TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP ĐỐI VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG:
NGHIÊN CỨU TẠI CÔNG TY TNHH XE BUÝT DAEWOO VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Phương Loan1
Tóm tắt: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt
của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động, người tiêu dùng… Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đối với người lao động thể hiện trên các cấp độ thực hiện như trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp
, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện thông qua một số các biểu hiện cụ thể như: tạo việc làm, ký
kết hợp đồng lao động, trả lương, tham gia bảo hiểm xã hội, đào tạo… Tiến hành nghiên cứu thực tiễn tại
Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam để thấy được tình hình thực hiện trách nhiệm xã hội của Công ty
đối với người lao động để từ đó đưa ra một số đề xuất đối với công ty và Nhà nước để đẩy mạnh thực hiện
hoạt động này tại công ty nói riêng và các doanh nghiệp, tổ chức khác nói chung.
Từ khóa: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, Trách nhiệm xã hội đối với người lao động, Xe buýt Daewoo
Việt Nam
Abstract: Corporate social responsibility (CSR) is one of concerns attracting great attention of governments,
corporates, investors, employees, and consumers… CSR towards employees is shown in different layers
including economic responsibility, legal responsibility, ethical responsibility and philanthropic responsibilty
through specific activities as: employment creation, labor contract engagement, compensation, social
insurance, training… Researching in Vietnam Daewoo Bus company is to find out its current implementation
of CSR towards the employees in order to give several recommendations to both company and the
Government to improve the performance in the company in particular and in other organizations in general.
Keywords: Corporate social responsibility (CSR), Corporate social responsibility towards employees,
Vietnam Daewoo Bus Company
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là vấn đề ngày càng được quan tâm chú trọng. Trách
nhiệm hội không chỉ những yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp còn đóng vai trò quan
trọng, đóng góp vào sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc nhận
thức và thực hiện về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn còn thấp. Theo bà Nguyễn Thị Tuệ
Anh, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương: “Đa phần doanh nghiệp Việt
Nam vẫn chưa hiểu đúng về trách nhiệm hội. Do không nhận thức đầy đủ, các doanh nghiệp
thường thực hiện trách nhiệm xã hội một cách bị động, hình thức, bề nổi. Họ không chủ động tích
1 Email: phuongloan0710@gmail.com, Học viện Tài chính.
339
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
cực tìm kiếm hội thị trường thông qua cải thiện tiêu chuẩn lao động, thường coi trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp như gánh nặng chi phí. Đây là sai lầm lớn”. Đặc biệt, trong những năm
qua, liên tục xảy ra các sự việc vi phạm trách nhiệm hội của doanh nghiệp Việt Nam nói chung
và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động nói riêng, với thủ đoạn ngày càng
tinh vi, bài bản; điển hình là việc nợ lương, trốn đóng bảo hiểm xã hội, sử dụng lao động trẻ em,...
Công ty TNHH Xe buýt Daewoo công ty 100% vốn đầu của nước ngoài, trụ sở tại
thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Công ty chuyên rắp ráp, kinh doanh, phân phối các sản phẩm
xe khách, xe buýt trên thị trường Việt Nam và xuất khẩu. Được thành lập từ năm 2007 hơn 10 năm
qua, công ty đã đạt được những thành tựu nhất định, khẳng định được tên tuổi và chất lượng của
sản phẩm. Ông Nam Young Koo - Tổng giám đốc Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam cho
biết: một công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, chúng tôi rất quan tâm đến các chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các trách nhiệm xã hội của công ty nói chung, và trách nhiệm xã hội của
công ty đối với người lao động nói riêng”.
Mục tiêu của bài viết là đưa ra thuyết về thực hiện trách nhiệm hội của doanh nghiệp đối
với người lao động, nghiên cứu thực trạng thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động tại
Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam cuối cùng đề xuất một số giải pháp nhằm tăng
cường thực hiện trách nhiệm xã hội của Công ty TNHH Xe buýt Daewoo Việt Nam đối với người
lao động. Tác giả tiến hành thu thập dữ liệu bao gồm cả dữ liệu sơ cấp và thứ cấp. Số liệu thứ cấp
được tác giả tổng hợp tài liệu từ các sách, nghiên cứu, bài viết liên quan đến trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp, các thông kê, số liệu tại các phòng, ban của công ty TNHH Xe buýt Daewoo
Việt Nam. Đối với số liệu sơ cấp, tác giả tiến hành sử dụng phiếu khảo sát (thang điểm 5 trong đó
1 là không hài lòng và 5 là hài lòng nhất) cho đối tượng là người lao động của công ty để điều tra
mức độ hài lòng của họ về việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao
động (số phiếu phát ra: 90 phiếu, số phiếu thu về: 84 phiếu, số phiếu hợp lệ xử lý: 82 phiếu).
