
Trị nhức đầu bằng đông y
Đau nửa đầu còn gọi là migraine, bao gồm những cơn đau kịch phát, tái
diễn không theo chu kỳ nhất định, thường kèm theo những rối loạn về thị giác và
rối loạn tiêu hóa.

Đau nửa đầu là một căn bệnh khó chịu đang hành hạ khoảng 20% dân số
thế giới, không phân biệt giới tính, nguồn gốc, tuổi tác. Bệnh đặc biệt trầm trọng
đối với những phụ nữ ở độ tuổi 20 đến 40.
Triệu chứng
Bệnh nhân thường trải qua một giai đoạn suy sụp về tinh thần, buồn phiền,
bứt rứt, biếng ăn, hoa mắt, buồn nôn. Những triệu chứng này có thể xảy ra liền
trước hoặc đồng thời với những cơn nhức đầu. Trong khi nhức đầu, bệnh nhân
thường thấy buồn nôn, sợ ánh sáng, tiếng ồn, sợ những kích thích và muốn được
yên tĩnh. Cơn nhức đầu xảy ra ở một bên đầu, bên phải hoặc bên trái và thường chỉ
xảy ra ở bên đó đối với mỗi bệnh nhân. Hãn hữu ở một số rất ít trường hợp, cơn
nhức đầu có thể xảy ra ở bên đối diện hoặc nhức cả hai bên.
Khi cơn nhức đầu xảy ra, các mạch máu ngoại biên ở vùng đầu có liên quan
thường nổi rõ lên. Những khảo cứu của y học hiện đại cho thấy biên độ của sóng
mạch gia tăng. Điều này phù hợp với hiện tượng mạch của bệnh nhân chuyển từ
trầm huyền hoặc trầm tế sang huyền khẩn hoặc phù huyền sác lúc cơn đau dữ dội
nổi lên. Một số nhà khoa học cho rằng những bệnh nhân đã bị đau nửa đầu nhiều
năm thường dẫn đến áp huyết cao và tổn thương thận. Kết quả này cũng phù hợp
với những lý luận về hư hỏa và âm hư của y học cổ truyền.
Thông thường ở bệnh đau nửa đầu, dù trong hay sau cơn đau, người bệnh
đều cảm thấy đau nhói nếu bị ấn nhẹ vào hai huyệt phong trì và đồng tử liêu.

Phong trì ở phía sau tai, chỗ lõm ở ngang chân tóc. Đồng tử liêu nằm ở chỗ hõm
bờ ngoài đuôi mắt. Cả hai huyệt vị này đều nằm trên kinh Túc Thiếu Dương Đởm.
Biện chứng
Theo Nội kinh Can khai khiếu ở mắt, huyềnlà mạch của Can Đởm.
Vùng và huyệt vị bị tổn thương do kinh Túc Thiếu Dương Đởm chi phối. Do đó, ở
bệnh nhân đau nửa đầu, triệu chứng quá vượng của Can Đởm rất rõ nét. Can âm
hư, Can dương xung gây ra một số triệu chứng Can Đởm hỏa thịnh thuộc dương
chứng. Biếng ăn, buồn nôn là do Can Đởm (thuộc mộc) khắc Tỳ Vị (thuộc thổ)
dẫn đến rối loạn tiêu hóa. Đây là một biểu hiện mà y học cổ truyền gọi là Can
phạm Vị. Theo học thuyết kinh lạc, Dương phải thường giáng và Âm phải thường
thăng. Trường hợp này, kinh khí ở kinh Túc Thiếu Dương Đởm đã nghịch chuyển
gây ra những dấu hiệu đặc trưng của thiếu dương chứng. Đó là đau đầu, hoa mắt,
buồn nôn. Thiếu dương chứng thường được xem là những chứng bán biểu bán lý.
Tuy nhiên, bệnh đã lâu, can huyết bị tổn thương nên thiên về lý. Hỏa đây là hư hỏa
do âm hư mà ra.
Điều trị
Trong bát pháp của y học cổ truyền thì phép hòa giải là phương pháp đối trị
với những bệnh ở kinh thiếu dương nhằm sơ tiết can khí, giải biểu và điều hòa Can
Tỳ. Đây là bệnh mãn tính nên một điều quan trọng khác là phải bổ âm để tàng

