năm 2018;
khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ
về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (sửa đổi
bổ sung một số điều bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 của
Chính phủ). Chính vì vậy đã dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng TNHS
đối với tội phạm tại Điều 288 này. Bên cạnh đó, cũng rất khó khăn trong việc
xác định người đăng tải, đưa lên thông tin trái với quy định của pháp luật trên
mạng cũng như việc xử lý đối với người chia sẻ những thông tin đó. Thời gian
qua, đã có rất nhiều thông tin trái với quy định pháp luật, thông tin sai sự thật
nhưng được lan truyền nhanh chóng gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến
hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, ví dụ: Thông tin cấm xuất cảnh
với tỷ phú Phạm Nhật Vượng, thông tin về việc sắp xếp, sáp nhập các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam... Những thông tin trên tiếp cận
123
đến nhiều người dùng mạng, nhất là mạng xã hội với tốc độ rất nhanh chóng.
Trong khi việc truy tìm nguồn gốc thông tin rất khó khăn. Các quy định của
pháp luật hiện hành đã phát hiện, xử lý đối với tội phạm này nhưng lại chưa
xác định xử lý trách nhiệm đối với những người chia sẻ thông tin, trong khi đó
chính là người lan truyền thông tin nhanh chóng cũng như để lại những hậu quả
xấu cho xã hội [28].
- Điều 290. “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” còn có lỗi kỹ thuật lập pháp, chưa phù hợp,
thậm chí gây hiểu nhầm khi định tội danh và áp dụng TNHS đối với tội phạm đó.
Qua nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng cho thấy: BLHS không cần phải
quy định trường hợp loại trừ tại khoản 1 Điều 290 “nếu không thuộc trường hợp
quy định tại Điều 173 và Điều 174”. Bởi lẽ quy định như vậy vừa thừa, vừa dễ gây
hiểu nhầm khi định tội danh và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT nói chung, tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290 BLHS) nói riêng.
Khi xử lý tội phạm ở Điều 290, trên thực tế có những vụ án có tới hàng trăm
người bị hại ở khắp các nơi, nhưng BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021)
quy định “bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là
cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”
(Điều 62). Do đó, cơ quan chức năng phải lấy đầy đủ lời khai của các bị hại để xác
định thiệt hại dẫn đến yêu cầu này vượt quá khả năng của Cơ quan điều tra, trong khi
đó, thời hạn kiểm tra, xác minh tin báo, kể cả gia hạn giải quyết tin báo tối đa là 04
tháng. Mặt khác, theo quy định tại Điều 4 Thông tư liên tịch số 10 về xác định bị hại
thì: “Trong quá trình điều tra vụ án hình sự về các tội trong lĩnh vực công nghệ
thông tin và viễn thông, các cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp để
xác minh, lấy lời khai người bị hại theo quy định của pháp luật. Trường hợp vì lý do
khách quan, không thể xác định được người bị hại (do người bị hại sống ở nước
ngoài; không xác định được người bị hại cụ thể hoặc không xác định được họ tên và
địa chỉ thật của người bị hại do người phạm tội và người bị hại không tiếp xúc trực
tiếp với nhau mà chỉ thông qua mạng internet, mạng viễn thông; người bị hại không
hợp tác vì không muốn lộ danh tính, số tiền thiệt hại không nhiều...), nhưng căn cứ
vào tài liệu, chứng cứ thu thập được, có cơ sở xác định bị can, bị cáo đã thực hiện
hành vi phạm tội thì việc không xác định được người bị hại hoặc xác định không đủ
số người bị hại không làm ảnh hưởng đến việc xác định bản chất vụ án và việc khởi
124
tố, điều tra, truy tố, xét xử là có căn cứ pháp luật”. Hướng dẫn này tuy có tạo điều
kiện thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý vụ án, nhưng nó
cũng mang tính định tính, tùy nghi. Trong khi đó, định khung tăng nặng quy định ở
khoản 2, 3, 4 Điều 290 BLHS năm 2015 lại quy định cụ thể giá trị tài sản bị chiếm
đoạt. Điều này rất dễ xảy ra mâu thuẫn trong quá trình áp dụng. Xét về khoa học pháp
lý, trong vụ án có tính chiếm đoạt mà không xác định được bị hại, thì chưa đủ cơ sở
pháp lý để định tội danh. Từ đó tạo ra những khó khăn, thiếu thống nhất trên thực tế
áp dụng, dễ dẫn đến tùy tiện khi áp dụng PLHS. Do vậy cần có hướng dẫn áp dụng
thống nhất trên toàn quốc về vấn đề này.
Còn có sự chênh lệch rất lớn trong quy định của BLHS năm 2015 về hình phạt
cao nhất tại Điều 290 so với hình phạt cao nhất tại Điều 174. Hình phạt cao nhất đối
với “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện
hành vi chiếm đoạt tài sản” tại khoản 4 Điều 290 chỉ là 20 năm tù. Trong khi hình
phạt cao nhất đối với “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại khoản 4 Điều 174 là tù
chung thân. Điều đó không thể hiện sự công bằng, vì cùng chiếm đoạt từ 500 triệu
đồng trở lên nhưng tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản có tính chất nguy hiểm hơn, thực tế BLHS
năm 2015 cũng luôn coi dấu hiệu sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử thực hiện hành vi phạm tội là dấu hiệu định khung tăng nặng
trong các tội tương ứng thì hình phạt nhẹ hơn, còn trong Điều 174 về “Tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”, người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả
(không đúng sự thật) làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người
phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như: bằng lời
nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động và bằng nhiều hình thức khác như giả
vờ vay, mượn, thuê,... để chiếm đoạt tài sản. So với hành vi sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thì tính chất, mức độ hành vi của Điều 174
đơn giản hơn nhưng mức hình phạt áp dụng ở khung cao nhất lại nặng hơn.
- Điều 294. “Tội cố ý gây nhiễu có hại” cũng còn có lỗi kỹ thuật lập pháp.
Theo Nghiên cứu sinh không cần thiết quy định cụm từ “cố ý” bởi trong mặt chủ
quan của tất cả các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đều là lỗi cố ý. Người
thực hiện hành vi gây nhiễu có hại đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó mà vẫn mong muốn nó
xảy ra hoặc để mặc cho hậu quả xảy ra.
Thứ hai, các quy định về tình tiết định khung tăng nặng đối với tội phạm
125
trong lĩnh vực CNTT, MVT chưa đầy đủ và thống nhất
Trên cơ sở Điều 52 BLHS, cần xem xét bổ sung một số tình tiết cho phù
hợp với quy định tại các điều từ Điều 285 đến Điều 294, BLHS. Bởi trên thực tế,
các tình tiết đó làm gia tăng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
chứa đựng khả năng và thực tế làm phát sinh thêm hậu quả, thiệt hại. Đặc biệt
cần xử lý nghiêm khắc hơn đối với những người lợi dụng quyền hạn, vị trí công
tác, nhiệm vụ được giao để thực hiện tội phạm đó. Ví dụ: Về tình tiết “Phạm tội
02 lần trở lên” có thể bổ sung vào cấu thành tăng nặng trong các Điều 286, 287,
289, 291, 293, 294 hay như tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” có thể bổ
sung vào cấu thành tăng nặng trong các Điều 285, 290, 291. Bởi nếu chủ thể của
tội phạm trong các Điều này là người có quyền hạn đã lợi dụng quyền hạn của
mình để thực hiện hành vi phạm tội thì không chỉ gây hậu quả nguy hiểm mà còn
làm trái các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn được giao, cần có chế tài xử lý cao
hơn so với người khác. Hay như hậu quả “Gây thiệt hại về tài sản từ ...” trong
cấu thành tăng nặng ở Điều 285 BLHS chưa đồng bộ, thống nhất với hậu quả
“Gây thiệt hại từ ...” (không có cụm từ “về tài sản”) trong các Điều 286, 287,
289, 290, 293, 294 BLHS.
Thứ ba, BLHS chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
Như đã phân tích một phần nêu trên, hiện nay, BLHS năm 2015 chỉ quy
định chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là cá nhân, không có pháp
nhân thương mại. Trong khi thực tế đã nảy sinh những vụ án về tội phạm trong
lĩnh vực này có sự tham gia, chỉ đạo của pháp nhân thương mại hoặc các cá nhân
phạm tội vì lợi ích của pháp nhân thương mại. Đáng lẽ phải xử lý triệt để các
pháp nhân thương mại này, phải truy cứu TNHS đến cùng đối với các pháp nhân
thương mại phạm tội, thay vì chỉ xử lý được các cá nhân người phạm tội. Điều
đó tạo ra “khoảng trống lớn”, là điều kiện để pháp nhân thương mại lợi dụng vi
phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến các quan hệ xã hội trong lĩnh vực CNTT,
MVT được PLHS bảo vệ. Trên thực tế, cơ quan có thẩm quyền không thể áp
dụng các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản của pháp nhân hoặc đình chỉ hoạt
động vĩnh viễn, chấm dứt sự tồn tại của pháp nhân khi pháp nhân được thành lập
chỉ nhằm mục đích thực hiện tội phạm [38].
Tham khảo quy định của pháp luật quốc tế về TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT đã xác định chủ thể của loại tội phạm này không chỉ có cá
126
nhân mà còn có cả pháp nhân. Cụ thể, khoản 1, Điều 12 Công ước Bu-đa-pét;
Điều 20 Công ước Ả Rập về phòng, chống tội phạm công nghệ thông tin năm
2010 (Công ước Ả Rập); khoản 2, Điều 30 Công ước của Liên minh châu Phi về
an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2014 (Công ước Châu Phi) hay như
tham khảo quy định của BLHS Hoa Kỳ, Canada, Trung Quốc cũng đều xác định
phải truy cứu TNHS đối với pháp nhân thực hiện tội phạm trong lĩnh vực này.
Việc BLHS nước ta chưa quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT dẫn đến cơ quan chức năng của chúng ta
không có cơ sở pháp lý để đấu tranh, ngăn chặn, xử lý. Đây thực sự là một “lỗ
hổng” mà theo Nghiên cứu sinh cần sớm được bổ sung, hoàn thiện.
b. Nguyên nhân từ công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật hình
sự về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Trong các quan hệ xã hội mà Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại thì
quan hệ xã hội trong lĩnh vực CNTT, MVT có tính đặc thù rất cao. Đó là lĩnh vực
liên quan đến khoa học kỹ thuật, công nghệ cao. Nếu không có kiến thức, kinh
nghiệm chuyên môn sâu sắc về lĩnh vực CNTT, MVT sẽ rất khó hiểu, khó áp
dụng để xác định TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này. Thực tế
nghiên cứu và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, các
cơ quan và người có thẩm quyền liên quan cũng nhận thấy quy định của BLHS
thời gian qua về tội phạm trong lĩnh vực này còn chung chung, khái quát. Trước
khi Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-
TANDTC ngày 10/9/2012 được ban hành, các cơ quan tiến hành tố tụng dường
như không xét xử được vụ án nào về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Sau
này, các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đã được xử lý nhiều hơn
vì được hướng dẫn chi tiết một số nội dung quan trọng theo Thông tư liên tịch số
10 nêu trên.
Từ khi có hiệu lực ngày 01/01/2018 đến nay, BLHS năm 2015 đã khắc phục
được phần nào hạn chế của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) bằng
những quy định cụ thể, chi tiết hơn. Song trong mục 2, Chương XXI, BLHS năm
2015 về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT vẫn còn những quy định chưa cụ
thể như: “công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng máy tính,
mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử”, “mục đích trái pháp luật” tại Điều
285; “thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” và “dẫn đến biểu
tình” tại Điều 288 đến nay vẫn chưa có văn bản giải thích, hướng dẫn chi tiết. Từ
127
đó tạo ra những khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền áp dụng TNHS đối với
tội phạm này. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải sớm giải thích, hướng dẫn áp dụng
các quy định của BLHS về loại tội phạm đặc thù này một cách cụ thể. Nhưng
thực tế những năm qua cho thấy việc giải thích, hướng dẫn này chưa được quan
tâm thực hiện kịp thời.
Bên cạnh đó, sự giải thích, hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS về xóa
án tích đối với người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thuộc
trường hợp đương nhiên được xóa án tích còn mâu thuẫn, chưa thống nhất giữa
các cơ quan chức năng. Tiếp nữa là việc kiểm tra, cập nhật, bổ sung thông tin về
tình hình lý lịch tư pháp của người phạm tội trong lĩnh vực này do cơ quan quản
lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa được thực hiện đầy đủ, đồng bộ. Nguồn dữ
liệu bị phân tán, quản lý bởi nhiều cơ quan, chủ thể khác nhau rất vụn vặt làm
ảnh hưởng đến căn cứ kết luận tình trạng án tích của người bị kết án khi họ có
yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
c. Nguyên nhân từ phía chủ thể áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Bên cạnh nguyên nhân từ phía PLHS thì những hạn chế trong thực tiễn áp
dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn xuất phát từ chính
các chủ thể áp dụng (hay còn gọi là nguyên nhân chủ quan), cụ thể như sau:
Một là, đội ngũ nhân lực thực hiện công tác đấu tranh với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT còn hạn chế
Các loại tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT xuất hiện ở nước ta chưa lâu,
với các hình thức rất phong phú và đa dạng, đồng thời rất phức tạp. Hoạt động
của chúng thường không dễ phát hiện, đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên và
Thẩm phán phải có kiến thức chuyên sâu về CNTT, MVT để nắm bắt phương
thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng phạm tội, chủ động, thường xuyên
truy cập vào các trang mạng, diễn đàn CNTT để chủ động nắm thông tin, tình
hình cũng như các công cụ, phương tiện mà đối tượng sử dụng. Tuy nhiên trên
thực tế, một bộ phận không nhỏ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa
hiểu rõ về CNTT, MVT. Cùng với đó, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng chưa đầy
đủ, đặc biệt là kinh nghiệm đấu tranh đối với loại tội phạm này không nhiều.
Nhận thức của các chủ thể tiến hành áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT cũng không đồng đều, trong đó một phần nguyên nhân là do
128
BLHS năm 1999 (có bổ sung thêm một số tội danh mới năm 2009), nhưng đến
năm 2012 mới có văn bản hướng dẫn thi hành là Thông tư liên tịch số
10/2012/BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSTC-TANDTC ngày 10/9/2012 của Bộ
Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao. Tại Điều 10 Thông tư này
hướng dẫn “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc
thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 226b BLHS), nay đã được
pháp điển hóa tại Điều 290 BLHS năm 2015. Chính vì vậy dẫn đến nhận thức
chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng qua các giai đoạn hiệu lực
khác nhau của BLHS.
Phải nhấn mạnh thêm, để giải quyết vụ án hình sự về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT, ngoài kiến thức về pháp luật, người tiến hành tố tụng phải có kiến
thức, hiểu biết nhất định về lĩnh vực CNTT, MVT. Trong khi hiện nay, người tiến
hành tố tụng còn hạn chế về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Điều đó gây ra những khó khăn rất lớn trong quá trình áp dụng quy định của
PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Hiện tại, mặc dù trình độ và khả
năng về CNTT, MVT của người tiến hành tố tụng đã được cải thiện, nhưng vẫn
chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm này, nhất là khi tội
phạm này hoạt động ngày càng tinh vi, phức tạp với những phương thức, thủ đoạn
hoạt động mới, ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Kinh nghiệm đấu tranh đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT của
người tiến hành tố tụng thời gian qua còn thiếu và yếu. Có nhiều Tòa án nhân
dân (cả cấp tỉnh) cũng chưa xét xử vụ án nào về tội phạm này, nên sẽ gặp nhiều
lúng túng, khó khăn khi giải quyết, đặc biệt là trong hoạt động thu thập, đánh
giá, sử dụng chứng cứ và chứng minh trong vụ án, định tội danh và quyết định
TNHS đối với người phạm tội.
Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, áp dụng TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT, các cơ quan, người có thẩm quyền còn chủ quan, chưa
bám sát các căn cứ định tội danh và quyết định hình phạt, biện pháp tư pháp và các
vấn đề khác có liên quan. Có trường hợp còn chưa thực hiện đúng căn cứ quy định
của PLHS về tội phạm này cũng như chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hoặc bỏ sót, lọt các tình tiết tăng nặng, tình
tiết giảm nhẹ TNHS hoặc xem xét không kỹ lưỡng nhân thân của người phạm tội
dẫn đến áp dụng TNHS không đồng bộ, thống nhất. Một phần nguyên nhân dẫn đến
129
tình trạng trên là do hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nhất là
chuyên môn trong lĩnh vực CNTT, MVT của một số Thẩm phán.
Thực tế hiện nay cho thấy, nhiều Thẩm phán, cán bộ Tòa án chưa nhận thức
đúng đắn, đầy đủ về vai trò của khoa học kỹ thuật, trong đó có lĩnh vực công
nghệ thông tin, viễn thông đối với hoạt động của Tòa án, năng lực nghiên cứu và
kỹ năng xét xử các loại án liên quan đến CNTT, MVT còn hạn chế. Biên chế
hiện tại của cơ quan Tòa án còn rất thiếu nhân lực công nghệ thông tin, nhất là
đối với Tòa án nhân dân cấp huyện, cán bộ phụ trách công nghệ thông tin tại đây
hầu hết đều kiêm nhiệm. Họ vừa phải thực hiện công việc chuyên môn của thư
ký viên, thẩm tra viên vốn dĩ đã quá tải, vì thông thường 01 thư ký Tòa án phải
giúp việc cho 02 - 03 Thẩm phán, với lượng án thụ lý luôn ở mức cao, mà lại
phải thực hiện thêm công việc phụ trách công nghệ thông tin. Trong khi đội ngũ
này là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động chuyển đổi số
trong lĩnh vực công tác của Tòa án nhân dân đồng thời là là lực lượng tư vấn, hỗ
trợ đắc lực cho đội ngũ Thẩm phán trước và trong quá trình xét xử loại tội phạm
đặc thù này. Nhiều cán bộ Tòa án chưa quen việc thay đổi trạng thái làm việc từ
môi trường truyền thống lên môi trường điện tử, chưa thường xuyên ứng dụng
khoa học kỹ thuật, công nghệ trong công việc hoặc có ứng dụng, khai thác nhưng
còn hình thức, chưa triệt để. Ngoài ra cũng phải kể đến việc một bộ phận người
có thẩm quyền chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu thận trọng, khách quan,
công bằng trong xem xét và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT làm giảm hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm này.
