
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
216
Trong một thế giới công nghệ thông
tin ngày càng phát triển, xu hướng
toàn cầu hóa, quốc tế hóa trở thành
một tất yếu khách quan, mối quan hệ giữa
các nền kinh tế ngày càng mật thiết và gắn
bó, hoạt động giao lưu thương mại giữa các
quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ thì sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng ngày
càng gay gắt. Nếu như trước đây các công
ty dùng biện pháp đa dạng hóa mẫu mã sản
phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa làm biện
pháp cạnh tranh hữu hiệu để giành lợi thế trên
thương trường; thì hiện nay, các công ty lại
chú ý tới việc xây dựng và phát triển thương
hiệu thông qua việc xây dựng văn hóa doanh
nghiệp, đạo đức kinh doanh. Đây là một
trong những giải pháp đang được các doanh
nghiệp áp dụng và bước đầu đem lại hiệu
quả tích cực. Các doanh nghiệp muốn khẳng
định được thương hiệu trên thị trường thì điều
mà họ hướng tới bây giờ là việc thực hiện
tốt trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR –
Corporate Social Responsibility).
Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp xuất hiện vào những năm 1950 của
thế kỷ XX. Nhưng mãi đến những năm 1990
mới có các khái niệm “ doanh nghiệp có trách
nhiệm xã hội”, hoặc “ doanh nghiệp có đạo
đức”. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nhưng
hiện nay một trong các định nghĩa được sử
dụng nhiều nhất đó là theo chuyên gia của
Ngân hàng Thế giới (WB): “Trách nhiệm
xã hội doanh nghiệp (Corporate Social
Responsibility) l sự cam kt của doanh
nghiệp đóng góp vo sự phát triển kinh t
TM TT
Trong giai đoạn ton cầu ha hin nay, vai tr trch nhim x hi ca doanh
nghip ngy cng quan trọng trong họat đng kinh doanh. Trch nhim x hi l
công cụ hu hiu để cc doanh nghip nâng cao cht lưng, gi tr, tăng doanh
thu ca doanh nghip; đồng thi n cũng l công cụ gip cc doanh nghip pht
triển bn vng. Ở Vit Nam, vn đ trch nhim x hi ca doanh nghip cn kh
mi mẻ. Tuy nhiên, để pht triển bn vng cc doanh nghip buc phi tuân theo
nhng chuẩn mc v bo v môi trưng cũng như v an ton lao đng, …V vy,
trch nhim x hi ca cc doanh nghip trở thnh mt yêu cầu không thể thiu ca
cc doanh nghip, phù hp vi mục tiêu pht triển bn vng. Trong phạm vi bi vit
ny, tc gi đ cp đn trch nhim x hi ca doanh nghip Vit Nam vi bo v
môi trưng; trên cơ sở đ đ xut mt s gii php nhằm gip cc doanh nghip Vit
Nam thc hin tt trch nhim x hi ca mnh vi môi trưng.
T kha: Trch nhim x hi, doanh nghip, bo v môi trưng, đo đc, kinh doanh
TRÁCH NHIỆM XÃ HI CỦA DOANH NGHIỆP
VIỆT NAM VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯNG
Th.S. LưU Thị MAI ThANh
Th.S. Đ Thị hNg NgA
Đi hc Kinh t, Đi hc Đ Nng

217
bền vững, hợp tác cùng ngưi lao động, gia
đình h, cộng đồng v xã hội nói chung để cải
thiện chất lượng cuộc sống cho h, sao cho
vừa tốt cho doanh nghiệp vừa ích lợi cho phát
triển”1. Từ quan niệm đó có thể thấy trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp thể hiện trên
các phương diện sau:
- Đóng thuế đầy đủ
- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho
người lao động
- Bình đẳng trong đối xử với người lao
động
- Thực hiện tốt vấn đề vệ sinh, an toàn
thực phẩm
- Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
- Thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi
trường và tài nguyên thiên nhiên…
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp đang là
xu thế lớn mạnh trên thế giới, trở thành một
yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp
muốn phát triển bền vững trong quá trình hội
nhập. Ủy ban kinh tế thế giới về phát triển cho
rằng: trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
là một cam kết kinh doanh nhằm cư xử có
đạo đức và đóng góp cho sự phát triển kinh tế
cùng với việc nâng cao chất lượng cuộc sống
của người lao động, gia đình của họ cũng như
chất lượng cuộc sống của cộng đồng xã hội
nói chung.
