Trường ca Thu Bồn - Thể

loại và cấu trúc

Ba dan khát cấu trúc gồm 9 phần như một kịch bản phim tập trung vào ba cảnh chính:

Tây Nguyên thời quá khứ, Tây Nguyên thời chiến và Tây Nguyên thời bình. Để nổi bật

lên ba cảnh chính, trong 9 phần được chia theo tiêu đề của trường ca, ngòi bút của nhà

thơ cứ “lia” như ống kính lia đi rất nhanh theo cảnh, lúc toàn cảnh (viễn cảnh), lúc trung

cảnh và lúc cận cảnh. Phần mở đầu (không có nhan đề) là toàn cảnh Tây Nguyên được

mở đầu y hệt cách mở đầu của một kịch bản điện ảnh thực thụ (tất nhiên, đây là một

trường ca viết bằng thơ cho nên không thể không có những đoạn cảm xúc của

thơ): “phía Tây/ ngọn Chưgiangxin/ nơi ngọn núi vói trời/ khoảng cách ấy tưởng đưa tay

là níu được/ đỉnh Ngọc Linh những cánh chim ngang ngược/... lại tìm về/ những nhà

rông như những lưỡi rìu/ những cây nêu trụ cờ mới mọc/ những mái nhà lợp vội/ cửa

ngõ còn để ngỏ tới tương lai/ không liếp vách chẳng then cài”... Cứ thế, “ống kính thơ”

lia đi theo một tư duy thơ rất nhanh của lối chuyển cảnh điện ảnh. Sau cú “lia” toàn cảnh,

“ống kính thơ” dồn dần về trung cảnh: “những đám cỏ tranh/ còn bom mìn rắn rết/

những cây già nua mỏi mệt/ mỗi lần buông tay/ làm nát cả khúc đường/ những gỗ hèn

ôm chặt những dây vươn/ nơi tử thủ của những loài chồn cáo”... Sau khi thể hiện toàn

cảnh Tây Nguyên sau chiến tranh, tác giả tập trung để “quay” cận cảnh chân dung nhân

vật chính để chuyển qua phần hai, có tên “Vị tướng”. Đó là “cây trắc bách/ tôi đã gặp

trên đường/ chân lội suối/ gậy cầm tay chỉ lối/ ông đi về những hốc núi âm u”... “Vị

tướng” đang cùng toàn quân khai hoang vùng đất mới, bỗng “ống kính thơ” lia về hồi

tưởng quá khứ chiến tranh: “trận mùa khô đánh Mỹ/ quân ta thiếu cơm thiếu súng thiếu

cả người/ vị tướng đến tay cầm chiếc cọc/ bằng gỗ rừng đẽo gọt tinh tươm”. Tiếp theo là

lời thoại của “vị tướng” trước đoàn quân: “- Hỡi chiến sĩ/ hãy lấy cây rừng thay chiếc

xẻng tấn công”. Rời “vị tướng”, “ống kính thơ” tiếp tục lia về phía quần chúng: “bao cô

gái đang ngồi nói chuyện râm ran/ những cô gái Thái Bình Xêđăng Xêtrá/ một cô gái là

Hà đương xem thư người yêu gởi/ tờ giấy xanh và mắt cô vời vợi/ bức thư tình của vùng

đáy trời xanh”... Đến phần ba, có tên “Taman lửa”, “ống kính thơ” lại quay về hồi ức

Tây Nguyên xưa với câu chuyện tình bi tráng đẫm chất sử thi giữa người con gái Giarai

(Rơchămpa) và chàng con trai Bana (Kônghơrin) trong mối thù của hai làng và hai dân

tộc. Một "cảnh phim thơ" vừa trữ tình lãng mạn, vừa bi tráng. Có thể nói, đây là những

thước phim đẹp đậm dấu ấn Tây Nguyên quá khứ: “vách núi càng cao hố càng sâu

thẳm/ bên kia bờ thoai thoải chạy dài/ vó ngựa ném lên trời bụi đỏ/ đến bờ sông ngựa đi

nước nhỏ/ người ngồi trên lưng ngựa là Kônghơrin/ giọng hát buồn tay nới lỏng dây

cương/ con ngựa cúi đầu ngoạm miếng cỏ sương/ ngựa vừa đi vừa nhơi theo điệu hát”.

