
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, con người ngoài việc sử dụng kiến
thức chuyên môn, kỹ năng còn cần có yếu tố tự nhiên, xã hội và đặc biệt là chuẩn
mực đạo đức. Nhờ có tác động của yếu tố đạo đức đã hạn chế được những quan hệ
kinh doanh mang tính lừa gạt, gây tác động xấu đến môi trường, xã hội…
Trong nền kinh tế tri thức của thế giới ngày nay, yếu tố đạo đức luôn được
chú trọng đề cập trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, cải thiện chất lượng sản phẩm…, đồng thời
giúp người quản lý đưa ra quyết định đúng đắn, tạo sự trung thành của khách
hàng, mối quan hệ hợp tác bền vững với đối tác kinh doanh, nhà đầu tư và niềm
tin của người lao động. Chuẩn mực đạo đức kinh doanh là cơ sở tình cảm và trí
tuệ định hướng cho doanh nhân nghĩ đúng, làm đúng trong hoạch định và tổ chức
kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Nhằm tạo dựng những kỹ năng cần thiết về đạo đức để vận dụng vào hoạt
động của doanh nghiệp đồng thời đáp ứng kịp thời việc bổ sung kiến thức này
trong kinh doanh, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý của doanh nghiệp cũng
như tổ chức quản lý nhà nước, tài liệu Đạo đức trong kinh doanh được biên soạn
phục vụ cho người học và những ai quan tâm đến lĩnh vực này tham khảo.
Nội dung gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về đạo đức kinh doanh
Chương 2: Nghiên cứu, tiếp cận hành vi và xây dựng đạo đức kinh doanh
Chương 3: Văn hoá doanh nghiệp
Chương 4: Tạo lập và xây dựng văn hoá doanh nghiệp
Lưu ý: mọi đối tượng không được tự ý cung cấp, phát hành tài liệu này khi
chưa có ý kiến đồng ý của tác giả.
TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Mục đích: cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về đạo đức và
đạo đức kinh doanh như: khái niệm đạo đức và đạo đức kinh doanh, sự cần thiết của
đạo đức kinh doanh, các nghĩa vụ gắn với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
- Yêu cầu: giúp người học nắm vững khái niệm và nội dung kiến thức cơ bản
về đạo đức kinh doanh để nghiên cứu, vận dụng trong các nội dung của chương sau.
NỘI DUNG
1.1. KHÁI NIỆM
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là phạm trù đặc trưng khá rộng của xã hội loài người, đề cập đến
mối quan hệ giữa con người với nhau và các quy tắc ứng xử trong cuộc sống.
“Đạo đức” có gốc từ Latinh Moralital: bản thân mình cư xử, tiếng Hy Lạp
Ethigos: người khác muốn ta hành xử và ngược lại điều ta muốn ở họ; Hán-Việt:
đạo là đường đi, đức là đạo lý làm người, điều thiện. Từ góc độ khoa học, “đạo
đức là môn khoa học nghiên cứu về bản chất tự nhiên của cái đúng-sai và sự phân
biệt khi lựa chọn giữa cái đúng-sai, triết lý về cái đúng-sai, quy tắc hay chuẩn mực
chi phối hành vi các thành viên của một nghề nghiệp” (Từ điển điện tử American
Heritage Dictionary).
Đạo đức là tập hợp các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm tự giác
điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người đối với bản thân, xã hội và tự nhiên.
Đặc điểm của đạo đức
- Hình thái ý thức xã hội: phản ánh hiện tại và hiện thực đời sống đạo đức của
xã hội, quá trình phát triển của phương thức sản xuất và chế độ kinh tế xã hội đồng

3
thời là nguồn gốc quan điểm đạo đức của con người trong lịch sử.
- Phương thức điều chỉnh hành vi: sự tự điều chỉnh theo chuẩn mực đạo đức là
yêu cầu cho hành vi của mỗi cá nhân, nếu không tuân theo sẽ bị xã hội lên án, lương
tâm cắn rứt.
- Hệ thống giá trị, đánh giá: hệ thống giá trị xã hội được lấy làm chuẩn mực để
đánh giá các hành vi, sinh hoạt, phân biệt đúng-sai trong mối quan hệ của con người,
là toà án lương tâm có khả năng tự phê phán, đánh giá bản thân.
- Tự nguyện, tự giác ứng xử: đạo đức chỉ mang tính khuyên giải hay can ngăn,
thể hiện tính tự nguyện rất cao, không chỉ biểu hiện trong các mối quan hệ xã hội mà
còn thể hiện qua sự tự ứng xử, giúp con người rèn luyện nhân cách.
Bản chất của đạo đức
- Có tính giai cấp: các tầng lớp khác nhau có quan điểm khác nhau về nguyên
tắc, quy tắc, chuẩn mực điều chỉnh, đánh giá hành vi của con người đối với bản thân
và trong quan hệ với người khác, với xã hội.
- Tính dân tộc và địa phương: các dân tộc, vùng, miền có sự khác nhau về
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức.
- Tính lịch sử: các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thay đổi theo thời gian,
điều kiện lịch sử cụ thể.
- Đạo đức có tính nhân loại: đây là thành tố quan trọng và cơ bản hình thành
nên nền văn minh nhân loại.
Chức năng cơ bản của đạo đức là điều chỉnh hành vi con người theo các
chuẩn mực và quy tắc đạo đức đã được xã hội thừa nhận bằng sức mạnh của sự
thôi thúc lương tâm cá nhân, của dư luận xã hội, tập quán truyền thống và giáo dục.
Đạo đức quy định thái độ, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người đối với bản
thân cũng như
với người khác và xã hội, vì thế đây là khuôn mẫu, tiêu chuẩn để
xây dựng lối sống, lý tưởng của mỗi người.
Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức gồm: độ lượng, khoan dung, chính trực,
khiêm tốn, dũng cảm, trung thực, lương thiện…