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập
ngày càng sâu với kinh tế khu vực và thế giới,
các doanh nghiệp Việt Nam cũng buộc phải
thực hiện nghiêm ngặt những quy định về
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo quy
chuẩn quốc tế như Tiêu chuẩn trách nhiệm xã
hội SA 8000 và WRAP; Hệ thống quản trị môi
trường ISO 14000; Hệ thống quản lý an toàn
và sức khoẻ OHSAS 18001…trong đó phải
nói đến quy chuẩn về bảo vệ môi trường.
1. Mr. NiGel Twose- WB tại Washington DC. USA -
Hội thảo quốc gia về Trách nhiệm xã hội của DN và
khả năng cạnh tranh quốc gia, Hà Nội,12/2002.
hoạt động sản xuất kinh doanh là nhóm
hoạt động gây tác động tích cực và tiêu cực
tới vấn đề môi trường và ngược lại môi trường
cũng góp phần tạo nên những thuận lợi hay
khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh.
Nếu đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh
hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường
thì chắc chắn sẽ không có bất kỳ một hoạt
động kinh tế nào xảy ra. Vấn đề cần quan tâm
ở đây là mức độ tác động như thế nào (nguy
cơ gây hủy hoại, tàn phá môi trường; khả
năng hồi phục của môi trường; sự ảnh hưởng
bất lợi so với hiệu quả đem lại…).
Trước hết, cần đánh giá sự tác động của
các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đến môi trường:
Về tác động tích cực
Thứ nhất, trong chừng mực nhất định, hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp chẳng hạn
như hoạt động du lịch có thể việc xây dựng
các công viên vui chơi giải trí, công viên cây
xanh, hồ nước nhân tạo, các làng văn hóa du
lịch... có thể tạo nên môi trường mới hay góp
phần cải thiện môi trường.
Thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp tạo
điều kiện vật chất cho việc thực hiện các hoạt
động bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh
doanh sẽ tạo ra nguồn đóng góp cho ngân
sách nhà nước, là một nguồn tài chính quan
trọng cho hoạt động bảo vệ môi trường. Một
số lĩnh vực kinh doanh, như hoạt động nhập
khẩu và sản xuất thiết bị phục vụ công tác bảo
vệ môi trường, có tác động tích cực cho việc
giải quyết các vấn đề môi trường. Ví dụ như
sự phát triển của công nghệ sinh học và gia
tăng thương mại các sảm phẩm của nó sẽ góp
phần tích cực giúp làm giảm áp lực lên khai
thác và sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc
thiên nhiên.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp
tái chế chất thải góp phần cải thiện chất lượng
môi trường và giải quyết tình trạng ô nhiễm
môi trường do chất thải.