Cảnh phim đang quay lời đối thoại tình yêu giữa đôi trai gái, bỗng lập tức chuyển

cảnh: “tiếng tù và bên vách núi bỗng vang lên/ báo hiệu những giáo gươm trong im lặng

ngủ quên/ tiếng binh khí chạm nhau/ tiếng chân người thình thịch/ có kẻ thù lẻn sang

sông/ lệnh truyền ra truy kích/ kẻ thù là đôi trai gái yêu nhau”... Tiếp theo là săn đuổi

hằn thù của tên chủ làng người Giarai. Rơchămpa bị làng bắt khi đã mang thai, và đây là

đoạn đối thoại đầy chất điện ảnh:

“- a! con điên/ tên chủ làng gầm thét/ - thả con chim săn ra cho nó biết/ thế nào là

mỏ nhọn chim ưng/ xé trái tim nó ra bằng móng vuốt chim rừng/ và hãy xua bầy chó/ theo

vết thằng con trai/

Rơchampa:/ - khỏi phải mất công/ cứ nhìn máu trên bầu vú ta đã đổ/ các người sẽ

thấy Kônghơrin/...

chủ làng:/ - Tao sẽ bỏ mày như bỏ con sên/ vào bột thuốc để cho mày cựa quậy/

Rơchămpa:/ - Nhưng đứa con trong bụng ta sẽ thấy/ mặt trời tàn trên đồng cỏ xanh

tươi... Như sợ kéo dài cảnh cũ, trường ca chuyển sang phần bốn cũng rất đột ngột: “Bọn da

trắng đến”. Ở phần này, đầu tiên, “ống kính thơ” quay toàn cảnh về sự xuất hiện của “bọn

da trắng” ở Tây Nguyên và tội ác của chúng với dân làng. Và dường như để cảnh của phần

này nối mạch cùng cảnh trước, Thu Bồn lại nối tiếp bằng câu chuyện tình của Rơchăm

cùng với chàng trai Bana tên là Kônghơrú (bạn trai của Rơlăng - con của nàng Rơchămpa

ở phần trước đang cùng làm thuê ở đồn điền bọn da trắng). Câu chuyện tình cũng đầy chất

bi tráng Tây Nguyên xưa. Lúc miêu tả viễn cảnh, lúc trung cảnh, lúc cận cảnh, cứ thế,

trường ca tiến triển nhanh như những thước phim hình. Những câu thơ như được chém

ngắn ra để theo cho kịp “ống kính” quay cảnh: “bóng ngựa/ bóng người/ bóng núi lồng

lộn/ xuống đồi/ lên đường/ chặn đón/ ngựa sủi bọn mồm/ nai cũng ngã lăn”... Phần bốn

khép lại một chuyện tình buồn khi Kônghơrú và Rơchăm bị chủ đồn điền bắt được. Anh

đã lao xuống vực sâu còn Rơchăm bị bọn chúng “trói trên lưng ngựa địu về làng”. Phần

năm có tên: “Đồn điền và thành phố” cũng được mở đầu bằng toàn cảnh các đồn điền và

thành phố mọc lên trên đất Ba dan, sau đó, “ống kính thơ” lia về trung cảnh đồn điền của

bá tước Đenphăng. Rồi như sợ mất chất sử thi, ống kính lại lia về quay cận cảnh những

chiến tích thời hiện đại của Tây Nguyên với “Kapa Kơlơng/ mười sáu tuổi giết trăm tên

giặc/ tiếng bom Ngô Mây và anh hùng Núp”. Cảnh phim quay lại thời bình gồm bốn phần

cuối, có tên: “Đi về phương Nam”, “Ông - già - nước”, “Xích đạo” và “Vị tướng”.

Tương tự như thế, trường ca Oran 76 ngọn cấu trúc gồm 22 phần ngắn. Ngoài

phần mở đầu (không có nhan đề) mang tính chất tạo không khí thẩm mỹ cho kịch bản

phim và phần cuối Vĩ thanh buồn (được viết sau khi kết thúc trường ca đã gần 10 năm)

đậm cảm xúc thơ của một trường ca, 20 phần còn lại với 20 nhan đề cụ thể là 20 cảnh

phim ngắn được chuyển rất nhanh theo lối điện ảnh. Các cảnh có thể vừa tiếp nối nhau

vừa đứt đoạn theo lối cấu trúc truyện phim hiện đại. Song nhìn trên tổng thể, lôgic câu

chuyện vẫn được người đọc, người xem nối kết thành một chuỗi dài về cuộc chiến tranh

giải phóng của những người lính Campuchia cùng những tình nguyện quân Việt Nam

trong cuộc chiến chống chế độ độc tài Pônpốt. Trong đó, có một vài cảnh, dường như sợ

thơ sẽ kéo dài không theo kịp tốc độ điện ảnh, tác giả đã mào đầu bằng nhiều đoạn văn

xuôi giải thích. Ví dụ như ở phần 20 Ổ quỷ: “câu chuyện đau lòng nhưng tôi phải kể”...

