216

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

Th.S. LưU Thị MAI ThANh

Th.S. Đỗ Thị hằNg NgA Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng

TÓM TẮT Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, vai trò trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ngày càng quan trọng trong họat động kinh doanh. Trách nhiệm xã hội là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp nâng cao chất lượng, giá trị, tăng doanh thu của doanh nghiệp; đồng thời nó cũng là công cụ giúp các doanh nghiệp phát triển bền vững. Ở Việt Nam, vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, để phát triển bền vững các doanh nghiệp buộc phải tuân theo những chuẩn mực về bảo vệ môi trường cũng như về an toàn lao động, …Vì vậy, trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp trở thành một yêu cầu không thể thiếu của các doanh nghiệp, phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam với bảo vệ môi trường; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của mình với môi trường.

Từ khóa: Trách nhiệm xã hội, doanh nghiệp, bảo vệ môi trường, đạo đức, kinh doanh

Trong một thế giới công nghệ thông

quả tích cực. Các doanh nghiệp muốn khẳng định được thương hiệu trên thị trường thì điều mà họ hướng tới bây giờ là việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR – Corporate Social Responsibility).

tin ngày càng phát triển, xu hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa trở thành một tất yếu khách quan, mối quan hệ giữa các nền kinh tế ngày càng mật thiết và gắn bó, hoạt động giao lưu thương mại giữa các quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ thì sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng ngày càng gay gắt. Nếu như trước đây các công ty dùng biện pháp đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng hàng hóa làm biện pháp cạnh tranh hữu hiệu để giành lợi thế trên thương trường; thì hiện nay, các công ty lại chú ý tới việc xây dựng và phát triển thương hiệu thông qua việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh. Đây là một trong những giải pháp đang được các doanh nghiệp áp dụng và bước đầu đem lại hiệu Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp xuất hiện vào những năm 1950 của thế kỷ XX. Nhưng mãi đến những năm 1990 mới có các khái niệm “ doanh nghiệp có trách nhiệm xã hội”, hoặc “ doanh nghiệp có đạo đức”. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, nhưng hiện nay một trong các định nghĩa được sử dụng nhiều nhất đó là theo chuyên gia của Ngân hàng Thế giới (WB): “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility) là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào sự phát triển kinh tế

Th.S. LưU Thị MAI ThANh - Th.S. Đỗ Thị hằNg NgA

217

bền vững, hợp tác cùng người lao động, gia đình họ, cộng đồng và xã hội nói chung để cải thiện chất lượng cuộc sống cho họ, sao cho vừa tốt cho doanh nghiệp vừa ích lợi cho phát triển”1. Từ quan niệm đó có thể thấy trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp thể hiện trên các phương diện sau:

- Đóng thuế đầy đủ

- Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động

- Bình đẳng trong đối xử với người lao động hoạt động sản xuất kinh doanh là nhóm hoạt động gây tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề môi trường và ngược lại môi trường cũng góp phần tạo nên những thuận lợi hay khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh. Nếu đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường thì chắc chắn sẽ không có bất kỳ một hoạt động kinh tế nào xảy ra. Vấn đề cần quan tâm ở đây là mức độ tác động như thế nào (nguy cơ gây hủy hoại, tàn phá môi trường; khả năng hồi phục của môi trường; sự ảnh hưởng bất lợi so với hiệu quả đem lại…).

- Thực hiện tốt vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm

Trước hết, cần đánh giá sự tác động của các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đến môi trường: - Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng

Về tác động tích cực - Thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên…

Thứ nhất, trong chừng mực nhất định, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chẳng hạn như hoạt động du lịch có thể việc xây dựng các công viên vui chơi giải trí, công viên cây xanh, hồ nước nhân tạo, các làng văn hóa du lịch... có thể tạo nên môi trường mới hay góp phần cải thiện môi trường.

Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp đang là xu thế lớn mạnh trên thế giới, trở thành một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp muốn phát triển bền vững trong quá trình hội nhập. Ủy ban kinh tế thế giới về phát triển cho rằng: trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một cam kết kinh doanh nhằm cư xử có đạo đức và đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động, gia đình của họ cũng như chất lượng cuộc sống của cộng đồng xã hội nói chung.

Thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra nguồn đóng góp cho ngân sách nhà nước, là một nguồn tài chính quan trọng cho hoạt động bảo vệ môi trường. Một số lĩnh vực kinh doanh, như hoạt động nhập khẩu và sản xuất thiết bị phục vụ công tác bảo vệ môi trường, có tác động tích cực cho việc giải quyết các vấn đề môi trường. Ví dụ như sự phát triển của công nghệ sinh học và gia tăng thương mại các sảm phẩm của nó sẽ góp phần tích cực giúp làm giảm áp lực lên khai thác và sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên.

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập ngày càng sâu với kinh tế khu vực và thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam cũng buộc phải thực hiện nghiêm ngặt những quy định về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp theo quy chuẩn quốc tế như Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000 và WRAP; Hệ thống quản trị môi trường ISO 14000; Hệ thống quản lý an toàn và sức khoẻ OHSAS 18001…trong đó phải nói đến quy chuẩn về bảo vệ môi trường.

1. Mr. NiGel Twose- WB tại Washington DC. USA - Hội thảo quốc gia về Trách nhiệm xã hội của DN và khả năng cạnh tranh quốc gia, Hà Nội,12/2002.

Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải góp phần cải thiện chất lượng môi trường và giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải.

218

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

các nhà cung cấp và đối tác để tái chế và xử lý an toàn chất thải một cách thân thiện với môi trường, giảm khí thải trong quá trình vận chuyển xuống khoảng 20%, sử dụng nguồn nguyên liệu từ các nhà cung cấp nội địa…

Gần đây, chương trình “1 phút tiết kiệm” của VBL đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao nhận thức của người dân trong việc bảo vệ nguồn nước ở những nơi có nhà máy VBL (TP.HCM, Tiền Giang và Đà Nẵng). Những cam kết đơn giản nhưng mang đến hiệu quả thiết thực như: khóa vòi nước khi đang đánh răng, rửa tay, sử dụng máy giặt đúng công suất, sử dụng nước trong lau chùi và tưới tiêu hiệu quả… đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ cộng đồng. Cùng với nhân viên, đối tác, khách hàng của VBL, người dân ở nhiều nơi đã “nhập cuộc” với cam kết cùng chung tay bảo vệ nguồn nước.

Nhận thức được vấn đề trên, một số doanh nghiệp có chiến lược phù hợp để vừa mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, vừa bảo vệ được môi trường. Điển hình đó là Công ty TNHH Nhà Máy Bia Việt Nam (VBL). VBL luôn cho rằng trước hết, doanh nghiệp phải tự thân đặt ra trách nhiệm của mình đối với nhân viên, dân cư xung quanh nhà máy, môi trường sản xuất, môi trường thiên nhiên… Cụ thể, VBL luôn có nhiều định hướng đầu tư và cải tiến trang thiết bị, kỹ thuật nhằm bảo vệ môi trường, chẳng hạn giảm thiểu sử dụng nước và năng lượng trong sản xuất. Chương trình Nhà Máy Xanh (Green Brewer) mà VBL đang áp dụng đề ra mục tiêu giảm nhiệt năng tiêu thụ xuống 15% vào năm 2015. Đồng thời, VBL cũng đang nỗ lực đạt tỉ lệ đẳng cấp thế giới là 2,5 lít nước/1 lít bia. Việc giảm lượng nước trong sản xuất xuống tỉ lệ này góp phần tiết kiệm nước rất đáng kể so với tỉ lệ 3,6 lít nước/1 lít bia hiện nay.

Trách nhiệm với xã hội là tạo ra phúc lợi cho cộng đồng, và từ đó việc kinh doanh sẽ mang ý nghĩa tốt đẹp hơn. Có thể thấy, những đầu tư về khoa học kỹ thuật tiên tiến của VBL vừa trực tiếp giữ gìn môi trường lao động sản xuất, vừa mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư nơi các nhà máy hoạt động.

Về tác động tiêu cực

Song song đó, VBL luôn nỗ lực để đảm bảo nước thải qua xử lý sẽ được trả trực tiếp vào nguồn nước công cộng của địa phương. Do vậy, công ty đã tiến hành đầu tư nâng cấp các hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn loại A ở 4 nhà máy đang hoạt động tại TP.HCM, Tiền Giang, Quảng Nam và Đà Nẵng với công suất xử lý hơn 30 triệu lít nước thải/tháng, với kinh phí đầu tư khoảng 6 triệu đô la Mỹ.