Th.S. LưU Thị MAI ThANh - Th.S. Đ Thị hNg NgA

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
218
Nhận thức được vấn đề trên, một số doanh
nghiệp có chiến lược phù hợp để vừa mang
lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, vừa bảo vệ
được môi trường. Điển hình đó là Công ty
TNHH Nhà Máy Bia Việt Nam (VBL). VBL
luôn cho rằng trước hết, doanh nghiệp phải tự
thân đặt ra trách nhiệm của mình đối với nhân
viên, dân cư xung quanh nhà máy, môi trường
sản xuất, môi trường thiên nhiên… Cụ thể,
VBL luôn có nhiều định hướng đầu tư và cải
tiến trang thiết bị, kỹ thuật nhằm bảo vệ môi
trường, chẳng hạn giảm thiểu sử dụng nước
và năng lượng trong sản xuất. Chương trình
Nhà Máy Xanh (Green Brewer) mà VBL đang
áp dụng đề ra mục tiêu giảm nhiệt năng tiêu
thụ xuống 15% vào năm 2015. Đồng thời,
VBL cũng đang nỗ lực đạt tỉ lệ đẳng cấp thế
giới là 2,5 lít nước/1 lít bia. Việc giảm lượng
nước trong sản xuất xuống tỉ lệ này góp phần
tiết kiệm nước rất đáng kể so với tỉ lệ 3,6 lít
nước/1 lít bia hiện nay.
Song song đó, VBL luôn nỗ lực để đảm
bảo nước thải qua xử lý sẽ được trả trực tiếp
vào nguồn nước công cộng của địa phương.
Do vậy, công ty đã tiến hành đầu tư nâng
cấp các hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu
chuẩn loại A ở 4 nhà máy đang hoạt động
tại TP.HCM, Tiền Giang, Quảng Nam và Đà
Nẵng với công suất xử lý hơn 30 triệu lít nước
thải/tháng, với kinh phí đầu tư khoảng 6 triệu
đô la Mỹ.
Quá trình xử lý nước thải thậm chí còn tạo
ra nhiều lợi ích, chẳng hạn khí metan sẽ được
sử dụng để làm chất đốt trong hệ thống nồi
hơi, giúp giảm thiểu mức tiêu thụ nhiên liệu.
Bùn cặn kết tủa trong quá trình xử lý nước
thải cũng được thu gom và làm khô, dùng để
cung cấp cho nông dân địa phương làm phân
bón.
VBL cũng nỗ lực xây dựng những chương
trình mang tính xã hội hóa rộng rãi, nâng cao
nhận thức của nhân viên, tiếp đến là các đối
tác kinh doanh và cuối cùng là nhân rộng ra
cộng đồng xã hội. Công ty đã làm “xanh hóa”
hệ thống cung ứng bằng cách hợp tác với
các nhà cung cấp và đối tác để tái chế và xử
lý an toàn chất thải một cách thân thiện với
môi trường, giảm khí thải trong quá trình vận
chuyển xuống khoảng 20%, sử dụng nguồn
nguyên liệu từ các nhà cung cấp nội địa…
Gần đây, chương trình “1 phút tiết kiệm”
của VBL đã góp phần đáng kể trong việc nâng
cao nhận thức của người dân trong việc bảo
vệ nguồn nước ở những nơi có nhà máy VBL
(TP.HCM, Tiền Giang và Đà Nẵng). Những
cam kết đơn giản nhưng mang đến hiệu quả
thiết thực như: khóa vòi nước khi đang đánh
răng, rửa tay, sử dụng máy giặt đúng công
suất, sử dụng nước trong lau chùi và tưới tiêu
hiệu quả… đã nhận được sự hưởng ứng tích
cực từ cộng đồng. Cùng với nhân viên, đối
tác, khách hàng của VBL, người dân ở nhiều
nơi đã “nhập cuộc” với cam kết cùng chung
tay bảo vệ nguồn nước.
Trách nhiệm với xã hội là tạo ra phúc lợi
cho cộng đồng, và từ đó việc kinh doanh sẽ
mang ý nghĩa tốt đẹp hơn. Có thể thấy, những
đầu tư về khoa học kỹ thuật tiên tiến của VBL
vừa trực tiếp giữ gìn môi trường lao động sản
xuất, vừa mang lại lợi ích cho cộng đồng dân
cư nơi các nhà máy hoạt động.
