BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ HỢP NHẤT 2017 – PHẦN CHUNG
Chương I
ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN
Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự
Bộ luật Hình sự nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng
bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi
hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm.
Bộ luật này quy định về tội phạm và hình phạt.
Bình luận:
Nhiệm vụ của BLHS rất nhiều nhưng có thể khái quát ở 2 nhiệm vụ chính.
Một nhiệm vụ bảo vệ, bảo vệ gì? Chính bảo vệ những mối quan hệ hội được pháp
luật hình sự bảo vệ. Trong hội rất nhiều những quan hệ cần được điều chỉnh, tuy
nhiên do tính chất, mức độtầm quan trọng khác nhau nên sẽ được điều chỉnh bởi những
nhóm quy phạm pháp luật khác nhau. Luật hình sự chọn những quan hệ hội trọng tâm,
gần như quan trọng nhất, ưu tiên hàng đầu để điều chỉnh như chủ quyền quốc gia, an
ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân v.v…
Hai giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa đấu tranh chống tội
phạm. Bản chất của pháp luật hình sự không phải để trừng phạt người phạm tội giống
như hệ thống pháp luật thời phong kiến. Điều này dễ dàng nhìn thấy qua các hình phạt cổ
như lăng trì, tùng xẻo, ngũ phanh thây v.v…hình phạt trong Bộ Luật hình sự ngày nay
đang đi theo xu hướng càng ngày càng giảm án tử hình thay bằng hình thức chung thân
thi hành án tử cũng trở nên nhân đạo hơn để tử được ra đi một cách nhẹ nhàng, ít đau
đớn nhất.
Để thực hiện 2 nhiệm vụ trên thì BLHS quy định xung quanh 2 vấn đề cũng xuyên
suốt qua các thời kỳ đó Tội phạm và Hình phạt. Nói đến hình sự người ta nghĩ ngay đến
tội phạm hình phạt ngược lại. Đó là đặc trưng bản rất dễ nhận thấy pháp luật
hình sự so với các ngành luật khác như dân sự, hành chính. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý giữa
vi phạm hành chính (xử phạt vi phạm hành chính) tội phạm (xử hình sự) một mối
quan hệ khá mật thiết, chúng khá tương đồng trong nhiều mặt ranh giới giữa xử hành
chính hình sự đôi khi rất mong manh phụ thuộc vào tính chất mức độ nguy hiểm của
hành vi vi phạm đôi khi cách nhìn nhận chủ quan của người xử phạt vi phạm hành
chính quan công tố. Do đó, trong thực tế không hiếm những trường hợp hồ vi
phạm hình sự nhưng sau đó chuyển sang xử hành chính hồ xử hành chính
chuyển sang xử lý hình sự do có dấu hiệu của tội phạm.
Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Minh Hùng|www.tracuuphapluat.info 1
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật
này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bình luận:
Đây quy định chỉ khi nào thì một nhân hay một pháp nhân thương mại phải chịu
trách nhiệm hình s đó khi nhân, pháp nhân thương mại đó phạm một tội đã được
BLHS quy định. Riêng đối với pháp nhân thương mại do tính đặc thù của chủ thể giới
hạn những điều luật thể phạm phải chỉ bao gồm: Điều 188, 189, 190, 191, 192, 193,
194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237,
238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300, 324.
Cách hành văn của quy định trên làm nhiều người thể hiểu sai lệch (phi logic) rằng nếu
một người, pháp nhân thương mại nào đó phạm từ 2 tội trở lên thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự vì quy định chỉ nêu “khi phạm một tội” chứ không phải “vi phạm ít nhất một
tội”. Tuy nhiên nếu nghiên cứu theo những nguyên tắc của bộ môn logic học thì cách diễn
đạt như vậy hoàn toàn logic. Nhưng cũng cần nhấn mạnh rằng không phải ai cũng thể
hiểu am tường về bộ môn logic học này, hơn nữa luật pháp nhằm mục đích phổ biến
áp dụng trong thực tế vậy càng phổ thông càng dễ hiểu càng tốt. Hiện quy định như
vậy không sai nhưng để đảm bảo bớt tính hàn lâm và tránh những sự nhầm lẫn không đáng
có thì nên diễn đạt lại theo hướng “…phạm ít nhất một tội…”(cách hành văn mới này cũng
hoàn toàn không sai nhưng lại dễ hiểu hơn).