Quá trình xử lý nước thải thậm chí còn tạo ra nhiều lợi ích, chẳng hạn khí metan sẽ được sử dụng để làm chất đốt trong hệ thống nồi hơi, giúp giảm thiểu mức tiêu thụ nhiên liệu. Bùn cặn kết tủa trong quá trình xử lý nước thải cũng được thu gom và làm khô, dùng để cung cấp cho nông dân địa phương làm phân bón.

Thứ nhất, hoạt động kinh doanh phát triển làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên, nhiên, vật liệu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó, với các hệ thống dây chuyền công nghệ cũ thì việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một hệ quả tất yếu.

Thứ hai, Hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển cũng làm phát sinh nhiều yếu tố ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất thải. Lượng chất thải công nghiệp này dễ gây VBL cũng nỗ lực xây dựng những chương trình mang tính xã hội hóa rộng rãi, nâng cao nhận thức của nhân viên, tiếp đến là các đối tác kinh doanh và cuối cùng là nhân rộng ra cộng đồng xã hội. Công ty đã làm “xanh hóa” hệ thống cung ứng bằng cách hợp tác với

Th.S. LưU Thị MAI ThANh - Th.S. Đỗ Thị hằNg NgA

219

suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh như môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe của con người.

Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm phát sinh những vấn đề môi trường thông qua hoạt động nhập khẩu những sản phẩm hàng hóa không thân thiện với môi trường vào Việt Nam, trong đó có thể là những chất thải độc hại.

cơ và sinh vật không ngừng tăng cao. Nhiều nơi do các hộ dân nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, các khu chế biển thuỷ hải sản đông lạnh không tuân theo quy trình kỹ thuật đã gây ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với sự phát triển của các làng nghề, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO2, SO2 thải ra trong quá trình sản xuất khá cao. Tuy nhiên, do sản xuất mang tính tự phát, hộ sản xuất sử dụng phương tiện thủ công lạc hậu, chắp vá, mặt bằng sản xuất chật chội, việc đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải ít được họ quan tâm, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái của người dân làng nghề còn kém. Bên cạnh đó chúng ta đang thiếu cơ chế quản lý, giám sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước, chưa có những chế tài đủ mạnh đối với những hộ làm nghề thủ công gây ô nhiễm môi trường, nên tình trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ngày càng trầm trọng và hiện nay đã ở mức “báo động đỏ”. Hoạt động gây ô nhiễm môi trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống ở vùng lân cận.

Năm 2010, Bộ Tài Nguyên và Môi trường công bố Báo cáo môi trường quốc gia, cho thấy: Trong 5 năm qua, môi trường nước mặt ở hầu hết các đô thị và một số lưu vực sông của Việt Nam đều bị ô nhiễm các chất hữu cơ và tình trạng này không ngừng gia tăng. Tại hầu hết các sông, hồ, kênh, rạch trong nội thành của các thành phố, thị trấn lớn, hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ đều vượt giới hạn tối đa cho phép từ 2 đến 6 lần. Điển hình là ô nhiễm tại lưu vực các sông gồm sông Cầu, sông Nhuệ, sông Đáy, sông Đồng Nai đã tới mức báo động. Nghiêm trọng nhất là lưu vực sông Đồng Nai, nguồn nước thuộc đoạn sông Sài Gòn- Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm nặng, chất lượng nước mặt dùng cho sinh hoạt không đảm bảo, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe cộng đồng. Nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng ô nhiễm này là do có “trên 9.000 cơ sở sản xuất công nghiệp nằm phân tán, xen kẽ trong khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai.

Sau nữa, chúng ta cũng cần đánh giá chất lượng môi trường và các vấn đề môi trường phát sinh, môi trường có thể tác động tích cực và tiêu cực tới hoạt động sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp:

Về tác động tích cực Một thực trạng khác dẫn đến ô nhiễm nguồn nước được bắt nguồn từ các sản phẩm thải của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong các khu công nghiệp và các làng nghề.

Thứ nhất, các thành phần môi trường, đặc biệt là các nguồn tài nguyên, là một trong những điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nguồn tài nguyên đó là nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất. Tùy vào nguồn tài nguyên ở từng vùng mà ở đó sẽ phát triển những hoạt động sản xuất kinh Ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp cũng rất nghiêm trọng, gần 75% số dân Việt Nam sinh sống ở nông thôn, với cơ sở hạ tầng phần lớn lạc hậu, các chất thải của con người và gia súc không được xử lý, thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về hữu

220

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở Quảng Ninh, ngành công nghiệp khai thác than phát triển bởi đây là nơi có nhiều mỏ than với trữ lượng lớn... vi xâm hại môi trường. Điển hình như vụ vi phạm pháp luật về môi trường của Công ty 7 Vedan (Đồng Nai) làm ảnh hưởng đến đời sống lâu dài của người dân mà không hề bị xử lý hình sự.