Hai là, trang thiết bị, cơ sở vật chất để đấu tranh đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT chưa được đầu tư, kịp thời đáp ứng
Một trong những đặc điểm của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là
hành vi phạm tội thường để lại các dấu vết là các dữ liệu điện tử, tồn tại dưới
dạng điện tử và rất dễ bị tác động, thay thế, sửa chữa và xóa bỏ. Để áp dụng
chính xác TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này, buộc cơ quan tiến
hành tố tụng nói chung, Tòa án nói riêng phải thu thập, phân tích, kiểm tra, đánh
giá và sử dụng hiệu quả nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử. Do đó, các vụ án
thuộc lĩnh vực CNTT, MVT, việc phát hiện, thu thập, bảo quản chứng cứ điện tử
đóng vai trò rất quan trọng. Việc này chắc chắn phải có sự hỗ trợ của các loại
máy móc, thiết bị đặc biệt, chuyên dùng. Trong khi chủ thể phạm tội thường sử
130
dụng những kỹ thuật, thiết bị mới, hiện đại để phạm tội thì các cơ quan tiến hành
tố tụng cũng cần phải được trang bị những thiết bị mới, hiện đại hơn cả để phòng
ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Các trang thiết bị đó sẽ góp phần
hiệu quả trong việc thu thập, phân tích, phục hồi và bảo quản chứng cứ điện tử,
tạo cơ sở vững chắc để chứng minh tội phạm và người phạm tội. Từ đó các cơ
quan chức năng mới có căn cứ để áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Song điều kiện thực tế hiện nay, các loại máy móc,
thiết bị, cơ sở vật chất trang bị cho lực lượng chức năng chưa đáp ứng được yêu
cầu công tác. Nó vừa thiếu về số lượng vừa lạc hậu về chất lượng, có thể nói đôi
lúc là “đi sau tội phạm”. Mặc dù nhà nước đã có nhiều chính sách ưu tiên, quan
tâm đầu tư hiện đại hóa, trong đó có hiện đại hóa về cơ sở vật chất, trang thiết bị,
phương tiện cho lực lượng đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT, song thực tế triển khai còn chậm, hạn mức đầu tư còn eo hẹp,
chưa theo kịp và đáp ứng được đòi hỏi của tình hình thực tiễn.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất liên quan trực tiếp đến quá trình áp dụng TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là hệ thống phòng xét xử tại các
Tòa án. Nhiều phòng xử án được xây dựng từ những năm 90 của thế kỷ XX, nay
đã xuống cấp trầm trọng, việc tổ chức phiên tòa trực tuyến, ứng dụng công nghệ
thông tin, xây dựng Tòa án điện tử hay thực hiện hoạt động chuyển đổi số, vận
hành phần mềm trợ lý ảo giám sát, điều hành của Tòa án cũng còn gặp rất nhiều
khó khăn, do phương tiện, thiết bị công nghệ thiếu đồng bộ, hạ tầng kỹ thuật
không đảm bảo. Các trang thiết bị phục vụ xét xử trực tuyến tại các tòa án và
điểm cầu thành phần tại các cơ sở giam giữ chưa được đầu tư nâng cấp, cải thiện,
nhiều khi Tòa án phải thuê mượn hoặc chuyển đổi từ phòng hội nghị sang để tổ
chức phiên tòa xét xử trực tuyến, trong khi lượng án về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT ngày càng có chiều hướng gia tăng, diễn biến hết sức phức tạp, tạo
áp lực rất lớn cho Tòa án các cấp.
Ba là, các cơ quan tiến hành tố tụng phải giải quyết nhiều vụ án về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT liên quan đến người nước ngoài trong khi hoạt động
hợp tác quốc tế chưa thực sự phát huy hiệu quả
Trong các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, số bị cáo là người
nước ngoài chiếm tỷ lệ khá cao. Trung bình tỷ lệ bị cáo là người nước ngoài phạm
131
tội này trong giai đoạn 2013 - 6/2024 là 5,98%.
Bảng 3.5. Số lượng bị cáo là người nước ngoài bị xét xử sơ thẩm về tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT từ năm 2013 đến 6/2024
Năm
2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 6/2024
51
135
139
202
118
87
73
100
135
205
374
197
Tổng số
bị cáo
phạm tội CNTT,
MVT
18
14
19
8
4
8
2
11
1
0
3
0
Bị cáo
người nước
ngoài
phạm tội
CNTT,
MVT
125
121
116
101
88
130
119
138
109
82
111
47
Tổng số
bị cáo là
người
nước
ngoài bị
xét xử (tất cả
các tội
phạm)
Tỷ lệ
(%) so
14,4
0
11,57 16,38 7,92 4,55
6,15
1,68
7,97
0,92
0
2,70
với tổng số
(Nguồn: Vụ Tổng hợp, Tòa án nhân dân tối cao)
132
Một trong những đặc điểm quan trọng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT đó là mang tính quốc tế, xuyên biên giới, không bị giới hạn bởi lãnh thổ, khu vực. Các vụ án về tội phạm này do người nước ngoài thực hiện hoặc có liên quan đến yếu tố nước ngoài cao chiếm tỷ lệ khá cao, gây ra nhiều áp lực, khó khăn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết vụ án. Trong đó
có việc áp dụng TNHS đối với tội phạm này. Bởi khi giải quyết các vụ án đó, cán bộ phải có yêu cầu cao về năng lực chuyên môn, trình độ, nhất là trình độ ngoại ngữ, hiểu biết pháp luật quốc tế. Lẽ tất nhiên, giải quyết các vụ án liên quan đến người nước ngoài hoặc có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp, hợp tác quốc tế. Trong khi hoạt động này liên quan đến pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia mà người đó là công dân, đến hoạt động và phối hợp của cơ quan tư pháp quốc tế trong điều tra, khám phá và xử lý tội phạm. Trong khi hiện nay còn thiếu cơ sở pháp lý cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế. Cụ thể, Việt Nam chưa tham gia các công ước quốc tế về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với 27 quốc gia; nhiều quy định của pháp luật Việt Nam chưa tương thích với luật pháp các nước, nên gặp khó khăn trong thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế trong xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, làm hạn chế hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, trong đó có việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT liên quan đến yếu tố nước ngoài.
d. Nguyên nhân khách quan do tính phức tạp, đặc thù của quá trình chứng
minh vụ án về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Từ quá trình nghiên cứu và áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trên thực tiễn, Nghiên cứu sinh nhận thấy quá trình chứng minh vụ án về tội phạm này nói chung, việc xác định các tình tiết, căn cứ để quyết định TNHS đối với người phạm tội này cũng gặp rất nhiều khó khăn bởi một phần nguyên nhân khách quan đến từ tính chất phức tạp, đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể:
Một là, thực tiễn phát sinh các phương thức, thủ đoạn phạm tội mới trong
lĩnh vực CNTT, MVT làm cho các cơ quan có thẩm quyền gặp lúng túng
Tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT do tính chất đặc thù của lĩnh vực này
đã luôn nảy sinh những hành vi mới, với phương thức, thủ đoạn mới, rất tinh vi,
biến động khó lường. Nhiều hành vi chưa được quy định cụ thể trong BLHS hiện
hành hoặc chưa được hướng dẫn của các cơ quan liên ngành, trên thực tế đòi hỏi
các cơ quan tiến hành tố tụng phải linh hoạt, khéo léo vận dụng quy định hiện
hành để giải quyết. Đây cũng là lý do dẫn đến còn nhiều quan điểm giải quyết vụ
án không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, đặc biệt là
những quan điểm trái chiều nói riêng khi xét xử vụ án này. Ví dụ: Trong BLHS
133
năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) chưa quy định cụ thể về hành vi lắp đặt,
thuê kênh riêng, sử dụng dịch vụ viễn thông để chiếm đoạt tiền cước viễn thông
dẫn đến việc xử lý hành vi này xuất hiện rất nhiều quan điểm trái chiều. Có quan
điểm cho rằng: hành vi này phạm tội kinh doanh trái phép (Điều 159 BLHS năm
1999). Quan điểm khác khẳng định đây là tội vi phạm các quy định về nghiên
cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên (Điều 172 BLHS năm 1999) hoặc phạm tội sử
dụng trái phép tài sản (Điều 142 BLHS năm 1999). Ngoài ra, còn có ý kiến ủng
hộ quan điểm cho rằng hành vi này là phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS
năm 1999). Trên thực tế, đa số các bản án của Tòa án đã xét xử hành vi này
về tội trộm cắp tài sản [44]. Theo Nghiên cứu sinh, hành vi mới này rất cần thiết
phải được “hình sự hóa” cụ thể trong BLHS để việc áp dụng được thống nhất và
hơn cả là đảm bảo tính chính xác, đúng tội, đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền còn vấp phải lúng túng, khó khăn
khi phải xử lý những hành vi phạm tội mới xuất hiện trong khi BLHS chưa quy
định rõ ràng. Ví dụ: Theo bản án hình sự phúc thẩm số 361/2017/HS-PT ngày
20/7/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đ đã có
hành vi mua, sau đó bán phần mềm nghe lén, theo dõi điện thoại trên các thiết bị
di động cho các khách hàng. Khách hàng nào không biết cài đặt thì Đ cài đặt hộ
và hướng dẫn cách sử dụng. Trong khoảng thời gian từ 2012 - 2015, Đ đã bán
cho rất nhiều khách hàng khác nhau. Trong vụ án này, bản chất hành vi phạm tội
của Đ là hành vi mua bán trái phép phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp
luật. Nhưng tại thời điểm từ năm 2012 - 2015, BLHS năm 1999 không quy định
về tội này nên các cơ quan tiến hành tố tụng buộc phải chứng minh Đ có hành vi
cài đặt phần mềm này cho khách hàng để vận dụng xử vào tội truy cập bất hợp
pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số của
người khác (Điều 226b). Nếu giả sử Đ chỉ bán phần mềm cho khách hàng mà
không hỗ trợ cài đặt hộ cho khách thì sẽ không xử lý vào tội này được [44].
Hai là, khó khăn trong vấn đề thu thập, sử dụng chứng cứ là dữ liệu điện
tử đối với các vụ án phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT
Hầu hết các tội phạm trên lĩnh vực này không phải là phạm tội quả tang, mà chủ yếu qua lời khai của bị hại. Do đó, gây khó khăn trong việc truy vết dữ liệu điện tử, nguồn gốc tội phạm; thủ phạm triệt để xóa dấu vết nên dễ dàng che giấu hành vi phạm tội của mình. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ chuyên môn còn hạn chế trong việc phục hồi, phân tích, đánh giá, bảo quản chứng cứ là dữ liệu điện tử được tạo ra trong lĩnh vực CNTT, MVT. Việc chuyển hóa chứng cứ điện tử, 134
giám định điện tử thành các tài liệu có thể đọc, nghe, nhìn được để làm nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) rất khó khăn. Việc xác định đối tượng phạm tội đã tạo ra những dữ liệu điện tử đó cũng rất khó xác định.
Khi có yêu cầu của các cơ quan có chức năng về việc cung cấp lịch sử cuộc gọi, cung cấp các giao dịch liên quan đến hoạt động ngân hàng thì các công ty viễn thông và ngân hàng thường từ chối, bởi liên quan đến việc bảo mật thông tin cá nhân khách hàng, quá thời hạn lưu trữ thông tin cũng như tâm lý ngại va chạm, tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng để giải quyết vụ án hình sự.
Ba là, việc xác định hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm cơ bản của một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT rất khó
khăn, nên một số điều luật ít được áp dụng hoặc không được áp dụng được để xử
lý đối với các hành vi phạm tội trên thực tế đã xảy ra
Từ bảng số liệu 3.2 nêu trên cho thấy, một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT ít được áp dụng hoặc chưa được áp dụng trong thực tiễn như Điều 286, Điều
287, Điều 291, Điều 293, Điều 294 BLHS năm 2015. Trong cấu thành tội phạm
cơ bản của các điều luật này thường có dấu hiệu hậu quả là dấu hiệu bắt buộc, nên
khi cơ quan có thẩm quyền chưa xác định được hậu quả của tội phạm thì sẽ chưa
thể xử lý được. Điều đặc trưng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là các
hậu quả, dấu vết để lại ở dạng dữ liệu điện tử, thậm chí nhiều nạn nhân còn không
biết mình bị tội phạm xâm hại. Trên thực tế cũng chứng minh việc xác định hậu
quả của tội phạm này rất khó khăn, đã có hành vi phạm tội xảy ra, nhưng các cơ
quan có thẩm quyền không biết hoặc có biết nhưng không xác định được chính
xác những hậu quả do tội phạm này gây ra. Theo quy định của BLHS hiện hành,
để áp dụng TNHS đối với một số tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thuộc một
trong các Điều 286, 287, 291, 293, 294 nêu trên thì bắt buộc phải xác định được
dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm. Nhưng thực tiễn có nhiều vụ việc mới
chỉ có hành vi phạm tội xảy ra, chưa gây ra hậu quả nhưng đã cho thấy tính chất
rất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó. Ví dụ như: hành vi cản trở hoặc gây rối
loạn đối với hệ thống dữ liệu thuộc bí mật nhà nước; hệ thống thông tin phục vụ
quốc phòng, an ninh. Thời gian tới, cần có những kiến nghị, đề xuất cụ thể để tăng
tính răn đe, chủ động phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả hơn nữa với tội phạm này
135
nói chung, các hành vi nguy hiểm nêu trên nói riêng.
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 của Luận án đã khái quát quy định của pháp luật quốc tế và lịch sử
quy định của pháp luật Việt Nam về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT trước khi ban hành BLHS năm 2015 đồng thời chỉ ra những kinh
nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng, hoàn thiện chế định về TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực này. Đến khi BLHS năm 2015 ra đời, đã phản ánh thêm rõ nét
quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách hình sự đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT mang tính nhân văn, tiến bộ, cơ bản phù hợp và thích đáng.
Bên cạnh hình phạt chính, TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
cũng thể hiện đặc trưng thông qua các hình phạt bổ sung, bao gồm: phạt tiền, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản. Quy định cũng như thực tiễn áp dụng các hình phạt bổ sung này
cho thấy yêu cầu đặt ra cao trong việc thu tài sản, góp phần khắc phục thiệt hại do tội
phạm gây ra, vừa đảm bảo tính răn đe, vừa đảm bảo tính phòng ngừa tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT.
Qua thực tiễn công tác xét xử của ngành Tòa án trong giai đoạn từ năm
2013 đến 6/2024 cho thấy, số vụ và số bị cáo phạm các tội trong lĩnh vực CNTT,
MVT có sự biến động, tăng, giảm không đồng đều, thể hiện sự phức tạp. Mỗi
năm trung bình Tòa án các cấp xét xử khoảng 80 vụ với 162 bị cáo phạm tội
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Trong số đó, nhiều nhất là Tội sử dụng mạng máy
tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
(Điều 290), chiếm 77,60% về số vụ và 74,42% về số bị cáo; Tội cản trở hoặc
gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện
tử (Điều 287) chiếm tỷ lệ thấp nhất, với 0,68% về số vụ và 0,39% về số bị cáo.
Chương 3 của Luận án đã mô tả khái quát bức tranh toàn cảnh về tình hình áp
dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở Việt Nam từ năm
2013 đến 6/2024, bao gồm thực tiễn việc áp dụng các hình phạt chính, áp dụng
hình phạt bổ sung và áp dụng các biện pháp tư pháp, án tích... Từ thực tiễn nhận
thấy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được trong công tác xét xử bảo đảm
áp dụng đúng TNHS đối với các bị cáo, ngược lại vẫn có một số hạn chế, thiếu
136
sót trong quy định của PLHS hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nổi bật như: xét xử chưa đúng tội
danh, chưa đồng bộ trong quyết định hình phạt, quyết định hình phạt chưa tương
xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, chưa thống nhất
trong xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS hay như áp dụng án
treo còn nhiều và chưa thể hiện sự công bằng,...
Bên cạnh đó, Chương 3 của Luận án cũng làm rõ những vướng mắc, bất
cập trong các quy định của PLHS hiện nay liên quan đến áp dụng TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đồng thời phân tích, làm sáng tỏ nguyên
nhân của những khó khăn, vướng mắc, bất cập đó, tạo cơ sở cho việc đưa ra các
kiến nghị, đề xuất góp phần hoàn thiện quy định của PLHS về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT và hệ thống các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả
TNHS đối với tội phạm này trong thời gian tới, nội dung này sẽ được trình bày ở
137
Chương cuối cùng của Luận án.
Chương 4
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM
ÁP DỤNG HIỆU QUẢ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM
TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, MẠNG VIỄN THÔNG
4.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự và yêu
cầu nâng cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh
vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
4.1.1. Bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự về tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Trong thời gian tới, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và
khó khăn, thách thức mới đan xen. An ninh truyền thống và phi truyền thống diễn
biến phức tạp; âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo
quyệt; tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, trong đó có tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, với tính chất, mức độ
nghiêm trọng ngày càng cao; sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ... tác
động sâu sắc, đa chiều đến an ninh, trật tự của đất nước ta, đặt ra nhiều khó khăn,
thách thức đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự nói chung, công tác đấu tranh, xử
lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Một trong những nhiệm vụ quan
trọng đặt ra là tiếp tục hoàn thiện PLHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
để góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm này.
Ngày 10/8/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 964/QĐ-TTg
phê duyệt Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các
thách thức từ không gian mạng đến năm 2025, tầm nhìn 2030, trong đó khẳng
định quan điểm: “An toàn, an ninh mạng là trọng tâm của quá trình chuyển đổi
số, là trụ cột quan trọng tạo lập niềm tin số và sự phát triển thịnh vượng trong kỷ
nguyên số. An toàn, an ninh mạng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài
nhằm khởi tạo và duy trì môi trường mạng an toàn, lành mạnh, tin cậy cho các cơ
quan, tổ chức và mỗi người dân. Đầu tư cho an toàn, an ninh mạng là đầu tư cho
phát triển bền vững và tạo ra giá trị”. Đồng thời, Chiến lược này cũng nêu rõ
quyết tâm “... chủ động phòng ngừa, sẵn sàng ứng phó để hạn chế các tác động
tiêu cực, bảo đảm quốc phòng, chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội và tính bền vững của quá trình phát triển đất nước trong thời đại Cách mạng
138
công nghiệp lần thứ tư”. Đặc biệt, Chiến lược chỉ ra tầm nhìn đến năm 2030 Việt
Nam sẽ “trở thành quốc gia tự chủ về an toàn, an ninh mạng để bảo vệ sự thịnh
vượng của Việt Nam trên không gian mạng”, với mục tiêu tổng quát: “Không
gian mạng quốc gia được xây dựng, phát triển văn minh, lành mạnh, là động lực
tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Năng lực quốc gia về bảo đảm
an toàn, an ninh mạng được nâng cao, chủ động, sẵn sàng ứng phó với các nguy
cơ, thách thức từ không gian mạng nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích,
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ chủ quyền quốc gia
trên không gian mạng và công cuộc chuyển đổi số quốc gia, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên không gian mạng”.
Theo thống kê của BKAV: Năm 2023, thiệt hại do vi-rút máy tính gây ra
đối với người dùng Việt Nam ở mức 17,3 nghìn tỷ VND (tương đương 716 triệu
USD), tiếp tục giảm so với các năm trước. Tình hình an ninh mạng trong nước
vẫn nổi cộm nhiều vấn đề nóng khi tình trạng tấn công bằng vi-rút mã hóa dữ
liệu tiếp tục gia tăng, nhằm vào các máy chủ trọng yếu; máy tính không có kết
nối internet cũng có thể bị tấn công gián điệp APT (Advanced Persistent
Threats); lừa đảo tài chính trực tuyến không có dấu hiệu hạ nhiệt bởi nguồn cơn
là tài khoản ngân hàng rác… Báo cáo ghi nhận tỷ lệ người dùng nhận được tin
nhắn, cuộc gọi lừa đảo tiếp tục gia tăng. Nếu năm 2022, tỷ lệ người dùng nhận
được các tin nhắn, cuộc gọi lừa đảo là khoảng 69,6% thì trong năm 2023 đã tăng
lên khoảng hơn 73%. Lừa đảo tài chính qua mạng bùng nổ phức tạp trong những
năm gần đây và trở thành vấn nạn khi nạn nhân thuộc mọi tầng lớp và sinh sống,
làm việc ở bất cứ đâu. Trong các vụ lừa đảo với mục đích tài chính, kẻ xấu yêu
cầu người dùng chuyển tiền qua tài khoản ngân hàng. Nhưng khi điều tra, các tài
khoản này hầu hết đều không chính chủ, khiến cơ quan chức năng gặp khó khăn
để tìm ra người phạm tội và ngăn chặn, xử lý vấn nạn lừa đảo.