Ngoài ra, tác giả tiến hành phỏng vấn một số đối tượng tại công ty như: Tổng Giám đốc công ty,
Trưởng phòng Hành chính – Nhân sự, Chủ tịch Công đoàn, trưởng các bộ phận…
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Trách nhiệm hội (Corporate Social Responsibility CSR) của doanh nghiệp đã được các
nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu từ khoảng giữa thế kỷ 20 và kể từ đó đến nay TNXH đã trở
thành một trong những chủ đề gây nhiều tranh cãi với những bàn luận sôi nổi của các học giả, các
nhà nghiên cứu, các chính trị gia trên toàn thế giới trên nhiều khía cạnh. Các nghiên cứu tập
trung chủ yếu vào các khía cạnh như: những vấn đề luận cơ bản về TNXH của doanh nghiệp;
những tác động của CSR đối với các bên liên quan và những gợi ý chính sách, giải pháp thúc đẩy
CSR của doanh nghiệp. Một số kết quả nghiên cứu tiêu biểu về những vấn đề cơ bản của TNXH
doanh nghiệp như là Fredman Milton (1970), “The social responsibility of business is to increase
its profit”; Carroll Archie (1999), “Corporate Social Responisbility Evolution of a definitional
construct”; Duane Windsor (2006), “Corporate Social Responsibility: Three key approaches”;
Robert W.Sexty (2008), “Canadian business and society Ethics & Responsibility”. Cuốn sách này
đã đề cập một cách khá đầy đủ các nội dung liên quan đến đạo đức kinh doanh và TNXH DN như:
các khái niệm liên quan, tầm quan trọng của TNXH đối với doanh nghiệp, các cấp độ TNXH trong
340 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
DN cũng như quy trình xây dựng triển khai thực hiện TNXH. Đặc biệt cuốn sách đã tiếp cận
các nội dung này thông qua các tình huống thực tế của các doanh nghiệp chủ yếu các DN
Canada để rút ra các bài học cho các nhà quản trị cũng như các doanh nghiệp trong tiến trình triển
khai thực hiện TNXH tại doanh nghiệp mình.
Ở Việt Nam, TNXH của doanh nghiệp một khái niệm không “lạ lẫm” nhưng vẫn còn khá
mới mẻ, tương đối hồ với không ít chủ thể. Trách nhiệm hội xuất hiện được giới thiệu
tới Việt Nam bởi các công ty đa quốc gia có nhà máy tại Việt Nam thông qua các quy tắc ứng xử.
vậy mà số lượng các nghiên cứu về TNXH ở Việt Nam chưa nhiều. Những công trình nghiên
cứu về TNXH Việt Nam chủ yếu là nghiên cứu về lý luận, về khả năng áp dụng hay thực tế triển
khai tại một doanh nghiệp hay một ngành nhưng chủ yếu là tại ngành da giày và may mặc. Ví dụ
như tác giả Nguyễn Đình Cung và Lưu Minh Đức (2010), “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
CSR: một số vấn đề lý luận yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước đối với CSR ở Việt Nam”.
Bài viết đã tóm tắt một số vấn đề lý luận về TNXH, các vấn đề tranh cãi xoay quanh chủ đề này,
cũng như đã nêu ra được thực trạng hoạt động TNXH Việt Nam. Đồng thời các tác giả cũng nêu
những khuyến nghị về sự cần thiết của đổi mới chính sách QLNN nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp
Việt Nam trong thực hiện TNXH. Đề tài “Thực hiện trách nhiệm hội của doanh nghiệp chế biến
xuất khẩu thủy sản đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Nguyễn Thị Minh Nhàn và các cộng sự
(2015) đã nghiên cứu về nội dung thực hiện TNXH của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy
sản vùng đồng bằng sông Cửu Long đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường thực
hiện trách nhiệm xã hội tại các doanh nghiệp này.