Thứ hai, chất lượng môi trường phù hợp sẽ bảo đảm cho hoạt động kinh doanh ổn định và bền vững thông qua sự ổn định về chất lượng sức lao động, chất lượng nguồn nguyên, nhiên, vật liệu.

Về tác động tiêu cực

Ba là, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Điển hình là sự kiện Công ty Vedan bị bắt quả tang xả thẳng nước thải chưa xử lý vào sông Thị Vải liên tục 14 năm, chỉ thực sự bị xử lý khi đã “giết chết” dòng sông.

Thứ nhất, chất lượng môi trường có thể làm phát sinh những chi phí cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua những vấn đề liên quan đến sức lao động, chi phí ngoại ứng đối với nguồn nguyên, vật liệu và làm tăng giá thành sản phẩm từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh.

Thứ hai, chất lượng môi trường không bảo đảm sẽ ảnh hưởng tới tính bền vững trong hoạt động kinh doanh. Những bất ổn này có thể là sự bất ổn về nguồn cung cho sản xuất kinh doanh, những bất ổn phát sinh từ thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra cho các chủ thể kinh doanh.

Bốn là, do nhận thức chưa thực sự đầy đủ của các doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội nên đối với các doanh nghiệp có thị trường xuất khẩu, theo yêu cầu của đối tác nước ngoài họ “buộc” phải thực hiện trách nhiệm xã hội. Một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ chỉ hiểu trách nhiệm xã hội là “làm từ thiện”. Một số khác cho rằng việc thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ làm tăng chi phí cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng cạnh tranh ban đầu mà chưa thấy ngay được lợi ích nên không muốn thực hiện. Nguyên nhân của sự tác động tiêu cực là

do:

Nhằm phát huy sự tác động tích cực và giảm thiểu những tác động tiêu cực của hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tới môi trường, chúng tôi đưa ra một số nhóm giải pháp sau:

Một là, hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường cũng như việc tổ chức, thực hiện các văn bản, quy định pháp luật của các cơ quan chức năng tại Việt Nam.

Thứ nhất, nhóm các giải pháp về nhận thức của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần thay đổi nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực thương mại nói riêng, tiến tới thay đổi hành vi của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh..

- Giao cho VCCI phối hợp với các viện, các trường đại học tổ chức tập huấn cho lãnh đạo các doanh nghiệp về văn hóa doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Đặc biệt nhấn mạnh Hai là, quyền hạn pháp lý của các tổ chức bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Các cơ sở pháp lý, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành

Th.S. LưU Thị MAI ThANh - Th.S. Đỗ Thị hằNg NgA

221

lợi ích đạt được nếu doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội khi tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, đây chính là nền tảng để giúp doanh nghiệp phát triển bền vững.

Thứ hai, nhóm giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp nhằm mục đích phát triển hoạt động của mình mà không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Ngoài ra còn có kinh phí đầu tư cho việc bảo vệ môi trường.

- Chính Phủ cần xây dựng các chương trình trọng điểm, đề án quốc gia như thúc đẩy chương trình vệ sinh, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường... để thông qua đó, các doanh nghiệp phải nỗ lực tham gia. Phát huy hơn nữa chế độ khen thưởng, ưu đãi đối với các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội cũng như lên án, xử phạt và có biện pháp mạnh khi các doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm với cộng đồng. Thứ ba, nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý môi trường tại doanh nghiệp. Cụ thể là cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về môi trường nhằm áp dụng các quy định của pháp luật môi trường có khả năng vận hành các hệ thống xử lý, phân tích kiểm tra mức độ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường của các sản phẩm và chất thải..