Về tác động tiêu cực
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh phát triển
làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Các nguồn tài nguyên
thiên nhiên là nguyên, nhiên, vật liệu trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc khai
thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động
sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những ảnh
hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó,
với các hệ thống dây chuyền công nghệ cũ
thì việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài
nguyên thiên nhiên là một hệ quả tất yếu.
Thứ hai, Hoạt động sản xuất, kinh doanh
phát triển cũng làm phát sinh nhiều yếu tố
ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất
thải. Lượng chất thải công nghiệp này dễ gây

219
suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh
như môi trường đất, môi trường nước, môi
trường không khí ảnh hưởng rất lớn tới sức
khỏe của con người.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội
nhập kinh tế quốc tế có thể làm phát sinh
những vấn đề môi trường thông qua hoạt
động nhập khẩu những sản phẩm hàng hóa
không thân thiện với môi trường vào Việt
Nam, trong đó có thể là những chất thải độc
hại.
Năm 2010, Bộ Tài Nguyên và Môi trường
công bố Báo cáo môi trường quốc gia, cho
thấy: Trong 5 năm qua, môi trường nước mặt
ở hầu hết các đô thị và một số lưu vực sông
của Việt Nam đều bị ô nhiễm các chất hữu
cơ và tình trạng này không ngừng gia tăng.
Tại hầu hết các sông, hồ, kênh, rạch trong nội
thành của các thành phố, thị trấn lớn, hàm
lượng các chất ô nhiễm hữu cơ đều vượt giới
hạn tối đa cho phép từ 2 đến 6 lần. Điển hình
là ô nhiễm tại lưu vực các sông gồm sông
Cầu, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Đồng Nai đã
tới mức báo động. Nghiêm trọng nhất là lưu
vực sông Đồng Nai, nguồn nước thuộc đoạn
sông Sài Gòn- Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm
nặng, chất lượng nước mặt dùng cho sinh
hoạt không đảm bảo, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe cộng đồng. Nguyên nhân
chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm này là do có
“trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm
phân tán, xen kẽ trong khu dân cư trên lưu
vực sông Đồng Nai.
Một thực trạng khác dẫn đến ô nhiễm
nguồn nước được bắt nguồn từ các sản phẩm
thải của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh
trong các khu công nghiệp và các làng nghề.
Ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản
xuất nông nghiệp cũng rất nghiêm trọng, gần
75% số dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn,
với cơ sở hạ tầng phần lớn lạc hậu, các chất
thải của con người và gia súc không được
xử lý, thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm
cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về hữu
cơ và sinh vật không ngừng tăng cao. Nhiều
nơi do các hộ dân nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt,
thiếu quy hoạch, các khu chế biển thuỷ hải
sản đông lạnh không tuân theo quy trình kỹ
thuật đã gây ra nhiều tác động tiêu cực tới
môi trường nước. Cùng với sự phát triển của
các làng nghề, hậu quả về môi trường do các
hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng
ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm
không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng
trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí
CO, CO2, SO2 thải ra trong quá trình sản xuất
khá cao. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính
tự phát, hộ sản xuất sử dụng phương tiện thủ
công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật
chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý
nước thải ít được họ quan tâm, ý thức bảo vệ
môi trường sinh thái của người dân làng nghề
còn kém. Bên cạnh đó chúng ta đang thiếu
cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan
chức năng của Nhà nước, chưa có những
chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề
thủ công gây ô nhiễm môi trường, nên tình
trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề
ngày càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức
“báo động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi
trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt
và sức khoẻ của những người dân làng nghề
mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân
sống ở vùng lân cận.