Điều 3. Nguyên tắc xử lý
1. Đối với người phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử nhanh
chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm
nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, tính chất chuyên
nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập
công chuộc tội, tích cực hợp tác với quan trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm
hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại gây ra;
đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn
hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;
e) Đối với người bị phạt thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các sở giam giữ,
phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho hội; nếu họ đủ điều kiện do Bộ
luật này quy định, thì thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời
hạn có điều kiện;
Minh Hùng|www.tracuuphapluat.info 2
g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện,
hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời,
xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, tính chất chuyên
nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quantrách nhiệm
trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa,
bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra.
Bình luận:
Nguyên tắc những thứ bắt buộc phải tuân thủ, nguyên tắc được lập ra để đảm bảo tính
thống nhất cho thấy được phần o chính sách của BLHS nói riêng chính sách của
nhà nước nói chung đối với tội phạm. Đó phân định nhóm đối tượng sẽ được hưởng
chính sách khoan hồng, thể hiện sự nhân đạo của nhà nước nhóm chính sách cứng rắn
thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật đối với nhóm đối tượng khả năng đã hoặc sẽ
thực hiện những hành vi gây nguy hại lớn đến xã hội.
Nguyên tắc thì nhiều nhưng nếu phân chia theo cách BLHS làm thì có nhóm những nguyên
tắc đối với người phạm tội nhóm nguyên tắc đối với pháp nhân thương mại. Tuy nhiên
thể nhìn thấy rất ràng điều luật trên 2 nhóm nguyên tắc này không khác
nhau về bản chất nhóm nguyên tắc của pháp nhân thương mại ít hơn nhiều với nguyên
tắc của người phạm tội (có thể gọi đó tập hợp con trong trường hợp này). Những khác
biệt rất ít cũng chỉ xuất phát từ những đặc trưng của từng loại chủ thể. Điều này thể dễ
hiểu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân một chế định rất mới mẻ BLHS 2015
Bộ luật đầu tiên ghi nhận chế định này. Do đó không tránh khỏi việc nêu ra những
nguyên tắc trên cũng bản dựa trên nguyên tắc dành cho người phạm tội theo đánh
giá chủ quan của tác giả, nguyên tắc đối với pháp nhân thương mại vẫn còn thiếu nhiều
thể sẽ phải bổ sung trong tương lai không xa. Đơn cử như không nguyên tắc về việc
tạo điều kiện cho pháp nhân tái hoạt động sau khi chấp hành xong hình phạt hay nguyên
tắc về xóa điểm đen lý lịch pháp nhân (tương tự như xóa án tích) v.v…
- Đối với người phạm tội, BLHS năm 2015 quy định 7 nguyên tắc, nhưng thực chất về nội
dung cũng không khác so với BLHS năm 1999. Tuy nhiên, việc quy định thành 7 nguyên
tắc chủ yếu là về kỹ thuật lập pháp.
1. Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử nhanh
chóng, công minh theo đúng pháp luật.
Minh Hùng|www.tracuuphapluat.info 3
Phát hiện kịp thời, xử nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật mọi hành vi phạm
tội một ý nghĩa không chỉ đối với việc đấu tranh chống tội phạm còn ý nghĩa
phòng ngừa tội phạm.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp do phát hiện kịp thời hành vi phạm tội nên đã ngăn
chặn hoặc làm giảm bớt tác hại do tội phạm gây ra. dụ: Nếu chúng ta phát hiện kịp thời
một số người đang hành vi chuẩn bị phạm tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân” sẽ ngăn chặn được tác hại do hành vi phạm tội gây ra. Phát hiện kịp thời hành vi
phạm tội còn ý nghĩa tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân công tác phòng ngừa tội
phạm, cảnh báo những ai có ý định thực hiện tội phạm hãy từ bỏ ý định phạm tội nếu
không sẽ bị trừng trị. Phát hiện kịp thời tội phạm còn tác dụng chống mọi hoài nghi
không đáng vào tình hình an ninh trật tự an toàn hội, mọi người yên tâm lao động
sản xuất, tin tưởng vào chế độ, vào Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Nguyên tắc này đòi hỏi các quan Nhà nước, các tổ chức mọi công dân nhiệm vụ
đấu tranh chống tội phạm bằng cách phát hiện kịp thời, tố giác hành vi phạm tội với các
quan trách nhiệm, đặc biệt nguyên tắc này yêu cầu các quan tố tụng phải trách
nhiệm phát hiện kịp thời, xử nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật mọi hành vi
phạm tội.