Thứ tư, nhóm giải pháp về pháp lý

- Chính Phủ cần giao cho các Bộ, Ban, Ngành có kế hoạch truyền thông, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, làm cho tất cả các doanh nghiệp, trước hết là các chủ doanh nghiệp hiểu về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Điều quan trọng là, làm sao để việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trở thành động cơ bên trong của các doanh nghiệp, được xem là hành vi đạo đức và được điều khiển bằng động cơ đạo đức từ những người đứng đầu doanh nghiệp. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về trách nhiệm xã hội, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường, biện pháp khắc phục, bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác trên thế giới…

- Chính Phủ cần xây dựng một hành lang pháp lý bắt buộc các doanh nghiệp phải thực thi trách nhiệm xã hội một cách đầy đủ và nghiêm túc. Khung pháp lý chính là biện pháp có hiệu lực nhất đối với việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; đồng thời, là giải pháp hỗ trợ đắc lực cho giải pháp về đạo đức, làm cho các động cơ đạo đức thường xuyên được củng cố và ngày càng có hiệu lực trên thực tế. Chính phủ cần phải hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về môi trường, khắc phục nhanh chóng sự chồng chéo, thiếu đồng bộ như hiện nay. Bên cạnh đó có những biện pháp mạnh tay như thiết lập chế tài và quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự, đối với những trường hợp vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thực hiện việc trao quyền rõ ràng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp để thực hiện việc kiểm soát vấn đề ô nhiễm môi trường từ các khu công nghiệp, các làng nghề… gây ra.

- Nâng cao nhận thức cho khách hàng, khuyến khích người tiêu dùng chỉ sử dụng những sản phẩm, dịch vụ rõ ràng về nguồn gốc, được kiểm định và các sản phẩm có chứng nhận doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm xã hội. Thúc đẩy mạnh hơn nữa các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm sạch, chất lượng cao và an toàn, không gây ô nhiễm; không mua hàng hoá của những doanh nghiệp không thực hiện tốt các nội dung cơ bản của trách nhiệm xã hội, trong đó có nội dung liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm và ô nhiễm môi trường.

- Đặc biệt áp dụng giải pháp công nghệ - Nhà nước cần giao thêm quyền cho các Sở kế hoạch đầu tư các Tỉnh, Thành phố trong cả nước xây dựng các điều kiện cần và đủ phù hợp với từng lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp khi đăng kí xin Giấy phép kinh doanh sạch

222

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

nếu ở ngành nghề kinh doanh chính của họ có các hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến việc xử lý các chất thải, nước thải, độ bụi… Sở kế hoạch đầu tư sẽ không cấp đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp đó nếu doanh nghiệp không có dự án về xử lý các chất thải, nước thải, độ bụi… Như vậy, doanh nghiệp buộc phải có kế hoạch và lộ trình thực hiện nghiêm túc vấn đề chống ô nhiễm môi trường mới được cấp Giấy phép kinh doanh.

doanh nghiệp mà nó còn là đại diện bộ mặt của quốc gia trong mắt bạn bè trên toàn thế giới. Chính vì vậy, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp không phải là bề nổi, không chỉ đơn giản là một khía cạnh “cộng thêm” mà là bản chất của doanh nghiệp. Nói cách khác, doanh nghiệp càng có trách nhiệm xã hội bao nhiêu, càng có khả năng sinh lợi nhiều bấy nhiêu và ngược lại. Và vì trách nhiệm xã hội là bản chất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp phải thể hiện trách nhiệm xã hội của mình một cách toàn diện nhằm chung sức xây dựng cộng đồng trong thời đại mới. Trong thời đại toàn cầu hóa, uy tín doanh nghiệp không phải chỉ tác động đến bản thân

TÀI LIỆU ThAM KhẢO

1. Bộ Luật lao động của nước CHXHCN Việt Nam (Bộ luật lao động số 35-L/CTN ban hành ngày 5/7/1994; Luật sửa đổi bổ sung một số Điều của Bộ luật lao động số 35/2002/QH10 ngày 19/4/2002 và số 74/2006/QH11 ngày 12/12/2006).

2. Luật Bảo vệ Môi trường của nước CHXHCN Việt Nam 3. Các giải pháp thúc đẩy việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia

nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài cấp Bộ mã số CB 2007-01-04 của Bộ LĐ-TB-XH, Hà Nội, 2008. 4. Nguyễn Mạnh Quân (2007), “Đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp”, NXB ĐHKT Quốc dân. 5. Phùng Xuân Nhạ ( Chủ biên), Nhân cách doanh nhân và văn hóa kinh doanh ở Việt Nam trong thời kỳ đổi

mới, hội nhập quốc tế. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội

6. Mr. NiGel Twose- WB tại Washington DC. USA - Hội thảo quốc gia về Trách nhiệm xã hội của DN và khả

năng cạnh tranh quốc gia, Hà Nội,12/2002.

7. Một số báo điện tử.