Bên cạnh đó, bàng bạc trong trường ca là những đoạn thơ, câu thơ ngắn gọn chứa đầy

hình ảnh của điện ảnh: “chúng tôi đi bằng cả hai tay/ bò qua mắt một binh đoàn địch/ bò

qua bãi mìn mo/ bò qua sự dối lừa của muôn cái chết/ bò qua rắn rết/ bò qua cỏ may/ bò

qua mồ hôi rách nát hai cùi tay/ bò như thể mình chưa bao giờ đứng dậy/ XôRiLa đã kiệt

sức rồi”...

Sở dĩ Thu Bồn dám dựa vào thủ pháp điện ảnh để cấu trúc trường ca là bởi giữa nó

và cái “khoảng trống” của thơ rất gần nhau. “Bước thơ” đầy “khoảng lặng”, “khoảng

trắng” của tư duy thơ hiện đại rất phù hợp với bước chuyển hình trong điện ảnh. Vì ta

biết, với điện ảnh, trung bình mỗi phút, ống kính có thể lia đi thu được đến khoảng trên

dưới 50 hình ảnh. Và như vậy, chỉ có "bước nhảy" kiểu tư duy thơ hiện đại mới đáp ứng

được nhịp đi của hình ảnh phim. Cho nên, có thể nói rằng, việc tìm tòi cấu trúc trường ca

theo môtip của điện ảnh cũng là sự gặp nhau giữa phong cách thơ Thu Bồn và nghệ thuật

điện ảnh.

Cấu trúc kiểu kịch

Như ta đã biết, kịch là "nghệ thuật dùng sân khấu thể hiện hành động và đối thoại

của nhân vật nhằm phản ánh xung đột của xã hội"(7). Trong kịch, gồm có hai loại: kịch đối

thoại và kịch độc thoại. Tất nhiên, đối với trường ca, cấu trúc kịch chủ yếu thể hiện ở dạng

kịch bản văn học mà cụ thể là kịch bản văn học được viết bằng thơ. Ở trường ca Thu Bồn,

chúng ta dễ dàng nhận ra hai loại kịch này được tác giả vận dụng khá rõ trong cấu trúc

trường ca của mình. Trường ca có dạng cấu trúc theo kiểu kịch rõ nhất là Vách đá Hồ Chí

Minhđược thu Bồn viết năm 1970 (ngay sau Bài ca chim Chơ rao bảy năm). Sau 50 câu

thơ mở đầu mang tính chất dẫn truyện để tạo không khí, chúng ta gặp ngay cấu trúc kịch

thông qua lời đối thoại giữa hai nhân vật chính là Dy Mơ Thưng và Dang Nghi A. Tính

kịch còn thể hiện rất rõ ở những câu trong ngoặc đơn (...) mà tác giả kịch bản thường chua

vào sau tên nhân vật để diễn viên biểu hiện lời thoại của mình:

“Dy Mơ Thưng:/ - Dang Nghi A ơi! (Tiếng cô gái reo như con chim hót)/ Kìa nhìn

xem/ Vách đá có tên, người cả nước ta đều yêu mến/

Dang Nghi A:/ - Trong rừng có câu lim cấy sến/ Ngọn gió chờn vờn ở dưới vực sâu/

Dòng chữ kia anh chẳng biết đâu/ Anh chẳng bao giờ với tới cánh chim ưng”...

Tiếp theo là sự xuất hiện và lời thoại của nhân vật tên lính Mỹ với ông già tóc

trắng (cha của Dy Mơ Thưng) và chàng trai I Dót. I Dót và ông già tóc trắng không

chịu leo lên vách đá để xóa dòng chữ “Hồ Chí Minh muôn năm” nên hành động kịch đã

diễn ra theo hành động và lời thoại được Thu Bồn ghi rất rõ cho nhân vật “diễn”: “Tên

Mỹ mắt xanh (bắn anh trai làng gục xuống)” - tiếp một đoạn thoại... Rồi: “Tên Mỹ mắt

xanh (Bắn ông già tử thương)” - ghi sau lời thoại... Rồi “Dang Nghi A (gục đầu suy

nghĩ)” - tiếp lời thoại... “Chim ưng (đập cánh)” - tiếp lời thoại... “Dy Mơ Thưng (ôm

xác cha)” - tiếp lời thoại... rồi “Ông già tóc trắng (chụp tay con lại)” - tiếp lời thoại...

Liên tục như thế, hành động kịch đã đẩy câu chuyện đến kịch tính cuối cùng và mở

nút ở hồi kết: sau loạt nổ tiểu liên, Dang Nghi A rơi xuống từ vách đá và dòng chữ như

tiếng vọng vang cả núi rừng: “Hồ Chí Minh muôn năm” làm hiệu lệnh để dân làng xông ra

giết giặc. Chuyện kịch kết thúc, song vì là trường ca nên Thu Bồn đã thêm phía sau một Vĩ

thanhđể bộc lộ cái tôi trữ tình thơ về câu chuyện.