Cũng trong năm 2023, hệ thống giám sát và cảnh báo vi-rút của BKAV ghi
nhận có tới 745.000 máy tính bị nhiễm vi-rút đánh cắp tài khoản (Facebook,
ngân hàng), tăng 40% so với năm 2022, phát tán mạnh nhất phải kể đến các dòng
như RedLineStealer, ArkeiStealer, Fabookie… đều nằm trong top 20 dòng vi-rút
lây nhiễm mạnh ở Việt Nam. Năm 2022, các vi-rút này vẫn còn “sơ khai”, chỉ
đánh cắp dữ liệu tài khoản, mật khẩu, cookies… thì năm 2023, chúng đã được
“nâng cấp” để đặc biệt nhắm vào các tài khoản Facebook Bussiness, truy vấn
139
thêm các thông tin về phương thức thanh toán, số dư... Khai thác thành công,
hacker sử dụng chính tài khoản nạn nhân để âm thầm chạy quảng cáo thay vì
ngay lập tức chiếm tài khoản hòng kiếm thêm lợi nhuận, nâng cao thứ hạng
(SEO) các trang web phát tán mã độc... Các dòng vi-rút đánh cắp tài khoản chủ
yếu lây lan qua các phần mềm bị bẻ khóa (crack). Điều này cũng phù hợp với kết
quả khảo sát của Bkav khi có tới 53% máy tính tại Việt Nam có sử dụng phần
mềm crack. Dẫn tới việc, khoảng 10% người dùng tại Việt Nam bị mất tài khoản
mạng xã hội, email, ngân hàng... Những tài khoản bị đánh cắp này sẽ bị kẻ xấu
sử dụng để tiếp tục lừa đảo bạn bè, người thân của nạn nhân. Trong các cơ quan,
tổ chức, dữ liệu tối mật thường được lưu trữ trên những máy tính được ngắt kết
nối khỏi internet nhằm đảm bảo an toàn trước các mối nguy hại từ tấn công
mạng. Tuy nhiên, việc này không an toàn tuyệt đối.
Bên cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của trí tuệ nhân tạo (AI) không chỉ
mang lại những lợi ích rõ ràng mà còn tạo ra những nguy cơ đáng kể cho an ninh
mạng. Thách thức lớn nhất đối diện với công nghệ AI ngày nay là lừa đảo và tấn
công có chủ đích, với mức độ ngày càng phức tạp của các kịch bản lừa đảo, đặc biệt
khi kết hợp giữa Deepfake và GPT. Khả năng thu thập và phân tích dữ liệu người
dùng thông qua AI cho phép tạo ra những vụ việc lừa đảo tinh vi, khiến việc nhận
diện lừa đảo sẽ khó khăn hơn đối với người dùng. Việc tăng cường an ninh cho AI
trở thành một xu hướng không thể phủ nhận. Cộng đồng thế giới và trong nước sẽ
cần hợp tác chặt chẽ để phát triển các biện pháp bảo mật mới, cùng việc nâng cao
kiến thức và nhận thức của người dùng về những rủi ro tiềm ẩn của AI.
Dưới tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), chính sách
PLHS luôn phải gắn với quy luật vận động của cuộc cách mạng này. Công nghệ
mới đang mở ra những thuận lợi cho các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
và tạo ra những thách thức mới cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự. PLHS cần
đảm bảo trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân liên quan đến các vấn đề
an ninh mạng, đảm bảo tính hợp pháp của các hoạt động thu thập và sử dụng dữ
liệu cá nhân và đồng thời đảm bảo quyền riêng tư của người dân. Một thách thức
lớn nữa, các công nghệ mới như AI, Blockchain đặt ra TNHS hay không, nếu đặt
ra thì “chủ thể nào” phải chịu TNHS?
Từ thực tiễn đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT thời gian
qua nhận thấy: tội phạm này diễn ra hết sức phức tạp, với tính chất, mức độ nguy
140
hiểm ngày càng cao, xuất hiện nhiều phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, tinh
vi, xảo quyệt. Các đối tượng phạm tội lợi dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật ở
trình độ cao hơn để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại nghiêm trọng hơn cho xã
hội, nhất là các hành vi: sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; phát tán chương trình tin học gây
hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; cản
trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử... Bối cảnh tình hình đó cho thấy sự cần thiết, cấp bách của việc tiếp
tục hoàn thiện PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta hiện
nay, trong đó có TNHS đối với loại tội phạm này. Từ những đòi hỏi khách quan
của tình hình kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ của
thế giới và trong nước cùng những diễn biến phức tạp, nguy hiểm của các hành
vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực CNTT, MVT cần được “tội phạm hóa” hoặc
đổi mới cách tiếp cận về TNHS đối với tội phạm này. Qua nghiên cứu các chế
định TNHS đối với phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như thực tiễn áp
dụng TNHS đối với tội phạm này đã cho thấy không ít các quy phạm liên quan
đến chế định TNHS trong BLHS hiện hành còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót
nhất định, gây khó khăn cho việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT trong thực tế.
4.1.2. Yêu cầu nâng cao hiệu quả của trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Ngoài việc khắc phục các nguyên nhân của những hạn chế nêu tại Chương
3, áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn phải đảm
bảo các yêu cầu cụ thể, đó là:
4.1.2.1. Yêu cầu đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi hoạt động áp dụng TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xử lý người phạm tội trong lĩnh
vực CNTT, MVT phải tuân thủ đầy đủ, chặt chẽ các quy định của pháp luật, đảm
bảo tính công bằng, khách quan, minh bạch, phù hợp các quy định của pháp luật.
Đáp ứng được yêu cầu này thì mới đảm bảo hiệu quả tích cực trong áp dụng
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như trong công tác
141
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.
Thực tế cho thấy còn một số hạn chế, thiếu sót trong phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, áp dụng TNHS đối với tội
phạm này nói riêng từ phía các cơ quan chức năng, đặt ra yêu cầu cần sớm khắc
phục, nhất là trong việc định tội danh, quyết định áp dụng hình thức, mức độ
TNHS đối với chủ thể phạm tội phải đảm bảo đúng pháp chế XHCN, theo nguyên
tắc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không được bỏ lọt tội phạm,
không làm oan người vô tội và tránh nặng - nhẹ bất công bằng. Yêu cầu tiếp tục
hoàn thiện PLHS và bảo đảm hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT đã, đang được đặt ra cấp bách và phải đảm bảo công bằng, bình
đẳng, theo đúng PLHS nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, thể hiện rõ
nét chính sách hình sự của nước ta.
4.1.2.2. Yêu cầu bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân trong
chính sách hình sự
Quyền con người, quyền công dân được coi là những điểm sáng, tiến bộ vượt
bậc trong Hiến pháp Việt Nam năm 2013. Theo đó, việc phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, áp dụng TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng phải đặc biệt coi trọng việc bảo vệ
quyền con người, quyền công dân mà trước đó là tôn trọng và bảo vệ công lý, lẽ
phải và sự công bằng. Xuất phát từ yêu cầu đó, việc hoàn thiện PLHS nói chung,
trong đó có PLHS về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải đề
cao và đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo pháp luật, hạn chế ở mức
thấp nhất và tránh việc xâm phạm, làm ảnh hưởng đến các quyền này mà pháp luật
đã xác định. Theo đó, các quy định của PLHS cần minh bạch, rõ ràng để tránh sự
lạm dụng, áp dụng tùy tiện dẫn đến gây thiệt hại cho chủ thể liên quan.
Yêu cầu này được quán triệt, thực hiện tốt sẽ tạo ra khuôn khổ pháp lý vững
chắc, nhằm bảo vệ an toàn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tránh khỏi những tác
động tiêu cực không đáng có và không được phép có khi tiến hành áp dụng
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, giúp bảo vệ tốt hơn quyền
con người, quyền công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nói
chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Qua đó thể hiện được
công lý và củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào công lý, lẽ phải và sự
142
công bằng trong chính sách hình sự của nước ta.
4.1.2.3. Yêu cầu tiếp tục đổi mới, cải cách tư pháp, đặc biệt là tư pháp hình sự
Việc nâng cao hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT phải gắn kết chặt chẽ với yêu cầu tiếp tục đổi mới, cải cách tư
pháp, nhất là cải cách tư pháp hình sự ở Việt Nam trong bối cảnh tình hình mới.
Trong vấn đề này, phải chú trọng gắn việc hoàn thiện quy định của PLHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có quy định của PLHS về TNHS
đối với tội phạm này với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về phát
triển CNTT, MVT cũng như chiến lược cải cách tư pháp (trong đó có tư pháp
hình sự) thời gian tới. CNTT, MVT ngày càng có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong Nghị quyết số
52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Bộ Chính trị xác định: “Tập trung phát
triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao như: Công nghiệp công nghệ
thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo
thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch
số; công nghiệp văn hoá số; y tế; giáo dục và đào tạo”. Để làm tốt việc hoàn
thiện PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
này cần quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước trong
đổi mới, cải cách tư pháp, trong đó có cải cách tư pháp hình sự hiện nay.
Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới đã xác định cụ
thể: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn
trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng
ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư
pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội
thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xây dựng chế định tố tụng tư
pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân
chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo
đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Áp dụng hiệu quả thủ tục tố
tụng tư pháp rút gọn; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các
phương thức tố tụng tư pháp”. Đó là căn cứ quan trọng để chúng ta tiếp tục hoàn
thiện PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
143
CNTT, MVT trong thời gian tới. PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
cần bổ sung các tình tiết định tội, định khung tăng nặng TNHS; cụ thể hoá các
tình tiết định tính trong các cấu thành tội phạm, đồng thời sửa đổi các tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT; xác định rõ ràng cơ sở của TNHS và các hình thức
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nhằm bảo đảm phù hợp với
thực tiễn đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
4.1.2.4. Yêu cầu phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Trong thời gian qua cũng như tương lai sắp tới, CNTT, MVT tiếp tục có sự
phát triển rất mạnh mẽ, với nhiều ứng dụng ngày càng đa dạng trong đời sống
kinh tế, xã hội ở cả thế giới và trong nước. Có thể thấy, lĩnh vực nào hiện nay
cũng đều có sự ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật, công nghệ, đặc biệt
là CNTT, MVT. Cùng với các thời cơ và thuận lợi mang lại, sự phát triển ấy cũng
kéo theo nhiều nguy cơ, hiểm họa nghiêm trọng gây mất an ninh, an toàn, mà tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là minh chứng rõ nét, cụ thể. Trước bối cảnh
tình hình mới, Việt Nam phải đặt ra yêu cầu cao hơn, cấp bách hơn trong công tác
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Theo đó,
cần chú ý những phương thức, thủ đoạn phạm tội mới được thực hiện với quy mô
lớn hơn, tính chất phức tạp hơn và nhất là khó khăn hơn trong việc điều tra, xử lý,
áp dụng TNHS. Việc hoàn thiện quy định về PLHS và bảo đảm áp dụng hiệu quả
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT phải xem xét toàn diện các
yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý, đạo đức,... để đề xuất những vấn đề
cần sửa đổi, bổ sung về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có cả
các quy định về TNHS đối với tội phạm này trong BLHS hiện hành.
PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, PLHS về TNHS
đối với tội phạm này nói riêng phải đảm bảo thuận lợi cho hoạt động áp dụng,
phân hóa và đánh giá chính xác mức độ chịu TNHS của chủ thể phạm tội. Hệ
thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT cần tạo hành lang pháp lý
an toàn, ổn định để thúc đẩy người dân, doanh nghiệp tham gia đầu tư, quản lý,
khai thác và sử dụng hiệu quả cơ sở hạ tầng CNTT, MVT cũng như phát huy
được trách nhiệm trong bảo vệ an toàn cơ sở hạ tầng thông tin của quốc gia, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới,
144
kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang diễn ra mạnh mẽ.
Thực tế phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT cũng cho thấy nhiều vướng mắc, bất cập, đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn
thiện PLHS cũng như bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT như: chưa hình sự hóa một số hành vi nguy hiểm đáng kể
cho xã hội trong lĩnh vực CNTT, MVT, một số tội phạm trong lĩnh vực này chưa
được quy định cụ thể và giải thích rõ ràng, chưa rõ ranh giới giữa các tội phạm
cụ thể trong cùng nhóm tội này, giữa tội phạm trong nhóm này với một số tội
phạm khác, việc quy định và áp dụng các hình thức của TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực này cũng chưa hoàn toàn phù hợp, chưa thực sự thống nhất, đồng
bộ cũng như chưa phát huy hiệu quả của TNHS đối với chủ thể phạm tội.
4.1.2.5. Yêu cầu hội nhập quốc tế
Đất nước ta đã và đang rất tích cực tham gia quá trình toàn cầu hóa, đẩy
mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập về pháp luật, hội nhập tư
pháp. Quá trình hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập trong lĩnh vực CNTT, MVT
của nước ta là một xu thế tất yếu, không thể phủ nhận. Nó sẽ mang lại những kết
quả tốt đẹp, nhưng cũng sẽ có không ít nhưng khó khăn, thách thức và cả nguy
cơ đe dọa khi tình hình tội phạm trong lĩnh vực này đã và sẽ có chiều hướng gia
tăng và diễn biến phức tạp.
Qua nghiên cứu quy định của luật pháp quốc tế cho thấy tính phù hợp của
việc quy định pháp nhân thương mại có thể là chủ thể của tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT cũng như việc mở rộng phạm vi bị coi là tội phạm đối với một
số hành vi nguy hiểm cho xã hội. Do vậy, việc BLHS hiện hành ở nước ta chưa
xác định chủ thể của tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là pháp nhân thương
mại cũng như xác định giới hạn hạn chế đối với các hành vi nguy hiểm bị coi là
tội phạm trong lĩnh vực này đang thực sự là những “rào cản” trong quá trình áp
dụng pháp luật, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện TNHS đối với tội phạm này.
Yêu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung ở nước ta
liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó có PLHS về tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT nói riêng cần có sự điều chỉnh, bổ sung cho tương thích, phù
hợp, tạo nền tảng để hợp tác quốc tế sâu rộng, hiệu quả, đồng thời phục vụ đắc
lực cho công tác phòng ngừa và đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT vốn có tính quốc tế này. Cùng với đó, cũng cần chú ý sự phù hợp trong các
145
quy định với các cam kết của Việt Nam khi tham gia các điều ước quốc tế, thỏa
thuận quốc tế về song phương và đa phương có liên quan trong lĩnh vực CNTT,
MVT cũng như phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kinh tế, xã hội, khoa học
kỹ thuật, CNTT, MVT.
4.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Trên cơ sở các quy định của BLHS năm 2015 về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT cũng như kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như tham khảo pháp luật quốc tế
liên quan, theo Nghiên cứu sinh, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cần tiếp tục được hoàn thiện
theo các nội dung cụ thể như sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các quy định cụ thể trong BLHS về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT
- Điều 285. “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị,
phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” cần quy định bổ sung các hành vi
“chiếm hữu, sở hữu nhằm cho người khác sử dụng” và “đề nghị người khác sử
dụng, nhập khẩu” công cụ, thiết bị, phần mềm và thay cụm từ “mục đích trái pháp
luật” bằng cụm từ “mục đích phạm tội”.
Trên thực tế chúng ta thấy, những hành vi “chiếm hữu, sở hữu nhằm cho
người khác sử dụng” hoặc “đề nghị người khác sử dụng, nhập khẩu” công cụ, thiết
bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích phạm tội cũng nguy hiểm không kém gì so
với hành vi mua bán, trao đổi, tặng cho quy định tại Điều 285 BLHS năm 2015.
Những hành vi như vậy đã, đang và sẽ diễn ra ngày càng nhiều. Việc bổ sung các
hành vi này và Điều luật sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý đối với những hành vi
nguy hiểm này khi xảy ra trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, việc thay cụm từ “mục đích trái pháp luật” tại tên điều luật và
khoản 1, Điều 285 bằng cụm từ “mục đích phạm tội” để thu hẹp phạm vi xử lý
hình sự, rất phù hợp xu thế nhân đạo, hướng thiện trong việc hoàn thiện PLHS
hiện nay ở đất nước ta. Vì “mục đích trái pháp luật” có phạm vi rất rộng, bao gồm
cả vi phạm hành chính, vi phạm dân sự. Tham khảo Công ước Bu-đa-pet 2001,
Luật mẫu 2002 đều quy định đối tượng phạm tội của tội này là các công cụ, thiết
bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Do
146
đó, việc sửa đổi để thu hẹp phạm vi đối tượng tác động của tội phạm này là cần
thiết và phù hợp. Lúc này tên của Điều 285 sẽ là “Tội sản xuất, mua bán, trao đổi,
tặng cho, chiếm hữu, sở hữu nhằm cho người khác sử dụng hoặc đề nghị người khác
sử dụng, nhập khẩu công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích phạm tội”.
Cuối cùng, để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất về kỹ thuật lập pháp khi
quy định về tình tiết tăng định khung đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT, nên bỏ cụm từ “về tài sản” tại điểm đ, khoản 2 và điểm b, khoản 3 Điều
285 BLHS hiện hành.
- Điều 286. “Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”, bổ sung cụm từ “... hoạt
động của... ” vào mô tả hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm của tội này
(đảm bảo kỹ thuật lập pháp) cho phù hợp với tên điều luật. Theo đó, khoản 1
Điều 286 sẽ là: “1. Người nào cố ý phát tán chương trình tin học gây hại cho
hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ...”:
- Điều 287. “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử” đang có sự bất cập về tội danh: không
bao gồm hết tất cả các đối tượng điều chỉnh trong nội dung của điều luật. Cụ thể,
theo tội danh chỉ có đối tượng là “mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử” nhưng nội dung điều chỉnh thì có thêm “dữ liệu điện tử”. Do đó cần sửa
tội danh của Điều 287 thành: “Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc dữ liệu điện tử”.
Ngoài ra, cần tăng mức phạt tiền trong định khung hình phạt của Điều 287
bởi lẽ hiện tại quy định về định mức phạt tiền so với hậu quả thiệt hại do tội phạm
gây ra và so với số tiền thu lợi bất chính của người phạm tội thì còn chưa phù hợp.