3. LÝ THUYẾT VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP ĐỐI
VỚI NGƯỜI LAO ĐỘNG
3.1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Trách nhiệm hội của doanh nghiệp được các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu từ
khoảng giữa thế kỷ 20 trở thành một trong những chủ đề nhận được nhiều sự quan tâm, bàn luận
của các học giả, các nhà nghiên cứu, các chính trị gia trên toàn thế giới. Với các cách tiếp cận khác
nhau, trách nhiệm hội của doanh nghiệp được hiểu theo những cách khác nhau. Theo Prakash
& Sethi (1975), trách nhiệm hội của doanh nghiệp hàm ý nâng hành vi của doanh nghiệp lên
một mức phù hợp với các quy phạm, giá trị và kỳ vọng xã hội phổ biến. Archie B. Carroll (1979)
định nghĩa: “Trách nhiệm hội của doanh nghiệp bao gồm sự mong đợi của hội về kinh tế,
luật pháp, đạo đức lòng từ thiện đối với các tổ chức tại một thời điểm nhất định”. Maignan &
Ferrell (2004) cũng đưa ra khái niệm về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: “Một doanh nghiệp
trách nhiệm xã hội khi quyết định và hành động của nhằm tạo ra và cân bằng các lợi ích khác
nhau của những cá nhân và tổ chức liên quan”.
Trong khi đó, tổ chức phi lợi nhuận toàn cầu kinh doanh vì trách nhiệm xã hội (Business For
Social Responsibility – BSR) cho rằng trách nhiệm xã hội được nhìn nhận bởi lãnh đạo các công
ty nhiều hơn là một tập hợp các hoạt động riêng biệt hoặc những hành động không thường xuyên,
các sáng kiến được thúc đẩy bởi marketing, quan hệ công chúng hoặc các lợi ích khác. Hơn thế
nữa, được xem xét như một bộ các chính sách, hành động, chương trình toàn diện xuyên suốt
các hoạt động kinh doanh, quá trình ra quyết định được hỗ trợ và khen thưởng bởi ban lãnh đạo.
341
PHẦN 2 : QUAN HỆ LAO ĐỘNG, TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI, QUYỀN LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP
Hội đồng doanh nghiệp thế giới phát triển bền vững (World Business Council for Sustainable
Development – WBCSD) nhấn mạnh: “Trách nhiệm xã hội cam kết liên tục của doanh nghiệp
hành xử một cách có đạo đức và đóng góp vào sự phát triển kinh tế trong khi nâng cao chất lượng
cuộc sống của lực lượng lao động gia đình của họ cũng như của cộng đồng hội nói chung”.
Như vậy, được tiếp cận diễn đạt theo những cách khác nhau nhưng thể thấy rằng
trách nhiệm xã hội thể hiện được mối quan hệ ràng buộc và mật thiết giữa những lợi ích phát triển
riêng của từng doanh nghiệp trên sở phù hợp với pháp luật hiện hành đi kèm với lợi ích phát
triển chung của cộng đồng và xã hội.
3.2. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Theo cách tiếp cận cấp độ thực hiện, trách nhiệm hội của doanh nghiệp được chia làm bốn
cấp độ, bao gồm trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức trách nhiệm từ
thiện (Archie B. Carroll, 1999). Theo đó, trách nhiệm kinh tế thể hiện thông qua hoạt động tối đa hóa
lợi nhuận, nâng cao tính cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh và tăng trưởng. Đây là điều kiện tiên quyết
bởi mục tiêu chính của hầu hết các doanh nghiệp, tổ chức là tìm kiếm lợi nhuận. Trách nhiệm pháp
sự cam kết của doanh nghiệp đối với hội, thông qua việc tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực
đạo đức được Nhà nước ban hành trong các văn bản pháp luật. Trong khi đó, trách nhiệm đạo đức
những chuẩn mực, quy tắc được xã hội thừa nhận nhưng chưa được đưa vào trong các văn bản luật.
Trên thực tế, những chuẩn mực xã hội luôn biến đổi theo thời gian và sự thay đổi về nhận thức của
con người pháp luật không thể phản ánh được hết được. vậy, bên cạnh việc thực hiện trách
nhiệm pháp lý, doanh nghiệp còn cần phải thực hiện các cam kết ngoài luật, đó chính là trách nhiệm
đạo đức. Cuối cùng, trách nhiệm từ thiện là những hành vi của doanh nghiệp vượt qua sự mong đợi
hay kỳ vọng của xã hội như trao học bổng, quyên góp, ủng hộ… Như vậy, trách nhiệm đạo đức
trách nhiệm từ thiện không phải là trách nhiệm mang tính bắt buộc hay có sự ràng buộc về mặt pháp
luật, thể hiện được sự mong đợi và kì vọng của xã hội đối với các tổ chức và doanh nghiệp.
Theo cách tiếp cận các bên liên quan, R. Edward Freeman (1984) cho rằng các bên liên quan
là các cá nhân/ nhóm có thể tác động/ bị tác động bởi việc hiện thực hóa sứ mệnh của một tổ chức.