Trong trường ca Người gồng gánh phương Đông (1972) sau phần Tự khúc ngắn

ngủi (chỉ 9 câu thơ), cấu trúc kịch bắt đầu xuất hiện qua lời đối đáp giữa “Chim lạc và

cô gái” đẫm chất sử thi huyền thoại. Ở trường ca này, Thu Bồn không còn sử dụng

dạng kịch bản văn học thông qua những câu mở ngoặc đơn (...) miêu tả nhân vật như

ở Vách đá Hồ Chí Minh mà cấu trúc lời thoại trực tiếp theo lối kịch thơ thông qua các

gạch đầu dòng (-) cho từng nhân vật. Đặc biệt là ngôn ngữ miêu tả đặc điểm và hành

động nhân vật được tác giả sử dụng nhiều làm thành yếu tố nổi trội của kịch bản. Cứ

như thế, hành động kịch phát triển kéo dài bằng mâu thuẫn giữa hai phe thiện và ác,

bóng tối và ánh sáng, để cuối cùng là trận giáp chiến giữa vợ chồng "Ông Bão Táp" và

"chàng chim Lạc". Ánh sáng thắng bóng tối để hình thành nên non nước Việt

Nam: "lão cắn chàng trai đứt một ngón tay/ cắp đôi cánh hoàng hôn lão chạy như bay/

bỏ mụ hoang vu lõa lồ phơi xác/ thời gian gió mưa rữa nát/ thành loài sên U Minh/ từ

ngón tay chàng trai máu ứa những dòng kinh/ còn lại chín ngón tay xòe ra vô tận/

thành chín nhánh Cửu Long sờ vào ngực biển Đông".

Cũng tương tự như thế, trong trường ca đồ sộ nhất (về hình thức) của mình (gần

1500 câu thơ và 25 đoạn thơ) Campuchia hi vọng (1978), Thu Bồn đã cấu trúc một cách

tổng hợp (cả thơ, văn xuôi, điện ảnh và kịch) với nhiều phần, nhiều mục đầy kịch tính:

“- Mày là đồ phản bội! – Omal kêu lên đau đớn

- Thời buổi bây giờ làm gì có chuyện trung thành - Bơrốc cười gằn - Phản bội cái

này tức là trung thành với cái khác”.

Ngoài việc đưa yếu tố kịch đối thoại vào cấu trúc trường ca, Thu Bồn cũng đã sử

dụng cả yếu tố kịch độc thoại. Độc thoại cũng là đối thoại với nhân vật, với chính mình

và với cả người xem. Thử trích một đoạn độc thoại của Hăm-lét trong bi kịch Hăm-

lét (Sếch-xpia) và một đoạn độc thoại của nhân vật bà mẹ Bơrốc trong trường

ca Campuchia hy vọngcủa Thu Bồn, ta dễ nhận ra sự gặp nhau giữa hai lời độc thoại

này:

Trường ca Campuchia Bi kịch Hăm-lét của

hy vọng Sếch-xpia

“Tôi van người đừng để “Phải chăng, Người

lưỡi dao tội nghiệp lạnh lẽo về để quở trách dứa con

nằm im không một tiếng hỏi chậm trễ của Người đã quên

han. Hãy giết tôi đi tôi đang cần lãng thời gian đắm chìm

giải thoát. Hãy làm ơn làm nóng trong đau khổ, bỏ qua lệnh

thép lưỡi dao. Lời cầu khẩn của truyền cấp thiết, không thi

tôi mong người thấu. Tôi nằm hành ngay đại sự? Ôi, xin

đây mong người hãy giúp cho” Người nói lên!”(8)

Trong Người gồng gánh phương Đông ta lắng nghe lời độc thoại âm vang như lời

Tổ quốc: "tôi là người gồng gánh phương Đông/ đi từ chỗ mặt trời mới mọc/ như một

chiếc răng/ và dưới đáy mặt trăng/ hỗn mang cóc nhái/ trèo bằng chân đi lại bằng tay/ con

người như con vượn/ tôi qua bao kỉ nguyên tìm phương hướng/ đặt mặt trời đúng chỗ mọc

phương Đông".

Chính kiểu cấu trúc kịch này đã khiến trường ca Thu Bồn tuy nhìn bề mặt vẫn sắp

xếp theo kiểu chương, mục phổ biến nhưng cấu trúc bên trong lại tạo nên sự đa dạng để

không tự lặp lại mình.