Cụ thể, khoản 1 quy định mức phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 200 triệu đồng nhưng
một trong các trường hợp người phạm tội lại thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến
dưới 200 triệu đồng (mức tối thiểu của khung hình phạt tiền nhỏ hơn mức tối thiểu
từ số tiền thu lợi bất chính), theo quan điểm của Nghiên cứu sinh thì số tiền bị
phạt ít nhất cũng phải bằng hoặc lớn hơn số tiền thu lợi bất chính mà người phạm
tội có được hoặc so với số giá trị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Điều 288. “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng
viễn thông”, bổ sung thêm đối tượng là “những thông tin có khả năng gây tác
147
hại lớn đối với xã hội” vào cấu thành cơ bản của tội phạm. Bên cạnh đó, cần
nâng mức tối thiểu của khung hình phạt tiền ít nhất phải bằng mức tối thiểu từ số
tiền mà người phạm tội đã thu lợi bất chính. Theo đó, Điều 288 BLHS năm 2015
sẽ như sau: “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thu lợi bất
chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại từ
100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc gây dư luận xấu làm giảm
uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc đối với những thông tin có khả năng
gây tác hại lớn đối với xã hội thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ
06 tháng đến 03 năm ...”
Bên cạnh đó, bổ sung dấu hiệu tăng nặng định khung “tái phạm nguy
hiểm” vào khoản 2 Điều 288. Như vậy, dấu hiệu “tái phạm nguy hiểm” được sử
dụng là dấu hiệu định khung tăng nặng tại khoản 2 của tất cả các tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT sẽ đảm bảo tính thống nhất. Đồng thời, khi có quy định
dấu hiệu này sẽ góp phần tốt hơn trong việc phân hoá TNHS. Các nội dung còn
lại của Điều 288 giữ nguyên.
- Điều 290. “Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” cần bỏ cụm từ “nếu không thuộc trường
hợp quy định tại Điều 173 và Điều 174 của Bộ luật này” tại khoản 1. Cụm từ
này là thừa, thực sự không cần thiết, vừa dễ gây ra hiểu nhầm. Bởi vì tội sử dụng
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm
đoạt tài sản (Điều 290) được coi là điều luật riêng cụ thể so với tội trộm cắp tài
sản (Điều 173) và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174). Nếu người phạm tội
sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để chiếm đoạt tài
sản thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 Điều
290 thì mới bị xử lý về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu không thoả mãn yếu tố cấu
thành của tội này nhưng thoả mãn cấu thành tội phạm tại Điều 173 hoặc Điều
174 thì xử lý về tội trộm cắp tài sản hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tiếp đó, cần điều chỉnh mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội sử
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản lên tù chung thân. Mức cao nhất của khung hình phạt đối với
tội này theo quy định tại khoản 4 Điều 290 BLHS hiện hành là 20 năm tù. So sánh
148
giữa tội này và tội trộm cắp tài sản (Điều 173), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 174) chỉ khác nhau cơ bản về công cụ thực hiện tội phạm là sử dụng CNTT,
MVT, điều đó làm cho tính chất của tội phạm tại Điều 290 trở nên nguy hiểm hơn.
Song BLHS năm 2015 lại quy định hình phạt của tội này lại nhẹ hơn so với tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (mức hình phạt cao nhất của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
là tù chung thân (khoản 4 Điều 174)). Vì vậy, Nghiên cứu sinh đề nghị sửa đổi
hình phạt tại khoản 4 Điều 290 lên mức cao nhất là tù chung thân, vừa thể hiện sự
răn đe, trừng trị thích đáng với người phạm tội, vừa thể hiện sự công bằng, nghiêm
minh của pháp luật. Tất nhiên, đây cũng là định khung hình phạt cao nhất áp dụng
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Với loại tội phạm này, không cần
thiết và chưa đến mức phải áp dụng hình phạt tử hình (đi ngược với xu hướng
nhân đạo hóa trong Luật Hình sự Việt Nam hiện nay).
- Điều 294. “Tội cố ý gây nhiễu có hại”, có thể bỏ cụm từ “cố ý” trong tên
Điều luật, chỉ còn là “Tội gây nhiễu có hại”. Đồng thời cũng bỏ cụm từ này ở
trong khoản 1 của Điều luật để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất.
Thứ hai, quy định thêm tình tiết tăng nặng định khung đối với một số tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
(1) Bên cạnh việc bổ sung dấu hiệu tăng nặng định khung “tái phạm nguy
hiểm” vào khoản 2 Điều 288. “Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy
tính, mạng viễn thông” đã nêu ở trên, Nghiên cứu sinh cũng đề xuất quy định thêm
dấu hiệu tăng nặng định khung “... hoặc bị ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe,
tinh thần” sau quy định “Xâm phạm bí mật cá nhân dẫn đến người bị xâm phạm
tự sát” quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 288. Bởi lẽ nếu hành vi phạm tội này xâm
phạm bí mật cá nhân dẫn đến việc người bị xâm phạm tự sát hoặc bị ảnh hưởng
nghiêm trọng tới sức khỏe, tinh thần, như: dẫn đến bị thần kinh, tâm thần,.. thì cũng
cần thiết phải có chế tài nặng hơn đối với người phạm tội.
(2) Bổ sung tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” vào cấu thành tăng nặng
trong các Điều 286, 287, 289, 291, 293, 294
(3) Bổ sung tình tiết “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” vào cấu thành tăng
nặng trong các Điều 285, 290, 291 để xử lý nghiêm khắc hơn đối với những
người lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác, nhiệm vụ được giao để thực
hiện tội phạm đó.
Việc bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung đối với một số tội phạm
149
trong lĩnh vực CNTT, MVT nêu trên vừa thể hiện sự đồng bộ, thống nhất trong
cùng nhóm tội phạm, vừa góp phần phân hóa tội phạm, tạo cơ sở để xử lý tội
phạm và chủ thể phạm tội một cách phù hợp, thích đáng.
Thứ ba, nghiên cứu điều chỉnh một số quy định về hình phạt chính, hình phạt
bổ sung và biện pháp tư pháp áp dụng đối với người phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT trong BLHS hiện hành
Tại BLHS năm 2015, trong quy định về hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối
với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT thì khoảng cách thời hạn phạt tù
giữa mức khởi điểm thấp nhất và mức cao nhất của khung hình phạt tù có thời
hạn còn chênh lệch khá lớn: từ 03 tháng đến 02 năm; từ 06 tháng đến 03 năm; từ
01 năm đến 05 năm; từ 02 năm đến 07 năm; từ 03 năm đến 07 năm; từ 07 năm
đến 12 năm; từ 07 năm đến 15 năm; thậm chí là từ 12 năm đến 20 năm (chênh
lệch đến 08 năm). Do vậy, cần điều chỉnh thu hẹp khoảng cách này lại, tránh gây
khó khăn cho Tòa án khi xác định TNHS, đồng thời phân hóa rõ nét TNHS đối
với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Bên cạnh đó, mức khởi đầu của một số khung hình phạt tù có thời hạn rất thấp,
chỉ từ 03 tháng tù. Chúng ta có thể thấy 03 tháng tù là quá ngắn để trừng trị người bị
coi là phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Do đó, nhằm tăng cường tính răn đe,
giáo dục, cải tạo người bị kết án cũng như tạo ra sự phòng ngừa chung đối với xã
hội, BLHS cần điều chỉnh tăng mức tối thiểu của hình phạt tù có thời hạn từ 03
tháng lên 06 tháng đối với người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Đối với hình phạt bổ sung là phạt tiền thì BLHS hiện hành quy định mức phạt
rất đa dạng và tùy nghi áp dụng. Đặc biệt là giới hạn định mức phạt tiền từ thấp nhất
đến cao nhất được quy định khá rộng: mức phạt cao nhất gấp nhiều lần mức khởi
điểm, đáng chú ý có hình phạt tiền mà khoảng cách chênh lệch lớn nhất là 20 lần (từ
5 triệu đồng đến 100 triệu đồng), dễ dẫn tới việc cơ quan có thẩm quyền không áp
dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung hoặc có áp dụng nhưng rất dễ áp dụng tùy
tiện. Để thuận tiện và mang lại hiệu quả trong việc áp dụng hình phạt bổ sung là
hình phạt tiền, theo Nghiên cứu sinh, BLHS nên quy định không theo một số tiền
chung mà theo mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra hoặc số tiền, tài sản mà
người phạm tội chiếm đoạt được trong vụ án (phạt tiền từ 01 lần đến 05 lần giá trị
tiền, tài sản chiếm đoạt được hoặc thiệt hại do tội phạm gây ra).
Ngoài ra, trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc
150
người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại. Thực tế
rất ít khi áp dụng biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi. Theo đó, cần bắt buộc
người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT phải công khai xin lỗi cơ quan, tổ chức,
cá nhân bị thiệt hại và cả trước Nhà nước và pháp luật. Cũng cần lưu ý rằng, pháp
luật quy định biện pháp này chỉ do Tòa án áp dụng và nó có thể được áp dụng cùng
với hình phạt hoặc thay cho hình phạt khi người phạm tội được miễn hình phạt hay
miễn TNHS. Buộc người phạm tội công khai xin lỗi bị hại chỉ có thể được áp dụng
trên cơ sở tự nguyện của người phạm tội và sự đồng ý của bị hại.
Thứ tư, bổ sung quy định về việc pháp nhân thương mại phải chịu TNHS
về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS
Trên cơ sở tham khảo pháp luật quốc tế và thực tiễn tình hình áp dụng TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta thời gian qua cho thấy yêu
cầu cần thiết sớm phải bổ sung quy định về chủ thể phạm tội trong lĩnh vực
CNTT, MVT ngoài là cá nhân thì cần phải có pháp nhân thương mại. Việc bổ
sung này sẽ lấp đầy “khoảng trống” hiện tại đang tạo kẽ hở cho các hoạt động
phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện liên quan đến lĩnh vực CNTT, MVT
vốn ngày một phức tạp. Khi được bổ sung quy định này, BLHS sẽ thực sự phát
huy hiệu quả trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói chung, tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng, góp phần khắc phục tốt hơn những thiệt hại
do tội phạm gây ra, giúp tịch thu tài sản, tăng nguồn công quỹ, đền bù xứng đáng
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do tội phạm gây ra và quan trọng
hơn cả là phân hóa rõ nét TNHS giữa pháp nhân thương mại và cá nhân người
phạm tội trong cùng một vụ án.
Cùng với sự cần thiết, việc bổ sung này còn mang tính cấp bách, bởi lẽ: (1)
nếu pháp nhân thương mại thực hiện tội phạm này sẽ gây ra hậu quả rất lớn với
tính chất khác hẳn so với cá nhân thực hiện; (2) động cơ phạm tội của tội này
thường là vụ lợi, trong khi đó pháp nhân thương mại là tổ chức hoạt động nhằm
mục đích lợi nhuận nên hoàn toàn và rất dễ có thể thực hiện tội phạm này. Một
số văn bản quốc tế như Công ước Bu-đa-pet năm 2001 tuy không quy định bắt
buộc nhưng cũng đã đề cập đến việc xử lý TNHS của pháp nhân đối với tội này,
kể cả biện pháp xử lý hình sự.
Thứ năm, BLHS phải tiếp tục làm rõ và phân hóa cao độ TNHS đối với từng
loại tội phạm cụ thể trong lĩnh vực CNTT, MVT với xu hướng đa dạng hóa các
151
hình thức TNHS đối với tội phạm này
Đối với loại hình phạt chính, hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp áp
dụng đối với chủ thể phạm tội này, nhà làm luật cần chú ý mở rộng thêm các
hình phạt không tước tự do (như hình phạt cảnh cáo) nhưng vẫn phải đảm bảo
tính răn đe của PLHS. Đặc biệt phải chú trọng và đảm bảo xu thế nhân đạo theo
PLHS hiện đại. Từ đó, Nghiên cứu sinh đề xuất một số gợi mở như: Xem xét
miễn, giảm TNHS đối với chủ thể phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT trong
trường hợp người phạm tội đã khắc phục triệt để hậu quả, thiệt hại do tội phạm
gây ra và góp phần giải quyết hiệu quả những nguyên nhân, điều kiện của tội
phạm trong lĩnh vực này, nhất là đối với các loại tội phạm thuộc loại ít nghiêm
trọng. Bên cạnh đó, cần phân hóa, làm rõ và áp dụng chính xác TNHS đối với
các giai đoạn cụ thể trong quá trình thực hiện tội phạm: Chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chưa đạt trong quy định của một số Điều luật như: Điều 285, 286, 287,
288, 290, 291 của BLHS hiện hành.
Thứ sáu, tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự theo hướng nâng
cao tính khả thi, tính dự báo trong các quy định của BLHS và mở rộng nguồn
quy định về tội phạm và TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
Nghiên cứu bổ sung vào Phần chung hoặc Phần các tội phạm của BLHS các
quy định mang tính giải thích, định nghĩa rõ ràng một số khái niệm cơ bản như:
TNHS; cơ sở TNHS; thời điểm phát sinh và kết thúc TNHS; thẩm quyền xác định
TNHS. Đặc biệt là khái niệm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,... để làm căn
cứ xem xét TNHS, vấn đề truy cứu TNHS nói chung, TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng (tại mục 2, chương XXI, BLHS hiện hành).
Nghiên cứu sinh cũng kiến nghị xây dựng 01 Chương riêng quy định về các
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS thay vì chỉ có một mục trong
Chương XXI của BLHS hiện nay. Theo đó, Chương về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT sẽ bao gồm 09 tội danh được quy định tại Mục 2 Chương XXI của
BLHS hiện hành và bổ sung thêm những tội danh mới, quy định về những hành
vi phạm tội mới được dự báo sẽ phát sinh trong tương lai.
Ngoài ra, nên mạnh dạn nghiên cứu để sớm có thể quy định về tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đối với các tội phạm đó trong các luật chuyên
ngành. Đề xuất này tuy vượt ra khỏi quan niệm về phạm vi “tội phạm chỉ được quy
định trong BLHS”, song không phải là không có tính khả thi. Việc sửa đổi BLHS
152
theo hướng quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đặt ra
đối với các tội phạm này không chỉ được quy định trong BLHS mà còn có thể
được quy định trong các luật chuyên ngành (Luật Công nghệ thông tin, Luật
Viễn thông, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Giao dịch điện tử, Luật Tần số vô
tuyến điện, Luật An ninh mạng, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước,...) sẽ tạo ra sự linh
hoạt trong đấu tranh với các loại tội phạm mới xuất hiện, đặc biệt là tội phạm mới
trong lĩnh vực CNTT, MVT, giúp tăng cường răn đe, đồng thời tạo sự ổn định cần
thiết của BLHS, tránh phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung BLHS. Khi đã mở rộng
nguồn của luật hình sự thì các hành vi phạm tội mới sẽ liên tục được cập nhật khi
Quốc hội ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các đạo luật chuyên ngành mà không
cần phải sửa đổi BLHS. Kiến nghị, đề xuất này vừa đáp ứng được yêu cầu của
thực tiễn đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, vừa bảo đảm sự ổn
định lâu dài của BLHS. Đương nhiên, việc quy định các tội phạm cụ thể trong lĩnh
vực CNTT, MVT, kèm theo đó là TNHS đối với tội phạm này trong các luật
chuyên ngành phải dựa trên quy định tại Phần chung của BLHS và tuân thủ chặt
chẽ các yêu cầu, quy định khác có liên quan.
4.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hiệu quả trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
4.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật; tổng kết thực tiễn và phát triển hệ thống án lệ
Việc xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, giải thích việc áp dụng
TNHS nói chung và TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng
có ý nghĩa rất quan trọng để áp dụng đúng quy định về TNHS đối với tội phạm
này. Trong thời gian tới đây, để các quy định của BLHS năm 2015 nói chung, quy
định tại mục 2, Chương XXI về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng
tiếp tục được thực hiện hiệu quả thì các nội dung cần được khẩn trương giải thích,
hướng dẫn đó là vấn đề xử lý TNHS đối với pháp nhân thương mại; các quy định về
các tội phạm mới, hình phạt mới; các quy định về tội phạm hóa, phi hình sự hóa... Đây
đều là những vấn đề mới nên cần có sự giải thích, hướng dẫn cụ thể để các cơ
quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng tốt trong thực tiễn. Cùng với hoạt động giải
thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất PLHS, công tác tổng kết thực tiễn và phát
triển án lệ cần được đẩy mạnh nhằm bảo đảm chất lượng áp dụng TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn hiện nay. Qua công tác này, các
153
nội dung mới và các vướng mắc trong thực tiễn xét xử sẽ được giải thích, hướng
dẫn áp dụng một cách hiệu quả. Đây là giải pháp vô cùng hữu hiệu trong tình hình
hiện nay, khi mà các văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật
trong xét xử đang thiếu hụt, trong khi BLHS vẫn còn nhiều quy định cần có sự
giải thích, hướng dẫn chi tiết thêm, nếu không sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng
các quy định này. Hiện nay, liên ngành các cơ quan tư pháp, cơ quan chức năng ở
Trung ương chưa có văn bản hướng dẫn mới để thay thế Thông tư liên tịch số
10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012
trong khi nhiều nội dung hướng dẫn trong Thông tư này đã không còn phù hợp.
Từ đó đặt ra yêu cầu hết sức cấp thiết đối với liên ngành tư pháp Trung ương phải
sớm ban hành các văn bản dưới luật về công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm và các hành vi vi phạm khác trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, văn
bản hướng dẫn công tác điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm trong lĩnh vực
này nói riêng. Nhà nước nên giao cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì,
phối hợp các bộ, ngành hữu quan như: Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân
dân tối cao, Bộ Thông tin và truyền thông, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam…
xây dựng Thông tư liên ngành về phòng, chống tội phạm sử dụng CNTT, MVT.
Cùng với đó là Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Bộ Công an,
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội danh
liên quan trong lĩnh vực CNTT, MVT trong BLHS hiện hành.
Trước mắt trong thời gian tới, các cơ quan có thẩm quyền cần giải thích,
hướng dẫn một số nội dung sau:
Một là, giải thích “công cụ, thiết bị, phần mềm có tính năng tấn công mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử” tại khoản 1 Điều 285. Chúng ta
đều biết rằng các công cụ, thiết bị, phần mềm có thể sử dụng cho nhiều mục
đích. PLHS cần xác định rõ phạm vi khái niệm “công cụ, thiết bị, phần mềm có
tính năng tấn công mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử” để các
cơ quan chức năng tránh áp dụng xử lý tràn lan, tùy tiện. Bản chất đó là các công
cụ, thiết bị, phần mềm có thể được sử dụng để xâm nhập bất hợp pháp, gây cản
trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Hai là, giải thích “chương trình tin học gây hại cho mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử” trong khoản 1 Điều 286 là chương trình tự
154
động hóa xử lý thông tin, gây ra hoạt động không bình thường cho mạng máy
tính, mạng viễn thông hoặc sao chép, sửa chữa, thay thế, xóa bỏ thông tin lưu trữ
trong mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.
Ba là, giải thích “hành vi phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử”: là hành vi cố ý
lan truyền làm lây nhiễm các chương trình vi-rút, các mã độc hoặc chương trình
tin học khác làm biến dạng, huỷ hoại các dữ liệu của máy tính, phương tiện điện
tử, gây hại cho các thiết bị điện tử trong mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
giữa các thiết bị điện tử với nhau.