2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc,
tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
Nguyên tắc này thể hiện tính công bằng trong việc xử người phạm tội. Sự bình đẳng
trong nguyên tắc này sự bình đẳng trong việc vận dụng các dấu hiệu cấu thành tội phạm
đối với một hành vi phạm tội, đối với hình phạt cũng như các biện pháp pháp khác về
người phạm tội, chống những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người phạm tộiđịa
vị xã hội khác nhau “dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ”.
Nguyên tắc này không chỉ nguyên tắc của BLHS khi xử hành vi phạm tội, còn
nguyên tắc đối với các đạo luật khác; không chỉ các quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng đối với toàn hội, cần phải thái độ công bằng đối với người phạm tội
họ ai. Khi khẳng định nguyên tắc “mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp
luật”, nhưng không phải thế cho rằng không sự phân hóa “nghiêm trị ai, khoan
hồng đối với ai” điều này càng thể hiện nội dung của khái niệm “bình đẳng, công bằng”
không đồng nhất với khái niệm “bình quân, cào bằng”.
3. Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan c chống đối, côn đồ, tái phạm
nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Nguyên tắc này được tách từ nguyên tắc thứ 2 của BLHS năm 1999. Việc tách nguyên tắc
này ra thành một nguyên tắc độc lập bảo đảm chính xác không chỉ về nội dung còn
về kỹ thuật lập pháp.
Nội dung của nguyên tắc thể hiện thái độ của Nhà nước ta đối với những đối tượng cần
phải nghiêm trị, được liệt kê. Đó là: Người phạm tội người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy,
ngoan c chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để phạm tội. Việc quán triệt nội dung nguyên tắc này trong thực tế đấu tranh phòng, chống
tội phạm nói chung, các quan tiến hành tố tụng thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, đối
Minh Hùng|www.tracuuphapluat.info 4
với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, nhất đối với người phạm tội tham
nhũng thì nguyên tắc này chưa được thực hiện nghiêm túc. Cũng chính vậy trong
nhiều o cáo về tham nhũng của Nhà nước cũng như của các quan chức năng thường
đánh giá công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa đạt yêu cầu hoặc chưa được
như mong muốn.
4. Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, tính chất chuyên
nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú,
thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với quan
có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn
hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
Đây cũng là nguyên tắc được tách ra từ nguyên tắc thứ 2 của BLHS năm 1999.
Nội dung của nguyên tắc này nói n tính chất nguy hiểm của nh vi phạm tội, quy
của việc thực hiện tội phạm có đồng phạm và hậu quả do hành vi thực hiện tội phạm gây ra
cho xã hội, chứ không phải đối với người phạm tội.
Cùng với việc quy định nghiêm trị đối với những trường hợp phạm tội nguy hiểm thì
BLHS cũng đề ra chủ trương khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai
báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với quan có trách nhiệm
trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra nhằm làm giảm bớt tác hại của tội phạm,
đồng thời tác dụng phát hiện kịp thời, xử nhanh chóng, lập lại trật tự kỷ cương
hội.
Nếu căn cứ vào nội dung thì: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai
báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với quan có trách nhiệm
trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự
nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra”. thể coi một nguyên tắc độc lập
với các nguyên tắc khác. Tuy nhiên, nhà làm luật không quy định thành một nguyên tắc
riêng quy định ngay sau nguyên tắc: “Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo
quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”.
thể về kỹ thuật lập pháp, việc không quy định thành một nguyên tắc độc lập sẽ dẫn đến
việc hiểu áp dụng nguyên tắc này một cách máy móc chỉ đối với người phạm tội
“dùng thủ đoạn xảo quyệt, tổ chức, tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng” “tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công
chuộc tội, tích cực hợp tác với quan trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc
trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại gây ra” thì mới được khoan hồng, còn những người khác thì không được. Nếu hiểu như
vậy phiến diện, chưa thấy hết chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm
tội.
Tuy nguyên tắc này được quy định trong cùng một điểm nhưng phải hiểu rằng, tất cả
những người phạm tội “tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập
công chuộc tội, tích cực hợpc với quan trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm
hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ănn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường
Minh Hùng|www.tracuuphapluat.info 5