Cấu trúc kiểu âm nhạc

Giao hưởng là “bản hòa tấu của nhiều nhạc khí với sự phong phú, đa dạng về hòa

thanh, âm sắc, độ rung của chúng”(9). Trong bài viết Trường ca - một kiến trúc tổng hợp

của thơ ca, Thu Bồn từng nhận xét: “Từ Cách mạng tháng Tám đến nay sức đọc của nhân

dân ta khác hẳn nhiều, một em bé chăn trâu đọc Sông Đông êm đềm... Còn vốn sống và

tâm hồn thì khỏi phải nói. Sách vở, những bộ phim hay, những đoàn nghệ thuật quốc

tế, những bản nhạc giao hưởng, từ năm châu bốn biển đều đến với chúng ta. Trình độ

văn hóa, sự hiểu biết của con người ở giai đoạn nào thường phản ánh trình độ văn hóa tổng

hợp của giai đoạn đó”. Tương tự như vậy, khi bàn đến cấu trúc trường ca Mặt đường khát

vọng vàBùng nổ của mùa xuân của mình, Nguyễn Khoa Điềm(10) và Thanh Thảo(11) cũng

công nhận như thế. Như vậy, với một thể loại văn học đặc biệt mang tính hoành tráng về

nội dung tư tưởng lẫn sự phong phú, đa dạng về cấu trúc nghệ thuật, khi chọn cấu trúc

trường ca, nhiều tác giả đã chú ý đến sự gần nhau giữa hai thể loại này. Và vì thế, một số

trường ca của Thu Bồn mang dạng cấu trúc âm nhạc cũng là điều dễ hiểu. Hai trường ca có

cấu trúc nổi trội theo kiểu âm nhạc của Thu Bồn đó là: Chim vàng chốt lửa (1973-1975)

và Người vắt sữa bầu trời (1986). Nét nổi trội của yếu tố cấu trúc âm nhạc trong hai

trường ca này so với các trường ca khác của Thu Bồn là các chương, phần toàn tác phẩm

cân xứng, gọn. Cuối mỗi tác phẩm đều có Vĩ thanh theo kiểu âm nhạc. Về phương diện nội

dung, như trên đã nói, đây là hai trường ca không có cốt truyện, “nhân vật” cụ thể như đa

số các trường ca còn lại của Thu Bồn. Tác phẩm được cấu trúc theo từng mảng nối nhau

bằng mạch tư tưởng và cảm xúc nhất quán.

Chim vàng chốt lửa cấu trúc gồm 6 phần có nhan đề rõ rệt như là 6 chương của một

bản giao hưởng. Từ chương đầu đến chương cuối tác giả dựng theo cấu trúc mở dần và

đóng lại một cách gọn ghẽ như kiểu thủ vĩ ngâm. Nghĩa là, chương 1 và chương cuối có số

câu thơ tương ứng nhau (trên dưới 30 câu), từ chương 2 đến chương 5, cấu trúc theo kiểu

mở dần như độ lan tỏa của âm thanh, càng về cuối càng mở rộng, lan xa (chương 2: 32 câu,

chương 3: 68 câu, chương 4: 101 câu, chương 5: 158 câu) và đột ngột thắt lại gọn gàng ở

chương cuối như đã nói trên.

Đã là âm nhạc tất phải có âm thanh, và đã là giao hưởng tất phải có nhiều âm thanh

hợp thành nhiều bè, nhiều giọng lúc thủ thỉ, ân tình, lúc tuôn trào ồ ạt. Vì nhan đề trường

ca làChim vàng chốt lửa nên âm chủ (bè chủ) của trường ca chính là giọng hót của "chim

vàng". Mở đầu là giọng chim, sau khi chuyển găm, phối bè một cánh đa dạng, kết thúc

trường ca, theo quy luật của âm nhạc, đều lại trở về với âm chủ, và bè chủ vút lên thành bè

chính. Đồng thời, trong tổng thể cấu trúc của trường ca, giọng "chim vàng" chủ âm luôn

luôn trở đi trở lại để giữ vị trí chủ đạo cho dù âm nhạc chuyển hóa phong phú đến mức nào.

Ở chương 1, chủ âm (bè chủ) đã xuất hiện. Đó là âm thanh tiếng hót của “Chim vàng” rất

vô tư, trong trẻo, bình yên, dịu ấm: “chim vàng như tia nắng/ thức dậy với rạng đông/

tiếng hót đưa em nhỏ tới trường”. Bỗng chương 2: Cơn bão rớt, âm thanh trào lên mạnh

mẽ, dữ dội, khiến “lũy tre làng gập mình chống trả/ hàng cau hàng dừa đập vào gió xác

xơ”, nhưng rồi đạn bom kẻ thù cũng thể nào hủy diệt được sự sống, để sáng ra, nắng vẫn

lên, chim vẫn hót, vì thế những dòng thơ cuối chương 2 lại buông thả thảnh thơi như

những chuỗi âm thanh gieo đầy chất nhạc: “đan tổ bằng tiếng hót trên những cành cây/

trên những cành cây!”. Chính độ vang trong trẻo cuối chương 2 đã làm nền để chuyển

sang chương 3 mang tên Giếng thơi với rất nhiều những âm thanh vang động. Nhỏ mà sắc

xoáy như tiếng “mối ăn cây cần vọt”, thoảng xa mà vang động như âm thanh “con cá

bống vàng đớp động nỗi buồn em”, trong mà buồn tựa tiếng “chim vàng kêu rụng lá sầu