Bốn là, giải thích, hướng dẫn cụ thể về các hành vi cản trở hoặc gây rối
loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử tại
Điều 287. Theo đó: (1) “Hành vi tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm,
dữ liệu điện tử” là hành vi cố ý xóa bỏ, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ
liệu điện tử mà không được sự đồng ý của chủ thể quản lý phần mềm, dữ liệu
điện tử đó; (2) “Ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử” là hành vi trái pháp luật, cố ý làm cho
việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
bị gián đoạn hoặc không thực hiện được, không sử dụng được; (3) “Hành vi
khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử” là hành vi cố ý của người không có quyền quản lý, vận
hành, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử làm ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
tiện điện tử bằng cách làm hư hỏng, xóa bỏ, làm suy giảm, thay thế hoặc nén dữ
liệu máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử.
Năm là, giải thích, hướng dẫn tình tiết: “Lợi dụng quyền quản trị mạng máy
tính, mạng viễn thông” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 287 và điểm b khoản 2
Điều 288 là: sử dụng quyền quản lý, vận hành, khai thác và duy trì hoạt động ổn
định hệ thống mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết bị điện tử của mình để thực
hiện hành vi phạm tội.
Sáu là, “thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân” quy định
tại khoản 1 Điều 288. Tính đến nay vẫn chưa có khái niệm “thông tin riêng hợp
pháp” mà chỉ có khái niệm về các thuật ngữ liên quan gần, được quy định trong
các văn bản pháp luật. Ví dụ: “thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch
vụ viễn thông” bao gồm: thông tin thuê bao viễn thông (tên, địa chỉ, số thuê bao
155
viễn thông và thông tin riêng khác mà người sử dụng cung cấp khi giao kết hợp
đồng với doanh nghiệp) và thông tin về việc sử dụng dịch vụ viễn thông (số thuê
bao viễn thông gửi, số thuê bao viễn thông nhận, vị trí thiết bị đầu cuối gửi, vị trí
thiết bị đầu cuối nhận, thời điểm gửi, nhận, thời lượng liên lạc, địa chỉ internet)
(khoản 4 Điều 6 Luật Viễn thông năm 2023). Hay như tại khoản 2 Điều 9 Luật
Công nghệ thông tin năm 2006, tổ chức, cá nhân khi hoạt động kinh doanh trên
môi trường mạng phải thông báo công khai trên môi trường mạng những thông
tin có liên quan, bao gồm: tên, địa chỉ địa lý, số điện thoại, địa chỉ thư điện tử;
thông tin về quyết định thành lập, giấy phép hoạt động hoặc giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh (nếu có); tên cơ quan quản lý nhà cung cấp (nếu có); thông
tin về giá, thuế, chi phí vận chuyển (nếu có) của hàng hóa, dịch vụ. Theo khoản
16 Điều 3 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ quy
định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng
(được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày
01/3/2018 và nay là Nghị định số 147/2024/NĐ-CP ngày 09/11/2024 của Chính
phủ), “thông tin cá nhân” là thông tin gắn liền với việc xác định danh tính,
nhân thân của cá nhân bao gồm: tên, tuổi, địa chỉ, số chứng minh nhân dân
hoặc số căn cước, số điện thoại, địa chỉ thư điện tử và thông tin khác theo quy
định của pháp luật. Cũng tại khoản 14, 15 Điều 3 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP
ngày 15/7/2013 nêu trên quy định: thông tin công cộng là “thông tin trên mạng
của một tổ chức, cá nhân được công khai cho tất cả các đối tượng mà không
cần xác định danh tính, địa chỉ cụ thể của các đối tượng đó”. Thông tin riêng là
“thông tin trên mạng của một tổ chức, cá nhân mà tổ chức, cá nhân đó không
công khai hoặc chỉ công khai cho một hoặc một nhóm đối tượng đã được xác
định danh tính, địa chỉ cụ thể”.
Qua các nội dung trên, “Thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân” được hiểu “là thông tin dữ liệu điện tử, gắn liền với mỗi cơ quan, tổ chức,
cá nhân đó, được pháp luật bảo đảm phù hợp, không được công khai hoặc chỉ
công khai cho một hoặc một nhóm đối tượng đã được xác định danh tính, địa chỉ
cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó”.
Bảy là, cần thống nhất khái niệm, giải thích về “thông tin trái với quy định
của pháp luật” và cụ thể các hành vi phạm tội của tội phạm để làm cơ sở nhận
diện, đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này nói chung, áp dụng TNHS đối
với tội phạm này nói riêng. Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể về hậu quả và các
156
mức độ để đánh giá tính nghiêm trọng của tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT theo hướng quy đổi thành tiền đối với những hậu quả như: Làm tê liệt,
gián đoạn, ngưng trệ, đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức dẫn tới thiệt hại là
cơ quan, tổ chức và người dân mất nhiều thời gian, tiền bạc mà không giải quyết
được công việc và cơ quan, tổ chức mất tiền trả lương cho người lao động của cơ
quan, tổ chức mình... Khi xem xét đến hậu quả phi vật chất có thể cân nhắc
những vấn đề: tần suất (số lần), khoảng thời gian người phạm tội thực hiện việc
gửi, phát tán, cung cấp nội dung vi phạm,... Ngoài ra, cần xác định rõ trách
nhiệm, nghĩa vụ, thời gian cung cấp thông tin của các nhà cung cấp mạng máy
tính, mạng viễn thông khi có yêu cầu đề nghị từ cơ quan chức năng, đảm bảo
quá trình điều tra, xử lý hành vi phạm tội được kịp thời, hiệu quả.
Tám là, “gây dư luận xấu” tại khoản 1 Điều 288 là gây ra những ý kiến
nhận xét, đánh giá tiêu cực, làm ảnh hưởng danh dự, gây giảm sút uy tín của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Chín là, “dẫn đến biểu tình” tại điểm g khoản 2 Điều 288. Việt Nam hiện
nay chưa có Luật Biểu tình cũng như các quy định khác của pháp luật về biểu tình
nên chưa có khái niệm chính thức “biểu tình là gì”. Về cơ bản có thể giải thích
“dẫn đến biểu tình” là dẫn đến việc tập trung đông người để thể hiện quan điểm,
thái độ về một sự việc hoặc biểu dương lực lượng với mục đích, ý đồ nhất định.
Mười là, giải thích, hướng dẫn hành vi “Lừa đảo trong thương mại điện tử,
thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc
giao dịch chứng khoán qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 290 là: hành vi sử dụng thủ đoạn gian dối, đưa ra những thông tin
sai sự thật trong lĩnh vực về sản phẩm, vấn đề trong lĩnh vực thương mại điện tử,
thanh toán điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn, kinh doanh đa cấp hoặc
giao dịch chứng khoán nhằm tạo niềm tin cho người chủ tài sản, người quản lý
tài sản, làm họ tưởng là thật và mua, bán hoặc đầu tư vào lĩnh vực đó; gửi tin
nhắn lừa trúng thưởng nhưng thực tế không có giải thưởng để chiếm đoạt phí
dịch vụ gửi tin nhắn; quảng cáo bán hàng trên mạng internet, mạng viễn thông
nhưng không giao hàng hoặc giao không đúng số lượng, chủng loại, chất lượng
thấp hơn hàng đã rao bán và các hành vi này không thuộc trường hợp quy định
tại Điều 174 BLHS năm 2015.
Mười một là, quy định hướng dẫn cụ thể việc áp dụng tình tiết “Thiết lập, cung
157
cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản” tại điểm đ khoản
1 Điều 290 là: việc thiết lập, cung cấp dịch vụ viễn thông, internet nhưng không được
cấp phép hoặc không đúng nội dung giấy phép được cấp để chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, cần tập trung hướng dẫn phân biệt các trường hợp dễ gây nhầm
lẫn về định tội danh đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, cụ thể:
Thứ nhất, phân biệt các trường hợp phạm tội quy định tại các điều: Điều
286, Điều 287 và Điều 289 BLHS hiện hành.
03 tội phạm này có nhiều điểm giao thoa, rất dễ nhầm lẫn khi định tội danh,
do đó cần có hướng dẫn cụ thể để phân biệt những điểm khác nhau cơ bản, làm
căn cứ định tội chuẩn xác. Điểm khác biệt cơ bản đó là ở mục đích và nhận thức
của người phạm tội, cụ thể:
Ở Điều 286: Người thực hiện hành vi phát tán chương trình tin học gây hại
cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử, dữ liệu
điện tử không nhận thức và xác định trước được đối tượng bị tấn công.
Ở Điều 287: Để thực hiện được hành vi cản trở hoặc hành vi gây rối hay
hành vi xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử thì người phạm tội phải nhận thức và xác định rõ đối tượng sẽ tấn công từ
đầu. Người phạm tội có thể xâm nhập trái phép, sau đó tự ý xóa, làm tổn hại
hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải
dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc có hành
vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử.
Các hành vi này khác nhau ở mục đích của việc xâm nhập trái phép vào
mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử: nếu để gây rối loạn hoặc
cản trở hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thì
xử lý theo Điều 287, nếu nhằm chiếm đoạt tài sản thì xử lý theo Điều 290, còn
lại thì sẽ xử lý theo Điều 289. Trong mối quan hệ giữa Điều 286, 287 và 289 thì
Điều 286 và Điều 289 là điều luật chung, còn Điều 287 là điều luật cụ thể [44].
Thứ hai, phân biệt các trường hợp quy định tại Điều 290 với Điều 173 và
Điều 174 BLHS hiện hành.
Các tội này có sự khác nhau cơ bản về hành vi trong mặt khách quan của
cấu thành tội phạm, cụ thể:
Ở Điều 290: Người phạm tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử là công cụ trực tiếp để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của
158
nạn nhân, thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, d, đ Khoản 1
Điều 290 BLHS năm 2015. Công cụ đó đóng vai trò quan trọng, quyết định vì
nếu không có mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thì người
phạm tội sẽ không chiếm đoạt được tài sản.
Ở Điều 173, 174: Khi hành vi phạm tội không thỏa mãn dấu hiệu được quy định
tại Điều 290 nhưng lại thoả mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm của “Tội trộm cắp tài
sản” (Điều 173) hoặc “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174) thì người phạm tội
sẽ bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng TNHS theo quy định đối với các tội phạm này.
Tiếp theo, về khó khăn, bất cập trong việc xóa án tích đối với người bị kết
án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, căn cứ khoản 4 Điều 70 BLHS năm
2015 thì Toà án sẽ không cấp giấy chứng nhận xoá án tích trong trường hợp
đương nhiên được xoá án tích mà việc này được thực hiện bởi cơ quan quản lý
cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp khi có yêu cầu của những người này. Trách nhiệm
của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là phải cập nhật thông tin về
tình hình án tích của người bị kết án. Vậy nên, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải có
văn bản hướng dẫn cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan quản
lý cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp này, giúp tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo
chính xác thời hạn cấp Phiếu Lý lịch tư pháp trong những trường hợp đương
nhiên được xóa án tích. Việc này chắc chắn sẽ được xem xét, thực hiện nhanh
chóng và thuận tiện khi Đảng, Nhà nước đã thống nhất chủ trương chuyển nhiệm
vụ quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp và thực hiện dịch vụ công cấp Phiếu lý
lịch tư pháp do Bộ Tư pháp quản lý về Bộ Công an quản lý. Bên cạnh đó, các cơ
quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn áp dụng
thống nhất trong trường hợp người bị kết án về các tội phạm nói chung, trong đó
có tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng đã chấp hành xong hình phạt
chính, hết thời gian thử thách án treo, nhưng chưa thi hành hình phạt bổ sung,
chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác trong bản án của họ
đã được Tòa án tuyên vì lý chưa nhận được thông báo và quyết định thi hành án
của cơ quan thi hành án dân sự thì vẫn đương nhiên được xóa án tích. Điều này
thể hiện nguyên tắc nhân đạo, tính hướng thiện trong quy định và áp dụng TNHS
đối với người bị kết án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta xoay
quanh chế định án tích.
Mặt khác, một hướng đi mới đã được khẳng định trong những năm gần đây,
159
đó là tăng cường áp dụng án lệ đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế giới, án lệ khi được quy định và thực
hiện tại Việt Nam sẽ là một công cụ pháp lý để giúp cho Tòa án và các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng có định hướng thống nhất trong việc giải quyết các
vụ án nói chung, vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng góp
phần vào giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, nhất là
trong lúc nhiều quy định của pháp luật còn thiếu cụ thể, rõ ràng.
Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW từ ngày 24/5/2005 về
"Chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật định hướng đến năm 2020" (nay
được thay bằng Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành
Trung ương) và giao cho Tòa án nhân dân tối cao nhiệm vụ phát triển án lệ.
Cũng tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã xác định rõ, Tòa án nhân dân tối cao có
nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật,
phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Mới đây nhất năm 2024, Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân cũng quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ: “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có
tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ” (điểm d khoản 3
Điều 48). Tại khoản 5 Điều 77 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 quy
định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao đó là: “Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng nghị quyết của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bảo đảm áp dụng thống nhất pháp
luật trong xét xử, phát triển án lệ; công bố án lệ”. Trước đó, ngày 18/6/2019,
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã có Nghị quyết số 04/2019/NQ-
HĐTP về "Quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ". Trên cơ sở này, đối
với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có thể trông đợi vào án lệ như một
mô hình mẫu trong việc nhận định, đánh giá các tình tiết phức tạp, gây nhiều
tranh cãi cũng như về việc áp dụng pháp luật để định tội danh và xác định TNHS
nhằm hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý để xử lý loại tội phạm này trong thời gian tới.
4.3.2. Chú trọng giám đốc kiểm tra việc xét xử tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Giám đốc kiểm tra việc xét xử là việc làm của Tòa án cấp trên đối với Tòa án
160
cấp dưới, nhằm đôn đốc, kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới, bảo đảm
việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Qua công tác giám đốc kiểm tra
việc xét xử, Tòa án cấp trên kịp thời phát hiện những sai lầm, vướng mắc của Tòa
án cấp dưới, từ đó có phương án khắc phục những sai lầm thông qua việc kháng
nghị, rút kinh nghiệm và tháo gỡ vướng mắc trong trường hợp các quy định của
pháp luật dẫn đến những cách hiểu không thống nhất.
Tại khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc
hội về việc thi hành BLHS năm 2015 đã giao “Tòa án nhân dân tối cao thông qua
tổng kết việc áp dụng pháp luật, giám đốc việc xét xử bảo đảm áp dụng thống nhất
pháp luật trong xét xử các quy định về “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả
rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số
lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc
biệt lớn”; khi cần thiết, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử
các điều, khoản, điểm khác trong Bộ luật Hình sự năm 2015”. Theo đó, cần có
hướng dẫn cụ thể cách xác định giá trị thiệt hại để áp dụng pháp luật cho thống nhất
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Đối với việc truy cứu TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT,
công tác giám đốc kiểm tra việc xét xử càng cần phải đề cao hơn nữa. Bởi lẽ một
mặt các vụ án trong lĩnh vực CNTT, MVT thường là những vụ án tương đối
phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác, các đối
tượng đã triệt để lợi dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong việc thực hiện tội
phạm. Trong quá trình giải quyết các vụ án này, những người trực tiếp thụ lý
gặp phải nhiều khó khăn do hạn chế về trình độ chuyên môn kỹ thuật liên quan
đến phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội của các đối tượng. Do
vậy, muốn hoạt động áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT đạt hiệu quả thì đòi hỏi Tòa án cấp trên phải thường xuyên quan tâm đến
công tác giám đốc kiểm tra việc xét xử của các Tòa án cấp dưới.
4.3.3. Nâng cao năng lực pháp luật, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ áp
dụng pháp luật
Đội ngũ cán bộ đóng vai trò quyết định thành công hay hạn chế của hoạt
động áp dụng TNHS đối với tội phạm nói chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT nói riêng. Từ những hạn chế về năng lực pháp luật, trình độ chuyên môn
161
nghiệp vụ cũng như sự thiếu kinh nghiệm của đội ngũ những người áp dụng
pháp luật là nguyên nhân trực tiếp, ảnh hưởng đến hiệu quả TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Chúng ta cần có những giải pháp triệt để,
đồng bộ để góp phần giải quyết vấn đề này, cụ thể là:
Thứ nhất, phải quán triệt, nâng cao nhận thức pháp luật của cán bộ các cơ quan
tiến hành tố tụng về PLHS nói chung, các cán bộ trực tiếp nghiên cứu, áp dụng
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng. Việc này cần tiến
hành thường xuyên, liên tục để cập nhật những vấn đề mới, thành tựu mới về khoa
học kỹ thuật, công nghệ, những vấn đề pháp lý đặt ra trong công tác phòng ngừa,
đấu tranh với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT mang hơi thở thời đại công
nghiệp 4.0, thích ứng nhanh chóng với biến đổi, phát triển về khoa học kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến. Liên ngành các cơ quan tư pháp ở Trung ương, đặc biệt là Tòa
án nhân dân tối cao cần tích cực tổ chức các Hội nghị, Hội thảo, tăng cường trao
đổi, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT để mỗi cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng từ Trung ương đến
địa phương đều có sự nhận thức đầy đủ, toàn diện về tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT và TNHS đối với tội phạm này.
Thứ hai, phải tăng cường trang bị cho người tiến hành tố tụng kiến thức
chuyên môn và đào tạo, bồi dưỡng nội dung pháp lý về CNTT, MVT cho họ.
Đây thực sự là những điểm yếu của đội ngũ cán bộ áp dụng TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong thời gian qua. Đến nay chỉ có một số
đơn vị nghiệp vụ chuyên trách của Công an nhân dân là được đào tạo chuyên sâu
về an ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, trong đó có
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, còn lại, đa số Điều tra viên, cán bộ điều
tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán là chưa được đào tạo chuyên sâu trong lĩnh vực
này. Do đó, để đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả loại tội phạm này, nhất là việc
áp dụng đúng đắn, hiệu quả TNHS đối với tội phạm này thì rất cần thiết phải đào
tạo, bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn về CNTT, MVT cũng như những nội
dung pháp lý liên quan đến áp dụng TNHS đối với tội phạm này cho những
người tiến hành tố tụng, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán, cán bộ Tòa án các cấp.
Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng: Trước mắt cần trang bị những kiến thức cơ
bản về CNTT, MVT như cấu tạo, cơ chế vận hành, hoạt động của máy tính,
mạng máy tính, mạng viễn thông, những phương thức, thủ đoạn sử dụng mạng
máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để thực hiện các tội phạm nói
162
chung, tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT tại mục 2, Chương XXI, BLHS
năm 2015 nói riêng, các nguy cơ, hậu quả có thể xảy ra và cách thức phòng
ngừa, phát hiện, phục vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm. Tùy thuộc vào chức
năng, nhiệm vụ của mình mà Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán sẽ được
trang bị kiến thức, kỹ năng với các nội dung phù hợp, chẳng hạn như: Điều tra
viên cần cần biết phát hiện ra tội phạm, cách thức đối tượng đã thực hiện tội
phạm thế nào, biết phát hiện, thu thập, bảo quản và sử dụng chứng cứ điện tử.
Đối với Kiểm sát viên, Thẩm phán cần được đào tạo, bồi dưỡng để hiểu ý nghĩa
của từng loại chứng cứ điện tử và sử dụng tốt nhất chứng cứ điện tử trong chứng
minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội tại phiên tòa.