Sau nữa, chúng ta cũng cần đánh giá chất
lượng môi trường và các vấn đề môi trường
phát sinh, môi trường có thể tác động tích cực
và tiêu cực tới hoạt động sản xuất và kinh
doanh của các doanh nghiệp:
Về tác động tích cực
Thứ nhất, các thành phần môi trường, đặc
biệt là các nguồn tài nguyên, là một trong
những điều kiện để phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh. Các nguồn tài nguyên đó là
nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất. Tùy
vào nguồn tài nguyên ở từng vùng mà ở đó
sẽ phát triển những hoạt động sản xuất kinh
Th.S. LưU Thị MAI ThANh - Th.S. Đ Thị hNg NgA

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
220
doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở Quảng
Ninh, ngành công nghiệp khai thác than phát
triển bởi đây là nơi có nhiều mỏ than với trữ
lượng lớn...
Thứ hai, chất lượng môi trường phù hợp
sẽ bảo đảm cho hoạt động kinh doanh ổn
định và bền vững thông qua sự ổn định về
chất lượng sức lao động, chất lượng nguồn
nguyên, nhiên, vật liệu.
Về tác động tiêu cực
Thứ nhất, chất lượng môi trường có thể
làm phát sinh những chi phí cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh thông qua những vấn đề
liên quan đến sức lao động, chi phí ngoại ứng
đối với nguồn nguyên, vật liệu và làm tăng
giá thành sản phẩm từ đó làm giảm khả năng
cạnh tranh.
Thứ hai, chất lượng môi trường không bảo
đảm sẽ ảnh hưởng tới tính bền vững trong
hoạt động kinh doanh. Những bất ổn này có
thể là sự bất ổn về nguồn cung cho sản xuất
kinh doanh, những bất ổn phát sinh từ thiệt
hại do ô nhiễm môi trường gây ra cho các chủ
thể kinh doanh.
Nguyên nhân của sự tác động tiêu cực l
do:
Một l, hạn chế, bất cập của cơ chế, chính
sách, pháp luật về bảo vệ môi trường cũng
như việc tổ chức, thực hiện các văn bản, quy
định pháp luật của các cơ quan chức năng tại
Việt Nam.
Hai l, quyền hạn pháp lý của các tổ chức
bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng cảnh
sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã
hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình,
phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các
cơ sở pháp lý, chế tài xử phạt đối với các
loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các
loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa
chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo
dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành
vi xâm hại môi trường. Điển hình như vụ vi
phạm pháp luật về môi trường của Công ty
7 Vedan (Đồng Nai) làm ảnh hưởng đến đời
sống lâu dài của người dân mà không hề bị
xử lý hình sự.
Ba l, các cấp chính quyền chưa nhận thức
đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công
tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng
quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm
tra, giám sát về môi trường. Điển hình là sự
kiện Công ty Vedan bị bắt quả tang xả thẳng
nước thải chưa xử lý vào sông Thị Vải liên
tục 14 năm, chỉ thực sự bị xử lý khi đã “giết
chết” dòng sông.
Bốn l, do nhận thức chưa thực sự đầy
đủ của các doanh nghiệp về trách nhiệm
xã hội nên đối với các doanh nghiệp có thị
trường xuất khẩu, theo yêu cầu của đối tác
nước ngoài họ “buộc” phải thực hiện trách
nhiệm xã hội. Một số doanh nghiệp vừa và
nhỏ, họ chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “làm từ
thiện”. Một số khác cho rằng việc thực hiện
trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho
doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh
ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích nên
không muốn thực hiện.
Nhằm phát huy sự tác động tích cực và
giảm thiểu những tác động tiêu cực của hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp tới môi trường, chúng tôi đưa ra một
số nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, nhóm các giải pháp về nhận
thức của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp
cần thay đổi nhận thức về bảo vệ môi trường
nói chung và bảo vệ môi trường trong lĩnh
vực thương mại nói riêng, tiến tới thay đổi
hành vi của doanh nghiệp trong quá trình sản
xuất, kinh doanh..
- Giao cho VCCI phối hợp với các viện,
các trường đại học tổ chức tập huấn cho lãnh
đạo các doanh nghiệp về văn hóa doanh
nghiệp, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp. Đặc biệt nhấn mạnh