dương. Tuy nhiên, trong bổ âm phải lưu ý đến kiện Tỳ vì những thuốc bổ âm tính
mát có thể làm trệ Tỳ, trong khi ở đây Tỳ Vị vốn đã suy yếu.
Bài thuốc
Tiêu dao thanglà một cổ phương có tác dụng hòa giải, thường được dùng để
chữa nhức đầu ở kinh Thiếu Dương. Thang dược này cũng thường được dùng để
chữa những chứng bệnh suy nhược thần kinh, kinh nguyệt không đều, biếng ăn,
khó ngủ, hay căng thẳng cáu gắt, đau tức hai hông sườn. Bài thuốc gồm: Sài hồ,
bạc hà, sinh khương để sơ tiết Can khí, thư giải tà khí ở kinh lạc; Đương qui, bạch
thược để dưỡng huyết; Bạch linh, bạch truật, cam thảo để kiện Tỳ hòa Vị.
Sài hồ 12g, bạch thược 12g, đương quy 12g, bạch truật 12g, phục linh 12g,
bạc hà 4g, cam thảo (nướng qua) 4g, sinh khương (nướng qua) 4g.
Riêng vị bạc hà phải bỏ vào sau cùng khi sắp lấy thuốc ra khỏi bếp. Sắc ba
chén còn lại hơn nửa chén, uống thuốc lúc còn nóng. Chỉ cần uống một hoặc vài
thang trước khi dùng những thang bổ âm ở phần sau.
Lý Âm Tiễn là một cổ phương có tác dụng bổ âm dưỡng huyết. Thục địa để
bổ âm, đương quy dưỡng huyết, cam thảo hòa trung, can khương sao đen, tẩm
đồng tiện để liễm nạp dương khí ở trung và hạ tiêu, trừ hư hỏa.
Thục địa 16g, đương quy 12g, can khương 8g (sao ngoài đen, ruột ở giữa
còn vàng, sao xong tẩm đồng tiện), cam thảo (nướng) 4g.

Sắc ba chén còn lại gần một chén, chia làm hai lần uống trong ngày, uống
lúc thuốc còn nóng.
Tập Dương án của Hải Thượng Lãn Ông có ghi lại một phương thuốc chữa
thành công cho một bệnh nhân nữ 34 tuổi bị nhức đầu trên 8 năm, mà ông đã chẩn
đoán là nhức đầu do âm hư khí uất.
Thục địa 320g, ngưu tất 80g, đương quy 240g, ngũ vị 40g, xuyên khung
(sao, tẩm đồng tiện) 120g.
Đây là một thang đại dược có phân lượng lớn, sắc đặc, chia ra uống làm vài
lần trong một ngày. Y án có ghi rõ cách uống cho bệnh nhân nói trên: Uống sau
khi đã làm việc được một lúc cho người nóng lên. Đối với người bệnh còn tương
đối khỏe mạnh, cách uống này nhằm lợi dụng dương khí của bệnh đang được phát
động khi làm việc phối hợp với sức thuốc còn nóng để phát tán tà khí ở kinh lạc
mà không cần những vị thuốc để giải biểu. Trong bài thuốc này, thục địa để bổ
âm, đương quy để dưỡng huyết, xuyên khung để khai uất, sơ tiết Can khí, tẩm
đồng tiện để giáng hư hỏa, ngưu tất dẫn thuốc trở xuống, Ngũ vị để liễm nạp
dương khí.
Thuốc Nam
Rau má 12g, hương phụ 8g (sao, tẩm đồng tiện), thảo quyết minh 12g (sao
thơm), vỏ bưởi 8g (phơi khô, sao), rễ nhàu 12g.