Về hình thức đào tạo, bồi dưỡng, các cấp, các ngành liên quan có thể tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng theo từng đối tượng, gắn với yêu cầu và mục tiêu cụ thể,
theo từng chuyên đề với thời gian phù hợp. Chuyên đề bồi dưỡng có thể tập
trung vào kiến thức, kỹ năng xử lý, đặc biệt là áp dụng TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS năm 2015 hoặc các vấn đề đáng chú ý
khác theo từng lĩnh vực, khía cạnh liên quan đến các nội dung công việc.
Thứ ba, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ sở đào tạo tư pháp cần thường
xuyên tập huấn, trang bị kinh nghiệm đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT nói chung, kinh nghiệm áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói
riêng. Thực tế cho thấy nhiều cán bộ là những người tiến hành tố tụng rất thiếu kiến
thức và kinh nghiệm tố tụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nhất là
những địa bàn ít xảy ra loại án này. Do vậy các cơ quan tiến hành tố tụng cần phối
hợp các cơ sở đào tạo tư pháp, đặc biệt là các Học viện, trường Công an nhân dân,
Học viện Tòa án để tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm về
tố tụng đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, trong đó chú trọng nội dung
áp dụng TNHS đối với loại tội phạm này nói riêng. Các Tòa án địa phương nơi xét
xử nhiều vụ án trong lĩnh vực CNTT, MVT cần tích cực trao đổi, chia sẻ và truyền
đạt kinh nghiệm cho các đơn vị, địa phương khác học tập. Đồng thời liên tục cập
nhật những kiến thức mới, kinh nghiệm mới trong áp dụng TNHS đối với tội phạm
này để các cơ quan và người tiến hành tố tụng nhanh chóng cập nhật thực tiễn và xử
lý hiệu quả tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT.
Thứ tư, phải lưu ý cân nhắc lựa chọn để phân công cán bộ có năng lực pháp
luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm trong quá trình áp dụng
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT, nhất là cán bộ có kiến thức
163
hiểu biết chuyên sâu về lĩnh vực CNTT, MVT vốn rất đặc thù này. Bên cạnh yêu
cầu về năng lực pháp luật và chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm thì những cán
bộ áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng phải có
đạo đức nghề nghiệp tốt, thực sự “chí công vô tư”, đảm bảo khách quan, công
bằng trong khi thực thi PLHS, tránh tình trạng “nặng - nhẹ”, tùy nghi vô nguyên
tắc. Lựa chọn và bố trí được đội ngũ cán bộ như vậy sẽ đảm bảo quyết định cho
việc áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT được thuận lợi
và mang lại hiệu quả tốt.
Cuối cùng, phải quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, thường
xuyên khích lệ, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ áp
dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT để họ thực sự yên tâm,
tận tụy, khách quan trong công tác, tránh xa các biểu hiện tiêu cực, ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động tư pháp nói chung, áp dụng TNHS đối với tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng.
4.3.4. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông nói chung cũng như áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này
nói riêng
Với đặc trưng là sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử là công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm cũng như hoạt động phạm
tội xâm phạm đến an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử,
dữ liệu điện tử, do vậy, để áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT nói riêng, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm này nói
chung thì phải đặc biệt chú trọng việc đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị, cơ sở vật
chất kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công tác.
Trong bối cảnh tình hình hiện nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày
càng phát triển mạnh mẽ, trong đó có sự tiến bộ vượt bậc của lĩnh vực CNTT,
MVT. Các đối tượng phạm tội cũng triệt để lợi dụng CNTT, MVT để thực hiện
tội phạm với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt, kỹ thuật che giấu cao, gây khó
khăn trong công tác phòng ngừa, phát hiện và điều tra, xử lý tội phạm. Như đã
phân tích ở trên, cùng với việc “hiện đại hóa” về con người thì phải quan tâm
“hiện đại hóa” về phương tiện, trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật, bằng không
chúng ta sẽ bị lạc hậu, “chậm trễ” hơn tội phạm trên con đường phát triển CNTT,
164
MVT như vũ bão hiện nay. Theo đó, các cơ quan chức năng phải được ưu tiên,
đầu tư mua sắm, trang cấp những trang thiết bị hiện đại, những phương tiện kỹ
thuật có tính năng, tác dụng tốt để phát hiện, xử lý đối với loại tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT. Có như vậy, mới có cơ sở vững chắc để áp dụng hiệu quả
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta.
Trước sự vận động và phát triển của khoa học công nghệ, nhiều vấn đề mới
đã và đang đặt ra thách thức cho hoạt động phòng, chống tội phạm, như các thực
thể trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật, chuỗi khối Blockchain,... Nhưng nếu
chúng ta biết nắm bắt và vận dụng được những thành tựu của nó thì sẽ giúp ích
rất nhiều cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT. Trong đó có việc phục vụ để thực hiện hiệu quả TNHS đối với tội phạm
này. Điển hình như việc sử dụng AI trong điều tra, giải mã các hành vi phạm tội,
trợ giúp các Thẩm phán trong việc định tội danh và áp dụng TNHS phù hợp và
quan trọng nữa là góp phần vào việc dự báo tình hình tội phạm và tư vấn giải
pháp, ứng dụng phục vụ công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT. Muốn thực hiện điều đó, cần có ưu tiên đầu tư mạnh mẽ về kinh phí và cơ
chế đặc thù để mua sắm máy móc, trang bị hiện đại, xây dựng và vận hành các
giải pháp, phần mềm chuyên dụng phục vụ công tác điều tra, xử lý tội phạm và
áp dụng TNHS đối với người phạm tội đó.
4.3.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế đáp ứng yêu cầu áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông
Với tính chất quốc tế, hành vi phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT được
thực hiện không bị giới hạn bởi không gian, khoảng cách địa lý. Nó đã trở thành
vấn đề mang tính toàn cầu, là nguy cơ, thách thức đe dọa an ninh phi truyền thống.
Trong giai đoạn 2013 - 6/2024 ở nước ta, tỷ lệ bị cáo là người nước ngoài bị xét
xử về tội phạm này là 5,98% (khá cao so với những nhóm tội phạm khác). Chưa
kể là tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT còn liên quan rất nhiều đến yếu tố
nước ngoài (người phạm tội trốn ra nước ngoài, trung tâm máy chủ tấn công ở
nước ngoài, nguồn tài sản (tiền) chiếm đoạt bị chuyển vào tài khoản ở ngân hàng
nước ngoài hoặc thậm chí có trường hợp nạn nhân ở nước ngoài,..). Những vấn đề
trên đặt ra yêu cầu rất cấp thiết trong việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế, góp phần
phục vụ hiệu quả áp dụng TNHS đối với tội phạm này trong thời gian tới.
Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam chúng ta mới chỉ ký kết Hiệp định tương
trợ tư pháp với 27 quốc gia; nhiều quy định của pháp luật Việt Nam chưa tương
thích với luật pháp các nước khác, nên gặp khó khăn trong thực hiện ủy thác 165
tương trợ tư pháp cũng như hợp tác quốc tế trong đấu tranh, xử lý tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT. Không chỉ riêng nước ta mà tất cả các quốc gia trên thế
giới đều phải hợp tác với nhau để chung tay giải quyết loại tội phạm nguy hiểm,
nhức nhối này. Thời gian tới, việc hợp tác quốc tế nhằm phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói
riêng cần tập trung vào một số vấn đề như sau:
Một là, tăng cường ký kết, áp dụng các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế
nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đặc biệt tới đây khi Việt Nam được Liên hợp quốc
lựa chọn là địa điểm ký kết thông qua Công ước của Liên hợp quốc về tội phạm
mạng năm 2025 (Công ước Hà Nội). Khi gia nhập Công ước này sẽ giúp nước ta
hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật quốc gia, tương thích hơn với pháp luật của
các nước khác trên thế giới, tạo khung khổ pháp lý đấu tranh hiệu quả đối với tội
phạm này không chỉ ở phạm vi trong nước mà còn bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Điều này rất phù hợp trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế gắn với đảm
bảo lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam hiện nay.
Hai là, tổ chức đa dạng các hình thức hợp tác cùng các nước, các cơ quan,
tổ chức quốc tế nhằm trao đổi thông tin, tình hình, chia sẻ kinh nghiệm phòng,
chống tội phạm trong lĩnh cực CNTT, MVT cũng như áp dụng TNHS đối với tội
phạm này, như: hội thảo, hội nghị, tọa đàm, trao đổi, tư vấn trực tiếp với quy mô,
tính chất quốc tế phù hợp.
Ba là, đẩy mạnh hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong quá trình tố tụng
đối với các vụ án về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Phạm vi tương trợ tư
pháp nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong lĩnh vực này thông qua
các nội dung cụ thể như: tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan; triệu tập
người làm chứng, người giám định và nhất là các hoạt động thu thập, cung cấp
chứng cứ, trao đổi thông tin, xác minh thu hồi tài sản hay dẫn độ người phạm tội.
Bốn là, thông qua hợp tác quốc tế để nhận chuyển giao, tiếp nhận trang bị,
mua sắm và sử dụng hiệu quả các trang thiết bị chuyên dùng trong đấu tranh, xử
lý cũng như áp dụng TNHS đối với loại tội phạm này một cách thuận lợi. Đặc
biệt là tranh thủ nguồn tài chính hỗ trợ để hiện đại hóa các phương tiện kỹ thuật
chuyên dùng phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT của lực lượng chức năng.
166
Năm là, cử cán bộ đi tập huấn, đào tạo nghiệp vụ về phòng, chống tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung, nghiệp vụ trong xét xử, áp dụng TNHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng ở các nước trong khu vực
và trên thế giới, nhất là những nước có nền khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện
đại, có trình độ lập pháp và kinh nghiệm áp dụng pháp luật hiệu quả trong quản
lý xã hội cũng như phòng, chống tội phạm CNTT, MVT.
Tiểu kết Chương 4
Từ kết quả nghiên cứu về bối cảnh, sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện PLHS
đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và yêu cầu bảo đảm áp dụng hiệu
quả TNHS đối với tội phạm này, Nghiên cứu sinh rút ra một số kết luận đó là:
Một là, để áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu, đó là: đảm bảo nguyên tắc pháp chế; bảo
vệ công lý, quyền con người, quyền công dân trong chính sách hình sự; tiếp tục
đổi mới, cải cách tư pháp, đặc biệt là tư pháp hình sự, phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và hội nhập quốc tế.
Hai là, hoàn thiện các quy định về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
vẫn tiếp tục phải được đặt ra cho dù BLHS năm 2015 đã có quy định. Điều này
xuất phát từ những bất cập chưa được BLHS năm 2015 khắc phục triệt để, từ
chính những bất cập mới của BLHS năm 2015 và đặc biệt là từ thực tiễn áp
dụng TNHS đối với tội phạm này hiện nay rất phức tạp, các hành vi vi phạm mới
đang biến động tinh vi, nhiều vấn đề mới liên quan đã nảy sinh cần được cụ thể
hóa, giải quyết chặt chẽ trên cơ sở quy định của pháp luật.
Ba là, việc hoàn thiện quy định về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT và TNHS đối với các tội phạm này trong BLHS là cần thiết, khách quan
theo hướng thực hiện chính sách hình sự nhằm nâng cao hiệu quả trừng trị, kết
hợp xu hướng nhân đạo, đề cao tính phòng ngừa và phát huy tính hướng thiện, ý
thức khắc phục hậu quả của người phạm tội. Từ vấn đề này, Nghiên cứu sinh
cũng đưa ra các đề xuất cụ thể về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT như áp dụng hình phạt tù chung thân đối với định khung nặng nhất trong
cấu thành tội phạm của Điều 290 hay như áp dụng biện pháp tư pháp buộc người
phạm tội phải công khai xin lỗi.
Bốn là, việc hoàn thiện PLHS nói chung và các quy định về TNHS đối với
tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói riêng cần hướng tới xây dựng một hệ
167
thống pháp luật đồng bộ, tương thích, có các văn bản hướng dẫn, giải thích kịp
thời các quy định của BLHS trong thời gian tới, đẩy mạnh việc ban hành án lệ để
việc định tội danh và áp dụng TNHS trong các vụ án tương tự về sau sẽ đồng bộ,
thống nhất và thuyết phục hơn.
Năm là, bên cạnh giải pháp hoàn thiện PLHS, cần có các giải pháp bảo
đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
như: tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật;
tổng kết thực tiễn và phát triển hệ thống án lệ; chú trọng giám đốc kiểm tra việc
xét xử tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cũng như nâng cao năng lực pháp
luật, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức,
trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật. Ngoài ra là giải
pháp đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và hợp tác quốc tế nhằm phục
vụ đấu tranh, xử lý tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung cũng như
168
áp dụng TNHS đối với tội phạm này nói riêng.
KẾT LUẬN
TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam
là vấn đề khoa học có tính cấp thiết cao, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Trong thời gian qua, trên
thế giới và trong nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về TNHS cũng như về
nhóm tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên
cứu chuyên sâu ở cấp độ Luận án tiến sĩ về TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực
CNTT, MVT theo PLHS Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu Luận án “Trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Nghiên cứu sinh rút ra một số kết luận
quan trọng sau:
1. TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT chính là hậu quả
pháp lý bất lợi mà người phạm tội trong lĩnh vực này phải gánh chịu trước nhà
nước và pháp luật, được thực hiện trong phạm vi của quan hệ PLHS giữa một bên
là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Nghiên cứu lý luận về TNHS đối với tội
phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT cho thấy sự phức tạp trong góc độ lập pháp và
trong thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm này nhằm bảo đảm các nguyên tắc
cơ bản của TNHS: hợp lý, có cơ sở, công bằng, bình đẳng, nhân đạo và phải gánh
chịu sự tác động của TNHS, đồng thời đáp ứng yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT trong tình hình mới.
2. Qua nghiên cứu các quy định của PLHS Việt Nam từ năm 1999 đến nay
về các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đối với các tội phạm này
cũng như tham khảo kinh nghiệm của pháp luật quốc tế liên quan có thể khẳng
định: Quy định của PLHS về tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT nói chung và
TNHS đối với tội phạm này nói riêng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện qua các
lần sửa đổi BLHS, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng hiệu quả TNHS đối
với tội phạm này, góp phần bảo đảm an ninh, trật tự.
3. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, luận án cung cấp những số liệu khách
quan, trung thực, phản ánh sinh động thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong
lĩnh vực CNTT, MVT ở nước ta trong giai đoạn từ năm 2013 đến 6/2024. Qua đó
thấy rằng: tình hình tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT có sự biến động phức tạp,
nhiều nhất là Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290). Luận án đã làm rõ việc áp dụng các hình
169
phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư pháp, án tích đối với các chủ thể
phạm tội này... Thẳng thắn nhìn nhận còn có những hạn chế, thiếu sót trong quy định
của PLHS hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT, đó là: còn mâu thuẫn về áp dụng tội danh và các tình tiết, việc
quyết định hình phạt, nhất là những vướng mắc, bất cập trong các quy định của
PLHS hiện nay liên quan đến áp dụng TNHS đối với tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT. Những hạn chế đó đến từ những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác
nhau, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ tính khó khăn, đặc thù trong quá trình xử
lý các vụ án phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT; từ sự thiếu đồng bộ, thống nhất
trong quy định của PLHS liên quan cũng như năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ khoa học công nghệ của cán bộ và trang bị, phương tiện kỹ thuật của các
cơ quan có thẩm quyền còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
4. Đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT là nhiệm
vụ vô cùng quan trọng, luôn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức về khoa học
kỹ thuật và công nghệ. Để tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, hiệu quả cho việc phòng,
chống loại tội phạm này, cần đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống PLHS về tội phạm
trong lĩnh vực CNTT, MVT và TNHS đối với tội phạm này cũng như đưa ra các
giải pháp tích cực, khả thi nhằm bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội
phạm đó. Đối với việc hoàn thiện hệ thống PLHS cần chú ý quán triệt thực hiện
chính sách hình sự để đảm bảo công lý, công bằng xã hội, kết hợp xu hướng nhân
đạo, song cũng cần đề cao tính răn đe, phòng ngừa và phát huy ý thức khắc phục
hậu quả của người phạm tội trong lĩnh vực CNTT, MVT. Đối với các giải pháp
bảo đảm áp dụng hiệu quả TNHS đối với tội phạm này, như: tăng cường công tác
giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; tổng kết thực tiễn và phát
triển hệ thống án lệ; chú trọng giám đốc kiểm tra việc xét xử tội phạm trong lĩnh
vực CNTT, MVT cũng như nâng cao năng lực pháp luật, ý thức pháp luật, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp của
đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật; đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật và hợp tác quốc
170
tế cần phải được tiến hành khẩn trương, thường xuyên và đồng bộ./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1.
Dương Thanh An (2010), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
môi trường, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
2
Ban Chấp hành Trung ương (2022), Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày
09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến
lược hoàn thiện hệ thống pháp luật định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một
số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, Hà Nội.
6. Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và truyền
thông, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao (2012),
Thông
tư
liên
tịch
số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTT&TT-
VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012 về hướng dẫn áp dụng quy định
của Bộ luật Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin và viễn thông, Hà Nội.
7. Bộ Công an (2021), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội
phạm - Tập 2), Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
8.
Bộ Thông tin và Truyền thông (2013), Thông tư số 19/2013/TT-BTTTT ngày
02/12/2013 quy định tần số cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu nạn trên biển
và hàng không dân dụng, Hà Nội.
9.
Chính phủ (2013), Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 quy
định về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên
mạng, Hà Nội.
10. Chính phủ (2017), Nghị định số 117/2018/NĐ-CP ngày 11/9/2018 về việc
giữ bí mật, cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, Hà Nội.
171
11. Chính phủ (2018), Nghị định số 27/2018/NĐ-CP ngày 01/3/2018 về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày
15/7/2013 của Chính phủ quy định về quản lý, cung cấp và sử dụng
dịch vụ internet và thông tin trên mạng, Hà Nội.
12. Chính phủ (2020), Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông,
tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, Hà Nội.
13. Chính phủ (2022), Nghị định số 14/2022/NĐ-CP ngày 27/01/2022 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày
03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông
tin và giao dịch điện tử và Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày
07/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản, Hà Nội.
14. Chính phủ (2022), Quyết định số 964/QĐ-TTg ngày 10/8/2022 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia,
chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến năm 2025,
tầm nhìn 2030, Hà Nội.
15. Lê Cảm (2005), Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
16. Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự,
(Phần chung), Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17
Lê Văn Cảm (2019), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự
- phần chung, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Nguyễn Kim Chi (2016), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật
tự quản lý hành chính, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
20. Lê Quang Chiều (2012), Mối liên hệ giữa trách nhiệm hình sự và hình
phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội.
21. Nguyễn Chí Công (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
172
22. Lại Kiên Cường (2010), Phòng ngừa tội phạm trong lĩnh vực thương
mại điện tử của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án Tiến sĩ, Học
viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
23. Lê Đăng Doanh - Cao Thị Oanh (2016), Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự 2015, Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.
24. Trần Văn Dũng (2003), Trách nhiệm hình sự của người chưa thành
niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày
09/11/2022 về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội.