Archie B. Carroll (1989) chia các bên liên quan thành hai nhóm là nhóm bên liên quan chủ yếu (là
những cá nhân/ tổ chức liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp trong hoạt động kinh tế và có một hợp
đồng công khai như: cổ đông, người lao động, khách hàng, nhà cung ứng…) các bên liên quan
thứ yếu (là những đối tượng quan hệ tự nguyện/ không tự nguyện với doanh nghiệp, mang tính
đạo đức như: hiệp hội, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ, địa phương…). Trong khi đó, Clarkson
(1995) đề xuất hai nhóm bên liên quan là nhóm tự nguyện (có quan hệ với doanh nghiệp thông qua
các ràng buộc chịu một số rủi ro từ hoạt động của doanh nghiệp) nhóm không tự nguyện (không
có mối liên hệ nào với doanh nghiệp, nhưng cũng phải chịu rủi ro từ hoạt động của doanh nghiệp).
“Lý thuyết bộ ba phát triển bền vững” (Triple bottom line theory TBL) được John Elkington
(1997) đưa vào với việc xác định ba yếu tố cốt lõi trong hoạt động của một tổ chức, bao gồm: kinh
tế, môi trường và xã hội được biểu hiện lần lượt thông qua 3P lợi nhuận (Profit), trái đất (Planet)
con người (People), tạo cơ sở thực hiện trách nhiệm hội và góp phần vào sự phát triển bền
vững của một quốc gia, một tổ chức. Như vậy, sự phát triển bền vững của một quốc gia đòi hỏi sự
tham gia và đóng góp của các doanh nghiệp thông qua chính các chương trình trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp.
342 QUẢN TRỊ NHÂN LỰC DOANH NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
3.3. Nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động
Người lao động đóng vai trò quan trọng, được coi như xương sống của bất cứ tổ chức,
doanh nghiệp nào bởi doanh nghiệp không thể duy trì hoạt động phát triển được được nếu
không có người lao động. Việc thực hiện trách nhiệm hội của doanh nghiệp đối với người lao
động nhằm đảm bảo quyền cho người lao động, tạo môi trường thuận lợi cho người lao động lao
động, làm việc và phát triển.
Người lao động một trong những yếu tố bản trong nội dung trách nhiệm xã hội theo cách
tiếp cận các bên liên quan (thuộc nhóm liên quan chủ yếu) và lý thuyết bộ ba phát triển bền vững
(yếu tố con người); do vậy, để làm rõ nội dung tác động của trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
đối với người lao động, tác giả tiến hành sử dụng cách tiếp cận theo cấp độ thực hiện. Theo đó, nội
dung của trách nhiệm hội của doanh nghiệp đối với người lao động tập trung vào bốn cấp độ
cơ bản, từ trách nhiệm kinh tế, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện.
Bảng 1 dưới đây trình bày một số biểu hiện cụ thể nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
đối với người lao động theo các cấp độ khác nhau.
Bảng 1: Một số biểu hiện cụ thể nội dung trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động theo cấp độ thực hiện
Cấp độ thực hiện Biểu hiện cụ thể
Trách
nhiệm
kinh tế
Doanh nghiệp duy trì, phát triển kinh doanh để trả lương cho người lao
động
Doanh nghiệp tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động
Trách nhiệm pháp lý
Thực hiện ký kết hợp đồng lao động
Thực hiện thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi
Thực hiện thời gian làm thêm giờ
Thực hiện trang bị bảo hộ lao động, an toàn lao động
Thực hiện các vấn đề về lương
Thực hiện các vấn đề về bảo hiểm xã hội
Thực hiện các vấn đề về sức khỏe người lao động
Thực hiện các vấn đề về Công đoàn
Trách nhiệm đạo đức và từ thiện
Đào tạo và phát triển, nâng cao trình độ
Mua sắm đồng phục
Bố trí xe đưa đón
Cung cấp chương trình chăm sóc sức khỏe, bảo hiểm nhân thọ
Cung cấp bữa ăn
Thăm hỏi người lao động ốm đau, có hoàn cảnh khó khăn
Khen hưởng lao động có sáng kiến và thành tích tốt trong lao động
Tổ chức nghỉ hè, nghỉ mát
Tạo cơ hội cho người lao động tham gia đóng góp ý kiến
Cung cấp chương trình tập luyện thể thao, giải trí, văn hóa
Xây dựng trường học cho con cán bộ, công nhân viên
Khen thưởng cho con cán bộ có thành tích tốt trong học tập
Nguồn: Tổng hợp của tác giả