đông”, rồi lanh lãnh, vang ngân với “tiếng cười giòn tan của cô dân quân”, cả âm sắc

ngầu đục, gầm gừ của “tiếng ca nông căm tức của kẻ thù”... Để từ âm thanh ấy, tác giả

chuyển sang chương 4: Đêm lửa tàn với những mảng hồi ức chiến tranh được phối bởi rất

nhiều âm thanh xen lẫn nhau, đau xót mà hào hùng, bi thương mà lạc quan; có âm sắc

mạnh, âm sắc nhẹ; độ rung ngắn, độ rung dài của nhiều bè, nhiều giọng. Dữ đội như “tiếng

thét trên đồi cao cố bám” rồi lạnh tanh như “tiếng hăng gô chạm vào báng súng”,rờn rợn

bởi “con vượn hú bồng con không chỗ nấp/ nhăn hàm răng chống đỡ một rừng mưa”, rồi

hủy diệt, bạo tàn bởi sự giằng xé cây rừng của “trăm cơn lốc”, bè trung của“tiếng xẻng

cuốc chạm vào sỏi đá”, bè trầm của tiếng “tè tạch điện đài”, rồi cao vút bởi “tiếng maníp

làm bầy chim sột soạt” và đanh gọn, rõ ràng nhưng vút cao như mệnh lệnh: “lệnh:/ không

hút thuốc, bấm đèn, nhóm lửa, quẹt diêm/ trừ lưỡi tóe ở đầu lưởi xẻng!”. Và chương 4 kết

thúc bằng độ vang rung của phối khí ba bè: bè cao: “tiếng gõ kiến nhịp trên cành cây", bè

trung: “tiếng nước chảy dưới lưng” và bè trầm: “chiếc công sự chú ễnh ương vào đánh

trống”. Chương 5: Cây chốt lửa như là phần chủ đạo của trường ca. Nó được mở rộng ra

dài nhất với 158 câu thơ đầy âm thanh. Mở đầu là tiếng "loa chiêu hồi ra rả suốt ngày

đêm" xen lẫn cùng tiếng "chim vàng kêu giữa lòng tôi", tiếng "chiền chiện gọi hương

cau", tiếng "gió nồm nam rát mặt", và "bỗng tiếng sáo bên tai nghe dìu dặt/ cánh đồng im

phăng phắc/ anh bạn tôi đương luyến khúc dân ca/ ngọn sáo trúc của rừng xanh trao

tặng" ... Sau đó là đến "tiếng cười" của cô em gái, tiếng "nổ tung của hàng trăm khối

thuốc", tiếng "đại liên gầm rít", "từng loạt đạn réo lên",…Cả một chương tràn ngập âm

thanh, nhiều giọng, nhiều bè và kết thúc bằng từng chuỗi âm thanh (chủ âm) trong

trẻo: "con chim vàng vẫn kêu trong đêm/ cây chốt lửa/ con chim vàng/ cây chốt

lửa". Phần Vĩ thanh cuối cùng tuy ngắn gọn nhưng lại là một khúc kết giao hưởng tuyệt

vời với nhiều thanh âm hòa quyện, ngân vang của nhiều loại nhạc cụ: "nước biển sâu như

màu chiêng lâu ngày không đánh bỏ quên/ mặt trời như tiếng cồng núm chiêng vừa tóe

lửa/ chim vàng vẫn kêu trong một vùng dĩ vãng của rừng cây/... và cuối cùng khi kết thúc,

trường ca lại quay về chủ âm (bè chủ) của đoạn mở đầu, nối kết cả trường ca với tiếng

"chim vàng" lan xa vô tận: "đan tổ bằng tiếng hót/ trên những cành cây/ trên những cành

cây".

Trường ca Người vắt sữa bầu trời cấu trúc gồm 10 phần như 10 chương của một

bản giao hưởng. Trong đó, hai chương đầu có cấu trúc dài hơi, cân xứng nhau với hình

thức chủ yếu là những câu thơ tự do trải dài bất tận. Ba chương tiếp theo (3,4,5) cấu trúc

ngắn gọn, cân xứng bằng chủ yếu là thơ lục bát truyền thống. Hai chương 6,7 lại mở rộng

cấu trúc dài hơi bằng những đoạn thơ văn xuôi cân xứng và kết thúc như khóa khuôn bằng

14 câu lục bát chặt chẽ, hài hòa. Sau đó lại là hai chương (8,9) rất ngắn nhưng rất cân xứng

(mỗi chương khoảng 20 câu thơ tự do), để cuối cùng mở ra phần Vĩ thanh kéo dài bằng

những đoạn thơ văn xuôi âm vang bất tận như những dòng “thơ sữa trắng” tuôn ra từ ngực

bầu trời đầy sức âm vang.