26 Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình “Lý luận chung về nhà nước
và pháp luật”, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
27 Nguyễn Minh Đoan (2014), Giáo trình “Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28
Phạm Minh Đô, Trần Nguyễn Bảo Ngân (2023), Một số đánh giá về tội
“Đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn
thông”, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ngày 07/8/2023, Hà Nội.
29
Lê Bá Đức, Lê Nhật Hạ (2023), Hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi
phát tán tin giả trên không gian mạng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, kỳ
1, số 392, tháng 11/2023, Hà Nội.
30. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2000), Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 về hướng dẫn áp dụng một số quy
định phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
31. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2019), Nghị quyết số
04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 về quy trình lựa chọn, công bố và
áp dụng án lệ, Hà Nội.
32. Phạm Mạnh Hùng (2004), Chế định trách nhiệm hình sự theo luật hình
sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
33. Trần Đoàn Hạnh (2021), Phòng ngừa tình hình tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và viễn thông ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
34. Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội.
173
35. Nguyễn Văn Hương, “Đánh giá tính thống nhất giữa Bộ luật Hình sự
năm 2015 với Luật Công nghệ thông tin” thuộc đề tài cấp Bộ (2016),
Nghiên cứu tính thống nhất giữa Bộ luật hình sự trong việc quy định
các tội phạm với các luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ
Tư pháp, do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ nhiệm đề tài.
36. Nguyễn Thị Phương Hoa (2020), Bàn về mối quan hệ giữa trách nhiệm
hình sự của cá nhân với trách nhiệm hình sự của pháp nhân và một số
kiến nghị, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, số 139 (9/2020).
37. Nguyễn Thị Phương Hoa (2024), Quy định của Bộ tổng luật Hoa Kỳ về
tội phạm liên quan đến công nghệ thông tin, mạng viễn thông, Kỷ yếu
Hội thảo “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn
thông: Những hạn chế trong quy định, thực tiễn áp dụng pháp luật và
giải pháp khắc phục”, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Nguyễn Thị Phương Hoa (2024), Thực tiễn xác định chủ thể của tội
phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và những
hạn chế, Kỷ yếu Hội thảo “Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, mạng viễn thông: Những hạn chế trong quy định, thực tiễn áp dụng
pháp luật và giải pháp khắc phục”, Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh.
39. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Phần các tội phạm), quyển 2,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
40. Nguyễn Ngọc Hòa (2022), Trách nhiệm hình sự, hình phạt và các biện
pháp hình sự khác, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
41. Nguyễn Ngọc Hòa (2018), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần các tội phạm), Quyển 2,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
42. Trần Văn Hòa (2011), An toàn thông tin và công tác phòng chống tội
phạm sử dụng công nghệ cao, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
43. Trần Minh Hưởng (2011), Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam, Tập 1,
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
174
44. Nguyễn Quý Khuyến (2020), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông
tin, mạng viễn thông theo Luật Hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ,
Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
45. Nguyễn Văn Khoát (2024), Định tội danh đối với các tội phạm trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông, Tạo chí Khoa học Kiểm
sát, số 09 (81)/2024, Hà Nội.
46. Phạm Văn Lợi (Chủ biên), Trần Đình Nhã và Lê Cảm (2006), Chính
sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp,
Hà Nội.
47. Phạm Văn Lợi (2007), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin,
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
48. Trần Thị Hồng Lê (2009), Các tội phạm trong lĩnh vực tin học theo
Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
49. Trần Văn Luyện (1998), Sách chuyên khảo Trách nhiệm hình sự đối với
các tội phạm về ma túy, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Trần Văn Luyện (2000), Sách tham khảo Các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
51. Trần Văn Luyện và nhóm tác giả (2017), Bình luận khoa học Bộ luật
Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nhà xuất bản Công an
nhân dân, Hà Nội.
52. Hoàng Quảng Lực (2022), Định tội đối với hành vi sử dụng mạng xã hội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, ngày
26/3/2022.
53. Ngô Nhất Linh (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm an
ninh quốc gia, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
54. Nguyễn Đức Mai (2013), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999
(Phần các tội phạm), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Nam (2008), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến
sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
175
56. Cao Thị Oanh (2008), Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
57. Đinh Văn Quế (1999), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đinh Văn Quế (2020), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, phần thứ nhất
- Những quy định chung, Nhà xuất bản Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
59. Hoàng Thị Kim Quế (2015), Giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật”,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
60. Quốc hội (2006), Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Hà Nội.
61. Quốc hội (2008), Luật Công nghệ cao năm 2008, Hà Nội.
62. Quốc hội (2009), Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009), Hà Nội.
63. Quốc hội (2017), Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Hà Nội.
64. Quốc hội (2017), Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc
thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và về
hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan
điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015,
Hà Nội.
65. Quốc hội (2018), Luật An ninh mạng năm 2018, Hà Nội.
66. Quốc hội (2018), Luật An toàn thông tin mạng năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2018), Hà Nội.
67. Quốc hội (2021), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2021), Hà Nội.
68. Quốc hội (2022), Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009 (sửa đổi, bổ sung
năm 2022), Hà Nội.
69. Quốc hội (2023), Luật Viễn thông năm 2023, Hà Nội.
70. Quốc hội (2024), Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, Hà Nội.
71. Nguyễn Sơn (2002), Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam,
Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
72. Hồ Sỹ Sơn (2010), Bàn về khái niệm, bản chất, nội dung và giới hạn của
trách nhiệm hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010, Hà Nội
176
73. Hồ Sỹ Sơn (2020), Cơ chế tác động của pháp luật hình sự, Tạp chí
Nhân lực khoa học xã hội, số 02/2020, Hà Nội.
74. Hồ Sỹ Sơn (2020), Sự trừng trị trong Luật Hình sự, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 6/2020, Hà Nội.
75. Hồ Sỹ Sơn (2021), Giới hạn và các giai đoạn tác động của pháp luật
hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2021, Hà Nội.
76. Trần Anh Tuấn - Hoàng Duy Hiệp (2022), Hoàn thiện pháp luật về phòng,
chống các tội phạm trên lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông,
Tạp chí Khoa học kiểm sát, số chuyên đề 02/2022, Hà Nội.
77. Phạm Minh Tuyên (2006), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về
ma túy trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Hà Nội.
78. Nguyễn Ngọc Tính (2017), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về chức vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
79. Trần Thanh Thảo (2013), Tội phạm công nghệ thông tin trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
80. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, tập 2, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
81. Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
82. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2021), Nghị quyết số 08/2021/NQ-
UBTVQH ngày 26/11/2021 về giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật
Hình sự năm 2015, Hà Nội.
83. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2007), Tội phạm trong lĩnh vực
bưu chính - viễn thông và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh, Nhà xuất
bản Công an nhân dân, Hà Nội.
84. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
85. Võ Khánh Vinh (1995), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình
sự Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Võ Khánh Vinh (1996), Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội
phạm về chức vụ, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
177
87. Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (phần
chung), Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
88. Võ Khánh Vinh, Võ Khánh Linh (2024), Trách nhiệm hình sự: tiếp cận
chính sách, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Trách nhiệm hình
sự, miễn và giảm trách nhiệm hình sự: Lý luận và thực tiễn”, Trường
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
89. Nguyễn Hiếu Vinh (2012), Hoạt động của Chính phủ trong phòng
ngừa tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Hà Nội.
90. Trần Thị Quang Vinh (2002), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội.
91. Trịnh Tiến Việt (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về miễn trách
nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
92. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Trịnh Tiến Việt (2022), Giáo trình Trách nhiệm hình sự và hình phạt,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
94. Trịnh Tiến Việt (2021), Tổng quan về Luật Hình sự Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
95. Nguyễn Như Ý (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
II. TÀI LIỆU TIẾNG NƯỚC NGOÀI
96. Piôntkôvxki A.A, Sách chuyên khảo Lý luận về tội phạm theo luật hình
sự Xô viết, Liên Xô.
97. Brainhin Ia.M (1963), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự và cơ sở của
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Xô viết, Liên Xô.
98. Karpusin M.P., Kurlianđxki V.I (1974), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự
và cấu thành tội phạm, Nhà xuất bản Sách pháp lý, Maxcơva, Liên Xô.
99. Bagri-Sakhmatôv L.V (1976), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự và hình
phạt, Liên Xô.
100. Bor'ev V.P (1994), Cuốn sách Các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, Nga.
101. Bộ luật Hình sự Canada (1985): http://www.justice.gc.ca
178
102. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (1996): http://www.kremlin.ru/acts/bank/9555.
103. Bộ luật Hình sự Trung Quốc (2015): http://www.criminallaw.com.cn.
104. Liaxx.N.V. (1977), Cuốn sách Những vấn đề về lỗi và trách nhiệm
hình sự trong các thuyết tư sản hiện đại, Lêningrađ, Liên Xô.
105. Xtrutchkôv N.A (1978), Cuốn sách Trách nhiệm hình sự và việc thực hiện
nó trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, Nhà xuất bản Trường Đại học
Tổng hợp Xaratôv, Liên Xô.
106. Xantalôv A.I (1982), Cuốn sách Những vấn đề lý luận của trách
nhiệm hình sự (1982), Liên Xô.
107. Prokhorôv B.X (1984), Cuốn sách Tội phạm và trách nhiệm, Nhà xuất
bản Sách pháp lý, Maxcơva, Liên Xô.
108. L.L.Kruglikov (2005), Cuốn sách Luật hình sự Nga, Phần chung (2005), Nga.
109. Cuốn sách Swedish Law in the New Millennium (Luật Hình sự Thụy
Điển trong giai đoạn mới), Thụy Điển.
110. Jerome Hall, Cuốn sách General Principles Of Criminal Law (Các
nguyên tắc chung của luật hình sự) của (Nhà xuất bản Bobbs Merrill
Company, 1947, tái bản năm 1960 và năm 2005), Mỹ.
111. Kent Roach (1996), Cuốn sách Criminal Law (Luật hình sự), Published
and bound in Canada by Love Printing Service Ltd, Canada.
112. L Waller và C R Williams (2009), Criminal Law: Text and Cases (Luật
hình sự - Văn bản và các Vụ án), Nhà xuất bản LexisNexis Butterworths,
Australia.
113. A P Simester, J P Spencer, G R Sullivan và G J Virgo (2010), Criminal
Law: Theory and Doctrine (Luật hình sự - Lý thuyết và Học thuyết),
Nhà xuất bản Hart Publishing, Oxford, Anh.
114. Myron Moskovitz (1999), Cases and Problems in Criminal Law
(Những vụ án và những vấn đề trong Luật hình sự), Nhà xuất bản
Anderson Publishing Co., Cincinati, Ohio, Mỹ.
115. Andrew Ashworth (1999), Principles of Criminal Law (Các nguyên tắc
của Luật hình sự), Nhà xuất bản Oxford University Press, Anh.
116. Janet Loveless (2008), Criminal Law Text, Cases, and Materials (Luật
hình sự Văn bản, các Vụ án, và các Nguồn tư liệu), Nhà xuất bản Oxford
University Press, Anh.
179
117. Li, Xingan (2005), Tác phẩm“Cybercrime: An Introduction” (Giới
thiệu về tội phạm mạng), Joensuu, Finland: LEX.
118. Steven Malby, Robyn Mace, Anika Holterhof, Cameron Brown, Stefan
Kascherus, Eva Ignatuschtschenko (2013), Tác phẩm “Comprehensive
Study On Cybercrime” (Nghiên cứu tổng quan về tội phạm mạng), do
United Nations (UNODC) xây dựng.
119. Marco Gercke (2012), Tác phẩm “Understanding cybercrime:
phenomena, challenges and legal response” (Luận giải về tình hình,
thách thức và biện pháp pháp lý đối với tội phạm mạng), Tổ chức viễn
thông quốc tế Liên hợp quốc (ITU) phát hành.
120. Aaron Shul (2014), Tác phẩm “Global Cybercrime: The Interplay of
Politics and Law” (Tội phạm mạng toàn cầu: Sự tương tác của chính
sách và pháp luật).
121. Tác phẩm “The Emerging Consensus on Criminal Conduct
in
Cybercrime” (Sự thống nhất nổi bật về hành vi phạm tội đối với loại tội
phạm mạng) của các tác giả Marc D. Goodman và Susan W. Brenner; “The
Council of Erope Convention on Cybercrime” (Công ước về tội phạm
mạng của Hội đồng Châu Âu) của tác giả Mike Keyser, CNS Đại học luật
Seattle, Mỹ… và một số công trình khác có liên quan.
122. Công ước Châu Âu về tội phạm mạng năm 2001 (Công ước Bu-đa-pet).
123. Luật mẫu về tội phạm máy tính của các nước thuộc khối thịnh vượng
chung (Anh, Úc, Newziland, Canada…) năm 2002.
124. Công ước Châu Phi về tội phạm mạng.
125. Công ước của các nước Ả Rập về xét xử tội phạm công nghệ thông tin.
126. Bryan A. Garner (1996), Black’s Law Dictionary, West Publishing Co.
127. Debra Littejohn Shinder (2002), Scene of the Cybercrime, Syngress
Publishing, Inc.
128. Daniel T. Kuehl (2009), From Cyberspace to Cyberpower: Defining
the Problem, Washing, D.C. National Defense University Press.
129. MarcoGercke
(2012),
“Understanding
cybercrime:
phenomena, challenges and legal response”, ITU.
130. Whittle, B. David (1996), Cyber space: The Human Dimension,
W.H. Freeman Co., New York.
180
III. TRANG WEB
131. Tenth United Nations Congress on the Prevention of Crime and
Treatment of Offenders:
https://www.unodc.org/documents/congress//Previous_Congresses/10th_Con
gress_2000/017_ACONF.187.10_Crimes_Related_to_Computer_Netw
orks.pdf (truy cập ngày 02/3/2020).
132.
ITU/CARICOM/CTU Model
Legilative
Texts,
Art.14:
https://www.itu.int/ITUD/projects/ITU_EC_ACP/hipcar/reports/wg2/d
ocs/HIPCAR_1-5-B_Model-Policy-Guidelines-and-
LegislativeText_Cybercrime.pdf (truy cập ngày 8/4/2018).
133. Additional Protocol to the Convention on Cybercrime, concerning the
criminalisation of acts of a racist and xenophobic nature committed
through computer systems:
https://rm.coe.int/CoERMPublicCommonSearchServices/DisplayDCTMCo
ntent?documentId=090000168008160f (truy cập ngày 10/4/2019).
134. Luật sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ thông tin cá nhân của Nhật Bản
(2017) (Amended Act on the Protection of Personal Information):
https://www.ppc.go.jp/files/pdf/Act_on_the_Protection_of_Personal_Infor
mation.pdf (truy cập ngày 20/02/2020).
135. Scott Eltringham
(2007), Prosecuting Computer Crime:
http://www.step toecyberblog.com/files/2012/11/ccmanual1.pdf
136. Section 156.10, 156.05, 156.20, New York Penal Law,
https://www.nysenate.gov/legislation/laws/PEN/P3TJA156,
truy cập
ngày 03/6/2020.
137. M.E. Kabay, A Brief History of Computer Crime: An Introduction for
Students: http://www.mekabay.com/overviews/history.pdf
138. https://wikiluat.com/2023/09/29/khai-niem-va-cac-dac-diem-cua-toi-
pham-cong-nghe-thong-tin-su-khac-biet-giua-toi-pham-cong-nghe-
thong-tin-va-toi-pham-thong-thuong/
139. https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Toi-pham-mang-
trong-ky-nguyen-cach-mang-cong-nghiep-130
181
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Thắng, “Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 03 (130)/2024.
2. Nguyễn Văn Thắng, “Pháp luật quốc tế về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông và kinh nghiệm cho Việt Nam” Tạp chí Quản lý nhà nước, số 6/2024.
3. Nguyễn Văn Thắng, “Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học kiểm sát, số 7/2024.
4. Nguyễn Văn Thắng, “Một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án, số 7/2024.
5. Nguyễn Văn Thắng, “Nguyên tắc, mục đích và các giai đoạn của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông ở nước ta”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2024.
6. Nguyễn Văn Thắng, “Nghiên cứu hình phạt tiền đối với tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số đặc biệt tháng 02/2023 (kỳ 1).