4
Đạo đức khác pháp luật ở chỗ:
+ Sự điều chỉnh hành vi của đạo đức không có tính cưỡng bức, cưỡng chế
mà mang tính tự nguyện và các chuẩn mực đạo đức không được ghi thành văn bản
pháp quy.
+ Phạm vi điều chỉnh và ảnh hưởng của đạo đức rộng hơn pháp luật: pháp
luật chỉ điều chỉnh những hành vi liên quan đến chế độ xã hội, chế độ nhà nước;
còn đạo đức bao quát mọi lĩnh vực của thế giới tinh thần. Pháp luật chỉ làm rõ
những mẫu số chung nhỏ nhất của các hành vi hợp lẽ phải, hành vi đạo lý đúng đắn
tồn tại trên luật.
1.1.2. Khái niệm đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh gồm các nguyên tắc và chuẩn mực có tác dụng điều
chỉnh, đánh giá, hướng dẫn, kiểm soát hành vi của các chủ thể trong mối quan hệ
kinh doanh (như nhà đầu tư, quản trị, người lao động, khách hàng, các tổ chức, cộng
đồng dân cư…) để phán xét một hành động cụ thể là đúng hay sai, hợp hay phi
đạo đức.
Nguyên tắc và chuẩn mực của đạo đức kinh doanh:
- Tính trung thực: đảm bảo
chữ tín trong kinh doanh, thực hiện đúng cam
kết thỏa thuận, nhất quán trong nói và làm, nghiêm túc chấp hành quy định
pháp luật, không kinh doanh phi pháp như trốn hoặc gian lận thuế, kinh doanh
hàng hoá và dịch vụ quốc cấm, vi phạm thuần phong mỹ tục (hàng giả, khuyến
mại giả, quảng cáo sai sự thật, vi phạm bản quyền thương hiệu...).
- Tôn trọng con người về nhu cầu, sở thích, quyền lợi, quyền tự do theo
khuôn khổ pháp luật.
- Gắn kết, đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp, khách hàng và xã hội.
Đối tượng điều chỉnh của đạo đức kinh doanh là chủ thể hoạt động kinh
doanh, gồm: chủ thể của các mối quan hệ và hành vi kinh doanh.
- Doanh nghiệp: đạo đức kinh doanh điều chỉnh hành vi đạo đức thông qua
công tác lãnh đạo, quản lý các thành viên trong tổ chức. Đạo đức kinh doanh được
gọi là đạo đức nghề nghiệp.

5
- Khách hàng: hành động của họ đều xuất phát từ nhu cầu, lợi ích bản thân
với tâm lý muốn mua rẻ và được phục vụ tận tình, vì vậy cần có sự định hướng
của đạo đức kinh doanh để đảm bảo các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức.
1.2. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1.2.1. Vấn đề đạo đức trong kinh doanh
Tiếp cận từ góc độ đạo đức, vấn đề là trong một hoàn cảnh, trường hợp,
tình huống khó khăn mà cá nhân, tổ chức gặp phải hay tình thế khó xử khi phải
lựa chọn một trong nhiều cách hành động khác nhau dựa trên tiêu chí về sự đúng -
sai theo quan niệm phổ biến, chính thức của xã hội đối với hành vi trong trường
hợp tương tự - các chuẩn mực đạo lý xã hội. Sự khác biệt lớn giữa một vấn đề
mang tính đạo đức và vấn đề mang tính chất khác chính là tiêu chí lựa chọn để đưa
ra quyết định.
Vấn đề đạo đức thường bắt nguồn từ mâu thuẫn. Mâu thuẫn có thể xuất hiện
trong mỗi cá nhân hoặc giữa các đối tượng hữu quan do sự
bất đồng trong quan
niệm về giá trị đạo đức, mối quan hệ hợp tác và phối hợp, về
quyền lực - công
nghệ, trong các hoạt động phối hợp chức năng, phổ biến nhất là những vấn đề liên
quan đến lợi ích.
Khi xác định được vấn đề có chứa yếu tố đạo đức, người ta luôn tìm cách
giải quyết chúng. Giải pháp ban đầu là thông qua đối thoại trực tiếp giữa các bên
liên quan, nhưng nếu vấn đề nghiêm trọng, phức tạp thì thường diễn ra ở tòa án.
Vì vậy phát hiện, giải quyết các vấn đề đạo đức trong quá trình ra quyết định và
thông qua biện pháp quản lý có thể mang lại hệ quả tích cực cho tất cả các bên.
1.2.2. Nguồn gốc của vấn đề đạo đức kinh doanh
Nguồn gốc của vấn đề đạo đức kinh doanh chính là sự mâu thuẫn. Về cơ bản,
mâu thuẫn có thể xuất hiện từ nhiều khía cạnh khác nhau như triết lý hành động,
mối quan hệ quyền lực trong một tổ chức, sự phối hợp hay phân chia lợi ích và có
thể xuất hiện trong mỗi con người (tự mâu thuẫn), giữa những đối tượng hữu quan
bên trong như chủ sở hữu, người quản lý, đối tượng lao động hoặc với những đối