Đó là nhìn một cách tổng thể về cấu trúc, tính nhạc trong trường ca này còn được

thể hiện rất rõ trong tư duy nghệ thuật của tác giả. Tên trường ca là Người vắt sữa bầu

trờimà theo tác giả, người đó "chính là mặt đất" nên âm chủ (bè chủ) của trường ca giao

hưởng này chính là âm thanh của sự sống nơi mặt đất, của cuộc sống chiến đấu, dựng xây

và lao động của con người. Vì thế, ta bắt gặp rất nhiều trong trường ca này, âm thanh của

nhiều loài vật xen lẫn cùng tiếng nói, tiếng hát, tiếng của cuộc sống con người.

Cũng như ở trường ca Chim vàng chốt lửa(12), Thu Bồn đã có ý thức tạo cho trường

ca này rất nhiều những âm thanh. Ở chương 1, những âm thanh ấy được phối thành nhiều

bè khi trầm: “tiếng vượn ngáp dài”, khi trung: “tiếng nước đương sôi”, khi bổng: “tiếng

lửa réo". Và chất nhạc trong chương 1 được khái quát bằng một loại nhạc cụ cất lên thành

âm thanh cụ thể: “ta lấy con ốc đại dương làm tù - và rúc/ triệu hồng cầu như bọt biển

sinh sôi”. Đến chương 2, tác giả cố tình khắc hoạ những chân dung bằng những âm thanh

mang đầy âm vang cuộc sống. Đó là: “nhịp đập trái tim con giờ thành mật mã”, rồi

tiếng “thu lôi chống sét nói với bão giông” rằng: “hỡi gió mưa đừng ca nữa bản nhạc

sầu”. Tiếp theo là “tiếng ểnh ương”, tiếng “chú chẫu chàng/ phùng mang trợ mắt la làng

dưới khe”, “tiếng ve rơi vào bữa canh chua”… Có rất nhiều những âm thanh hoà trộn,

quyện thành một thứ âm nhạc đa dạng, phong phú của nhiều bè thanh khi trầm khi bổng.

Sau hai chương đầu trải dài, lan rộng, ba chương tiếp theo có cấu trúc ngắn, nhưng chương

3, tiết tấu, âm thanh dữ dội hơn với tiếng “cựa mình” của mầm “cỏ tranh” trong

đất, “tiếng cú ăn khuya” rờn rợn cả thịt da, làm dập tắt, “cắt lưỡi cả bầy chim sáo/ học nói

tiếng người rên rỉ dế giun”. Chương 4, 5 âm thanh lại nhẹ nhàng hoà trộn giữa

tiếng “nước chảy”, tiếng “cơn giông”, tiếng “gió bớt rầy la” hoà trong tiếng “đập rộn

ràng của trái tim dâng hiến” và cả “tiếng cười” duyên dáng trẻ trung. Chương 6: Biệt

động trái tim tôi mở đầu là một “tiếng nổ kinh hoàng” của “trái mìn lạ mỏng manh em

giấu sau làn áo”. Và dữ dội hơn cả tiếng nổ: “Tiếng nổ! Không! Đó mới chỉ là cơn giông -

tiếng nổ của những đám mây tích điện”. Sau tiếng nổ khai hoả là “tiếng súng rộ lên trận

giáp chiến của ngàn đêm rung chuyển”. Nhưng “tên giặc trong xó xỉnh nào độc địa đã lén

bắn vào mắt em”… âm thanh đột nhiên chùng hẳn lại, có “giọt lệ của em đầy hai mắt của

tôi” và “Sư đoàn phó nói như thầm thì. Mắt anh xa vời vợi” một nỗi đau. Người nữ biệt

động đã hi sinh, nỗi đau ngập tràn, âm nhạc bỗng vút lên những âm thanh giằng xé

như “tiếng gió vặn những thân dừa” trên bờ biển vắng, và tỉ tê, quằn quại cả rừng

xanh: “nghe hồn lim sến tỉ tê sau ngàn”. Sau những âm thanh tịch lặng trĩu nỗi đau,

chương 7 lại trổi dậy âm thanh mạnh mẽ khiến “mặt đất rung lên bần bật. Núi đùn cao sa

thạch cháy hồng” và “mặt trời thi nhau hò hét” cùng những âm thanh kinh hoàng

của“bão nổi Hi-rô- si-ma”. Đoạn cao trào ở đầu chương bỗng dưng chùng lại khi âm nhạc

quay về với những khúc dân ca ngọt ngào của dân tộc: “Phù Đổng hỡi rượu người trên đá

mà giờ đây con cháu vẫn còn say giọng quan họ điệu chèo cỏ lả”. Dàn nhạc đang trổi nhẹ

nhàng những làn điệu dân ca của truyền thống và dựng xây thì chiến dịch Hồ Chí Minh đã