182
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Thống kê số lượng tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT
bị áp dụng các loại hình phạt chính theo BLHS hiện hành
Loại hình phạt
Số lượng tội
Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện hành
chính
phạm quy
định hình phạt này
Phạt tiền
08
1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc
tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật
2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây
hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử
4. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông
tin mạng máy tính, mạng viễn thông
5. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng
máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện
tử của người khác
6. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua
bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài
khoản ngân hàng
7. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến
điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn,
tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh 8. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại
07
Cải tạo không giam giữ
1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
3. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông
183
4. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản
5. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài
khoản ngân hàng
6. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn,
tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh
7. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại
Tù có thời hạn
09
1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc
tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật
2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, phương tiện điện tử
3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông,
phương tiện điện tử
4. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông
tin mạng máy tính, mạng viễn thông
5. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng
máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện
tử của người khác
6. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi
chiếm đoạt tài sản
7. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua
bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng
8. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh 9. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại
184
Phụ lục 2. Thống kê các khung hình phạt tù có thời hạn bị áp dụng
với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS hiện hành
Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện hành
Loại cấu thành khung hình phạt
Cơ bản (khoản 1, Điều 285)
Số lượng tội quy định 02
Khung hình phạt tù có thời hạn 03 tháng đến 02 năm
Tăng nặng (khoản 2, Điều 291)
Cơ bản (khoản 1, Điều 286)
04
06 tháng đến 03 năm
Cơ bản (khoản 1, Điều 287)
Cơ bản (khoản 1, Điều 288)
Cơ bản (khoản 1, Điều 290)
Tăng nặng (khoản 2, Điều 285)
04
01 năm đến 05 năm
Cơ bản (khoản 1, Điều 289)
Tăng nặng (khoản 2, Điều 293)
1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng 1. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 2. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông 4. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 3. Điều 293. Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh 4. Điều 294. Tội cố ý gây nhiễu có hại
Tăng nặng (khoản 2, Điều 294)
1. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính,
Tăng nặng (khoản 2, Điều 288)
185
02 năm đến 07 năm
03
Tăng nặng (khoản 2, Điều 290)
Tăng nặng (khoản 3, Điều 291)
Tăng nặng (khoản 3, Điều 285)
04
03 năm đến 07 năm
Tăng nặng (khoản 2, Điều 286)
Tăng nặng (khoản 2, Điều 287)
Tăng nặng (khoản 2, Điều 289)
Tăng nặng (khoản 3, Điều 286)
04
07 năm đến 12 năm
Tăng nặng (khoản 3, Điều 287)
Tăng nặng (khoản 3, Điều 289)
Tăng nặng (khoản 3, Điều 290)
01
12 năm đến 20 năm
Tăng nặng (khoản 4, Điều 290)
mạng viễn thông 2. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 3. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng 1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 4. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 1. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 2. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 4. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
186
Phụ lục 3. Thống kê số lượng các tội phạm trong lĩnh vực CNTT,
MVT có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung theo BLHS hiện hành
Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện hành
Loại hình phạt bổ sung
Số lượng tội phạm quy định hình phạt này 07
Phạt tiền Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định
03
Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản
1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 3. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử 4. Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông 5. Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác 6. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 7. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng 1. Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật 2. Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản 3. Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng
187
Phụ lục 4. Thống kê khung hình phạt bổ sung là phạt tiền được áp dụng đối với các tội phạm trong lĩnh vực CNTT, MVT theo BLHS hiện hành
Mức phạt tiền
Độ
Số lượng tội
Tên tội phạm cụ thể trong BLHS hiện
hành
chênh
phạm quy
lệch
định mức phạt này
10 lần
01
Điều 289. Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương
Từ 5 triệu đồng đến 50
tiện điện tử của người khác
triệu đồng
Từ 5 triệu đồng
20 lần
01
Điều 285. Tội sản xuất, mua bán, trao đổi
hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật
đến 100 triệu đồng
Từ 10 triệu
05 lần
01
Điều 291. Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi,
mua bán, công khai hóa trái phép thông tin
đồng đến 50
về tài khoản ngân hàng
triệu đồng
Từ 20 triệu
05 lần
01
Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính,
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực
đồng đến 100
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
triệu đồng
Từ 20 triệu
10 lần
01
Điều 288. Tội đưa hoặc sử dụng trái phép
thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông
đồng đến 200
triệu đồng
Từ 30 triệu
6,67 lần
02
1. Điều 286. Tội phát tán chương trình tin học
gây hại cho hoạt động của mạng máy tính,
đồng đến 200
mạng viễn thông, phương tiện điện tử
triệu đồng
2. Điều 287. Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử
188
Phụ lục 5. Thống kê một số bản án của Tòa án nhân dân các cấp về
các vụ án trong lĩnh vực CNTT, MVT giai đoạn từ năm 2015 đến 6/2024
STT Số bản án/Tòa án Bị cáo/Tội danh xét xử
Hình phạt
Biện pháp tư pháp Không
1
- Lê Kim Đ: 03 năm tù - Nguyễn Văn N: 03 năm tù
Số 61/2017/HSPT ngày 20/7/2017 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
2
Số 29/2017/HSPT ngày 26/9/2017 của TAND tỉnh Quảng Trị
thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy
Không
3
- Nguyễn Võ Nhất P: 02 năm tù; - Lê Văn Hồng Ph: 18 tháng tù, cho hưởng án treo Lê Thị H: 06 tháng tù
Số 59/2017/HSPT ngày 28/9/2017 của TAND huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc
thu
4
Tiết Thái H: 05 năm tù
- Tịch sung quỹ - Tịch thu tiêu hủy
sản”
Số 49/2017/HSST ngày 02/11/2017 của TAND Thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang
Không
5
Hoàng Thị T: 07 cho tù, tháng hưởng án treo
Số 21/2018/HSST ngày 31/01/2018 của TAND thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
6
Không
Xử 02 bị cáo về tội: “Truy cập bất hợp pháp vào mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác” (Điều 226a BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290, BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội: “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài (Điều 226b BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy
Số 35/2018/HSST ngày 09/02/2018
Mai Phương A: 02 năm tù, cho hưởng
189
án treo
của TAND thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
7
Không
Trương Văn H: 10 năm tù
Số 169/2018/HSPT ngày 28/3/2018 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
8
Không
Thị 24
Nguyễn Phương T: tháng tù giam
Số 44/2018/HSPT ngày 30/3/2018 của TAND tỉnh Hà Tĩnh
sản”
9
Không
Wei Shun X (Quốc tịch Trung Quốc): 07 năm tù
Số 07/2018/HSST ngày 09/4/2018 của TAND tỉnh Hải Dương
10
Phan T: 03 năm tù
Không
Số 115/2018/HSPT ngày 16/4/2018 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
11
Số 148/2018/HSST ngày 08/5/2018 của TAND thành phố Hồ Chí Minh
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy
12
C Toh Meng (Quốc tịch Malaysia): 02 năm 06 tháng tù Lim Chee K (Quốc tịch Malaysia): 02 năm tù Trần Tuấn M: 07 năm tù
Tịch thu sung quỹ Nhà nước
Số 156/2018/HSST ngày 11/5/2018 của TAND thành
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội: “Sử tính, dụng mạng máy mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 226b BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 01 bị cáo về tội: “Sử dụng mạng Internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài (Điều 226b BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290
190
13
phố Hồ Chí Minh BLHS năm 2015) Số 38/2018/HSST ngày 24/8/2018 của TAND tỉnh Cao Bằng
Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
- Tịch thu tiêu hủy thu - Tịch phát mại lấy tiền sung vào sách ngân Nhà nước
14
Phùng Hải X (Quốc tịch Trung Quốc): 05 năm tù, trục xuất sau khi bị cáo hành chấp xong hình phạt tù Phùng Tiểu X1 (Quốc tịch Trung Quốc): 04 năm tù, trục xuất sau khi bị cáo hành chấp xong hình phạt tù Lê Phú Đ: 03 năm 06 tháng tù
Số 21/2018/HSST ngày 24/8/2018 của TAND tỉnh Ninh Bình
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy
15
Nguyễn Hàng Đức N: 07 năm tù
thu
- Bồi thường thiệt hại - Tịch sung quỹ
Số 310/2018/HSST ngày 14/9/2018 của TAND thành phố Hồ Chí Minh
16
Phạm Quốc T: 12 năm tù
thu
Số 45/2018/HSST ngày 21/9/2018 của TAND thành phố Đà Nẵng
- Bồi thường thiệt hại - Tịch sung quỹ
17
thường
Nguyễn Ngọc T: 01 năm 06 tháng tù
Bồi thiệt hại
Số 402/2018/HSST ngày 05/11/2018 của TAND thành phố Hồ Chí Minh
Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS
191
18
Không
Số 271/2018/HSPT ngày 06/11/2018 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
năm 2015) Xử 04 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
19
Không
- Ngô Văn C: 08 năm 03 tháng tù - Đặng Anh T: 07 năm 06 tháng tù - Trần Văn S: 07 năm 06 tháng tù - Bùi Thị C1: 03 năm 05 tháng 06 ngày tù Lê Thừa T: 03 tháng 18 ngày tù
Số 48/2018/HSST ngày 29/11/2018 của TAND tỉnh Phú Thọ
20
Số 218/2018/HSST ngày 27/12/2018 của TAND huyện Thanh Trì, Hà Nội
Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội: “Mua bán phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật” (Điều 285 BLHS năm 2015)
- Lê Đình S: phạt tiền 150 triệu đồng - Nguyễn Anh D: phạt tiền 150 triệu đồng
21
Nguyễn Thái H: 02 năm 6 tháng tù
thu
Số 24/2019/HSST ngày 27/02/2019 của TAND tỉnh Thái Bình
- Truy nộp sung quỹ Nhà nước thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy - Bồi thường thiệt hại - Tịch sung quỹ
22
Cẩm
Tịch thu tiêu hủy
Tăng B (Quốc tịch Trung Quốc): 07 năm tù
Số 20/2019/HSST ngày 21/3/2019 của TAND tỉnh Lào Cai
Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử Phan Chí T: 03
23
Số
Không
192
năm 06 tháng tù
108/2019/HSPT ngày 10/4/2019 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
24
Không
Nguyễn Hoài Sa: 04 năm tù
Số 223/2019/HSPT ngày 06/5/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh
25
thường
Bồi thiệt hại
Daniel C (Quốc tịch: Nigeria): 12 năm tù
26
Nguyễn Phương T: 05 năm tù
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước
Số 216/2019/HSST ngày 25/6/2019 của TAND thành phố Hồ Chí Minh Số 05/2020/HSST ngày 20/01/2020 của TAND thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái
27
thu
Số 08/2020/HSST ngày 17/01/2020 của TAND tỉnh Bắc Ninh
Lê Văn L: 36 tháng tù Phan Tiến A: 30 tháng tù
- Bồi thường thiệt hại - Tịch sung công - Tịch thu tiêu hủy
28
Không
- Võ Đình S: 14 năm tù - Nguyễn Đình T: 13 năm tù
Số 124/2020/HSPT ngày 26/5/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
29
dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng
Số 155/2020/HSST ngày 26/5/2020
O Chime Walterater (Quốc tịch N): 14 năm tù,
- Bồi thường thiệt hại - Tịch
thu
193
của TAND thành phố Hồ Chí Minh
internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
nộp phạt 20 triệu đồng sung quỹ Nhà nước
30
Yang
Số 117/2020/HSST ngày 26/8/2020 của TAND tỉnh Nghệ An
sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy
Xử 03 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
31
ChC - Trường (Dương tịch T), Quốc Trung Quốc: 07 năm tù - Deng Cong C (Đặng Thông Th), Quốc tịch Trung Quốc: 07 năm tù - Lian Y (Luyện V), Quốc tịch Trung Quốc: 07 năm tù Miễn hình phạt tiền Nguyễn Văn P: 15 năm tù
Số 56/2020/HSST ngày 25/11/2020 của TAND tỉnh Đắk Nông
32
- Bồi thường thiệt hại thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước
Số 02a/2021/HSST ngày 14/01/2021 của TAND thị xã Q, tỉnh Quảng Trị
Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 05 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
tù,
- Phan Văn L: 12 tháng tù - Nguyễn Xuân T: 12 tháng tù, cho hưởng án treo - Nguyễn Văn 09 Phương N: tháng cho hưởng án treo - Nguyễn Trương Gia H: 09 tháng tù, cho hưởng án treo - Nguyễn Anh Q: 12 tháng tù, cho
194
33
thu ngân Nhà
Số 21/2021/HSST ngày 20/01/2021 của TAND tỉnh Nam Định
hưởng án treo - Võ Phước Ch: 12 tháng tù - Hoàng Đình Tấn L: 09 tháng tù, cho hưởng án treo
- Tịch sung sách nước - Tịch thu tiêu hủy
34
Không
Số 09/2021/HSST ngày 21/01/2021 của TAND tỉnh Phú Thọ
Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 03 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)
35
Không
36
Không
Số 128/2021/HSST ngày 01/3/2021 của TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa Số 134/2021/HSST ngày 02/3/2021 của TAND thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa
Xử 02 bị cáo về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 03 bị cáo về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)
37
- Đoàn Lê Trí V: Phạt tiền 200 triệu đồng - Nguyễn Thái T: Phạt tiền 100 triệu đồng - Lê Thái N: Phạt tiền 20 triệu đồng - Trần Thị H: 30 tháng tạo cải không giam giữ - Phạm Thị N: 27 tháng tạo cải không giam giữ - Phạm Thị Phương T: 15 cho tù, tháng hưởng án treo, phạt bổ sung 20 triệu đồng. - Nguyễn Thị L: 12 cho tù, tháng hưởng án treo, phạt bổ sung 20 triệu đồng. - Nguyễn Thị N: 30 tháng cải tạo không giam giữ, phạt bổ sung 10 triệu đồng. - Nguyễn Mạnh Đức C: 05 năm tù - Lê Thanh H: 03
Số 38/2021/HSST ngày 15/3/2021 của TAND thành
Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương
- Bồi thường thiệt hại - Tịch thu tiêu
195
phố Hải Phòng
năm 06 tháng tù
hủy
38
Không
Số 167/2021/HSPT ngày 20/4/2021 của TAND cấp cao tại Hà Nội
tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 04 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
39
Số 26/2021/HSST ngày 27/5/2021 của TAND tỉnh Quảng Bình
- Bồi thường thiệt hại - Tịch thu tiêu hủy
Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
40
Không
- Đỗ Tuấn A: 14 năm tù - Đỗ Văn P: 12 năm tù - Nguyễn Thị A1: 11 năm tù - Nguyễn Thị Bảo T: 10 năm tù - Lê Anh H: 27 tháng tù - Nguyễn Lâm Thế V: 13 tháng tù - Đỗ Duy Kh: 04 tháng tù Miễn hình phạt tiền - Vũ Ngọc T: 05 năm tù
Số 253/2021/HSPT ngày 21/6/2021 của TAND cấp cao tại Hà Nội
41
Không
Nguyễn Trọng Q: 09 tháng tù
Số 65/2021/HSPT ngày 07/7/2021 của TAND thành phố Đà Nẵng
42
Không
Vàng A N: 18 tạo cải tháng không giam giữ
Số 69/2021/HSST ngày 07/12/2021 của TAND tỉnh Hà Giang
43
thường
Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng internet thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy
Số 168/2021/HSST
Nông Văn X: 28 tháng tù
Bồi thiệt hại
196
ngày 20/12/2021 của TAND tỉnh Bắc Ninh
44
Không
Nguyễn Trọng Q: 09 tháng cải tạo không giam giữ
45
Không
Phạm Huy H: 03 tháng tù
Số 02/2022/HSST ngày 12/01/2022 của TAND huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang Số 22/2022/HSST ngày 28/4/2022 của TAND tỉnh Thái Nguyên
46
Không
Nguyễn Bích Hoài T: Phạt 100 triệu đồng
Số 69/2022/HSST ngày 16/6/2022 của TAND thành phố Hải Phòng
47
Không
Số 20/2022/HSST ngày 06/7/2022 của TAND tỉnh Đăk Nông
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Đưa trái phép thông tin mạng tính, mạng viễn máy thông” (Điều 288 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Thu thập, mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 04 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)
48
Không
- Nguyễn Quang Ng: 15 năm tù (phạm thêm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) - Phạm Thị Kim Th: 09 tháng tù, cho hưởng án treo - Nguyễn Thị L: Phạt 35 triệu đồng. - Ngô Trường Quang H: Phạt 30 triệu đồng. Nguyễn Quốc A: 24 tháng cải tạo không giam giữ
49
Không
Số 96/2022/HSST ngày 08/7/2022 của TAND thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương Số 713/2022/HSPT
Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy
Dương Tuấn A: 12 tháng tù, hưởng án
197
treo
ngày 26/8/2022 của TAND thành phố Hà Nội
50
Nguyễn Thị Thùy T: 12 tháng tù
Số 56/2022/HSST ngày 16/9/2022 của TAND tỉnh Quảng Bình
- Bồi thường thiệt hại thu - Tịch sung công quỹ Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy
51
Không
Nguyễn Hồng M: 12 tháng cải tạo không giam giữ
52
Số 31/2022/HSST ngày 22/9/2022 của TAND huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang Số 105/2022/HSST ngày 27/9/2022 của TAND tỉnh Bắc Ninh
mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015)
- Bồi thường thiệt hại - Tịch thu nộp sách ngân Nhà nước
53
Số 63/2022/HSST ngày 12/12/2022 của TAND tỉnh Hải Dương
tiền: 100
- Chu Thị N: 12 tháng cho tù, hưởng án treo - Nguyễn Văn Q: 12 tháng tù, cho hưởng án treo Nguyễn Văn K: 24 tháng cho tù, hưởng án treo - Phạt triệu đồng
Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015)
54
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước thu - Tịch phát mại nộp sách ngân Nhà nước Không
Trần Thu H: 02 năm 06 tháng tù
Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
55
Không
Số 34/2023/HSST ngày 14/02/2023 của TAND thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh Số 10/2023/HSST ngày 14/02/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ
Xử 06 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm
- Nguyễn Ngọc Th: triệu 140 Phạt đồng - Nguyễn Khánh
198
2015)
56
Không
Số 11/2023/HSST ngày 15/02/2023 của TAND tỉnh Phú Thọ
Xử 03 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291, BLHS năm 2015)
57
H: Phạt 120 triệu đồng - Trần Hải Đ: Phạt 100 triệu đồng - Tạ Văn D: Phạt 100 triệu đồng - Nguyễn Quý L: Phạt 30 triệu đồng - Nguyễn Trung H: Phạt 40 triệu đồng - Nguyễn Đình Đ: 15 tháng cải tạo không giam giữ - Trần Văn T: 15 tháng tạo cải không giam giữ - Trịnh Bảo L: 12 tạo cải tháng không giam giữ Huỳnh Văn M: 14 tháng tù
Tịch thu nộp sách ngân Nhà nước
58
Không
Số 76/2023/HSST ngày 20/3/2023 của TAND huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh Số 30/2023/HSST ngày 03/4/2023 của TAND thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 03 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)
59
Không
Số 65/2023/HSPT ngày 10/4/2023 của TAND thành phố Đà Nẵng
- Nguyễn Quốc T: 15 tháng cải tạo không giam giữ - Nguyễn Tiến D: 15 tháng cải tạo không giam giữ - Đỗ Duy H: 12 tạo cải tháng không giam giữ - Nguyễn Thị A: 06 tháng tù - Lê Thị B: 04 tháng tù
60
Số 40/2023/HSST ngày 18/4/2023
Xử 02 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội: “Sử dụng phương tiện điện tử
- Phạm C: 03 năm tù
- Tịch thu nộp sách ngân
199
của TAND quận P, thành phố H
- Nguyễn S: 03 năm tù
61
Phùng Khắc K: 03 năm 03 tháng tù
Nhà nước - Tịch thu tiêu hủy Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước
Số 45/2024/HSST ngày 23/01/2024 của TAND thành phố Hồ Chí Minh
62
Tịch thu sung quỹ nhà nước
Phan Anh T: 02 năm 03 tháng tù, cho hưởng án treo
Số 50/2024/HSPT ngày 29/02/2024 của TAND tỉnh Đăk Lăk
63
Tịch thu sung công quỹ nhà nước
Số 18/2024/HSST ngày 04/4/2024 của TAND huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Mua bán trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015)
64
Tịch thu sung quỹ nhà nước
Số 101/2024/HSST ngày 16/4/2024 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Xử 03 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
65
- Trần Văn H1: Phạt tiền 150 triệu đồng - Nguyễn Phạm T1: Phạt tiền 100 triệu đồng - Tạ Văn T2: 30 tháng cho tù, hưởng án treo - Nguyễn Văn N: 36 tháng tù, cho hưởng án treo - Hoàng Thị Kiều D: 30 tháng tù, cho hưởng án treo Nguyễn Thùy T: 09 tháng tù
Tịch thu sung quỹ Nhà nước
Số 25/2024/HSST ngày 23/4/2024 của TAND tỉnh Hà Nam
66
thu ngân Nhà
- Cao Trung N: 04 năm tù - Trần Văn H: 04 năm tù
Số 118/2024/HSST ngày 22/5/2024 của TAND huyện Bình Chánh, thành
Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông” (Điều 288 BLHS năm 2015) Xử 02 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài
- Tịch sung sách nước - Tịch thu tiêu
200
phố Hồ Chí Minh
hủy
67
Tịch thu sung công quỹ nhà nước
Số 50/2024/HSPT ngày 23/5/2024 của TAND tỉnh Vĩnh Phúc
Nguyễn Lê Như Y: 01 năm 08 tháng tù, cho hưởng án treo
68
Võ Duy K: 02 năm 06 tháng tù
Tịch thu sung quỹ nhà nước
Số 254/2024/HSPT ngày 31/5/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
69
Nguyễn Ngọc Gia H: 24 tháng tù, cho hưởng án treo
Tịch thu sung công quỹ nhà nước
Số 70/2024/HSST ngày 07/6/2024 của TAND thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị
70
Phạm Sơn D: 06 tháng tù
Tịch thu sung công quỹ nhà nước
Số 108/2024/HSST ngày 20/6/2024 của TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng” (Điều 291 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015) Xử 01 bị cáo về tội “Sử tính, dụng mạng máy mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” (Điều 290 BLHS năm 2015)
201