đến. Tiếng súng lại rộ lên: “Sài Gòn súng nổ/ giặc đầu hàng/… mồm hét vang tử thủ Sài

Gòn”. Nhưng quân ta đã tiến về hang ổ cuối cùng của giặc, âm nhạc lại dồn nhịp, cất lên

mạnh mẽ, hào hùng như nhịp bước tiến quân: “chiếc cổng sắt đứt tung chiến cuộc/ chiếc

xiềng sắt cuối cùng của mọi thuở vong nô/ ngày cả nước khóc cười đều rơi nước

mắt”. Chiến thắng rồi, lòng lại nhớ đồng đội khôn nguôi, âm nhạc bỗng lặng đi như âm

vang từ lòng đất vọng lên, làm thành một khúc ca tưởng niệm: “gió đi qua những mộ chí

không lời/ bài hát lớn cất lên từ lòng đất”. Cuộc sống dựng xây những ngày đầu hoà bình

trên vùng đất mới lại vang lên một giai điệu khác thường: “mìn vẫn nổ” trên những đồi

hoang hoá. Rồi cuộc sống thời bình với bao mặt trái lộ ra, đàn cũng chùng dây như một

hồi chuông báo hiệu: “Tim tôi gióng hồi chuông cấp báo… khi giông tố nổi lên”. Nhưng

cuộc sống cũng đi lên theo quy luật, những, niềm tin lại về, rộn rã tiếng chim kêu trên

những vùng đất mới: “Nhà anh mới xây, dừa trồng sớm hai năm chưa có quả nhưng chuối

tiêu cam quýt lác đác trả ơn người thơm thảo tiếng chim”. Âm thanh lạc quan ấy trải dài

tiếp ở chương 8 và 9 với tiếng gọi của núi đồi âm vang như ngả nghiêng say trong gió

mới: “tôi đi và gió thổi/ núi đồi nghiêng ngả gọi tôi đi/ gió cao nguyên - ngọn gió dậy

thì”. Thời gian đang hối hả lao về phía trước, nhịp thời gian đang trôi: “chim gõ kiến -

nhịp thời gian đương gõ” để anh hướng về em, về vùng đất ba-dan đầy khát vọng: “ngực

em sà xuống bầu trời/ cho anh biết nói những lời thế gian/ đất ba - dan rất mịn màng/ cho

anh ôm MẶT TRỜI VÀNG VÀ EM”. Khúc Vĩ thanh cuối cùng là một thứ âm thanh đời

thường đầy quyến rũ, tràn ngập tin yêu giữa cuộc sống thời bình: “những mơ ước con

người như suối cháy, đá vô tri nhưng đá biết lầm lì. Tiếng vượn hú rất xa ngoài giấc ngủ,

em thơ ơi hãy thức dậy để nhận quà. Tiếng lá rụng mùa thu rất khẽ như làn hôn năm tháng

đã đi qua”. Và trường ca kết thúc bằng những đoạn thơ văn xuôi đầy chất nhạc, bản giao

hưởng truờng ca lại trở về với chủ âm (bè chủ) với âm thanh vang lên từ mặt đất - "người

vắt sữa bầu trời": “nhịp bài hát chẳng cần theo hai bốn, chẳng cần theo ba tư - bài hát của

cuộc đời. Cây độc huyền có một dây xích đạo, tiếng nỉ non xin trả lại chim trời, mỗi vĩ

tuyến trở thành nhịp phách, đàn tơ rưng lay động cả một thời. Những phún thạch bật lên

từ lòng đất, người vũ công nghe tiếng hát chuyển mình”.

Rõ ràng, cấu trúc kiểu âm nhạc đã được Thu Bồn vận dụng một cách khá hiệu quả

trong tiến trình tự làm mới cấu trúc trường ca của chính mình.

Tóm lại, tìm hiểu về thể loại và cấu trúc trường ca Thu Bồn, ta nhận thấy Thu Bồn, bằng chính thực tiễn sáng tác trường ca đồ sộ của mình, rất xứng đáng để được gọi là “ông hoàng

của trường ca” bởi những đóng góp to lớn của ông cùng với tầm ảnh hưởng không nhỏ trong tiến trình vận động, phát triển của trường ca Việt Nam