Trường ca Thu Bồn - Thể

loại và cấu trúc

Sự nghiệp trường ca của Thu Bồn trải dài suốt nửa thế kỉ từ trường ca đầu tiên

(Bài ca chim Chơ rao) xuất hiện vào những năm 60 của thế kỉ trước đến cả dàn ý

trường ca 10 chương Những người con của sử thi chưa kịp hoàn thành vào những

năm đầu thế kỉ XXI. Các nhà phê bình đã không ngần ngại khẳng định “Thu Bồn là

một nhà thơ viết nhiều trường ca nhất và thành công nhất của dòng văn học cách

mạng trong chiến tranh chống Mỹ xâm lược”(1). Tuy nhiên, qua nghiên cứu trường

ca, đứng trên góc độ lý thuyết thể loại mà xem xét thì nhiều tác phẩm Thu Bồn gọi là

trường ca nhưng chưa hẳn đã là trường ca (chúng tôi sẽ nói ở phần sau). Nhưng nói

như nhà thơ Ngô Thế Oanh thì rõ ràng khi bàn đến trường ca Việt Nam, vị trí đầu đàn

và sự ảnh hưởng của Thu Bồn đối với các tác giả viết trường ca là khá rõ: “Xa hay

gần, trực tiếp hay gián tiếp, nhiều tác giả thơ của thế hệ chống Mỹ sau này như

Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo... trong những trường ca của mình... đều tìm thấy

sự gần gũi trong cảm hứng với hiện thực thời đại của Thu Bồn”(2).

Khái lược như trên để thấy được vị trí và khẳng định sự đóng góp của Thu Bồn

đối với thể loại trường ca. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được trình bày cụ

thể những vấn đề về thể loại và cấu trúc của trường ca Thu Bồn để có một cái nhìn rõ

hơn về quá trình vận động của thể loại này trong sự nghiệp sáng tác trường ca của ông.

1. Trường ca Thu Bồn, nhìn từ góc độ thể loại

Trên cơ sở khái niệm trường ca, chúng ta có thể khái quát hai đặc điểm nổi bật

từ phương diện nội dung, tư tưởng và cấu trúc nghệ thuật của trường ca Việt Nam như

sau:

- Trường ca phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử, dân tộc và thời đại. Đó

là những vấn đề liên quan đến số phận cả cộng đồng và dân tộc, sự vận động của lịch

sử, dân tộc và thời đại thông qua những biến động lớn lao, là những kinh nghiệm lịch

sử, những được mất mà dân tộc đã trải qua.

- Trường ca mang một hình thức lớn, là một cấu trúc nghệ thuật phức hợp thông

qua các phương thức biểu hiện được nhà thơ thể hiện bằng một cảm hứng dào dạt, tuôn

trào. Đó là tính phức hợp của cấu trúc nghệ thuật trong việc sử dụng đa dạng và sáng tạo

các thể thơ, các thể loại văn học nghệ thuật, tính phức hợp nghệ thuật về ngôn ngữ,

giọng điệu và kết cấu tác phẩm, và là một phức hợp nghệ thuật trong việc kết hợp nhuần

nhuyễn và linh hoạt yếu tố tự sự và trữ tình.

Từ những đặc điểm khái quát trên, để tiện việc theo dõi toàn bộ trường ca của

Thu Bồn (xếp theo thời gian sáng tác), đầu tiên, chúng tôi xin được đưa ra bảng thống

kê cụ thể như sau:

Tên Trường ca Dung N

lượng T ăm

sáng tác phẩm

tác

Bài ca chim Chơ 920 câu thơ 1

1 rao 963

Vách đá Hồ Chí 346 câu thơ 1

2 Minh 970

Người gồng gánh 361 câu thơ 1

3 phương Đông 972

Tiếng hú người 75 câu thơ 1

4 Diôloa 974

Chim vàng chốt 420 câu thơ 1

5 lửa 973-

1975

Quê hương mặt 115 câu thơ 1

trời vàng 975 6

Ba dan khát 1.303 câu 1

thơ 976 7

Cam pu chia hi 1.409 câu 1

và 25 đoạn thơ 978 vọng 8

Thông điệp mùa 34 đoạn thơ 1

xuân 984 9

Người vắt sữa 507 câu và 1

bầu trời 53 đoạn thơ 985 0

Oran bảy sáu 1.745 câu 1

ngọn và 11 đoạn thơ 989 1

Hà Nội ngày nào 128 câu thơ 1

996 2

Tất cả 12 tác phẩm trên, trong tác phẩm Thu Bồn - thơ và trường ca đều được

chính Thu Bồn sắp xếp vào mục trường ca. Nói chung, theo quan niệm của Thu Bồn

thì tên gọi trường ca phần nào đã đồng nhất với thơ dài. Hiện tượng này, thực ra cũng

không mấy xa lạ với cách gọi của văn học thể giới. Vì có rất nhiều những tác phẩm thơ

dài trên thế giới (khoảng trên dưới 100 câu) vẫn được gọi là trường ca (các trường ca

của Sergei Esenin). Tuy nhiên, qua thực tiễn sự nở rộ của trường ca Việt Nam trong

những thập niên 70-80 của thế kỉ trước, và liên hệ với những bài thơ dài thời chiến,

chúng ta không thể đồng nhất giữa trường ca và thơ dài, vì rõ ràng, đây là hai thể loại

hoàn toàn khác nhau. Tôi hoàn toàn thống nhất với quan điểm rạch ròi của Nguyễn

Khoa Điềm và Thanh Thảo về sự khác nhau giữa hai thể loại này. Nguyễn Khoa Điềm

chỉ công nhận mình sáng tác duy nhất một trường ca, Thanh Thảo cũng khẳng định

mình chỉ có 8 trường ca, mặc dù cả hai tác giả này đều có hàng loạt bài thơ dài mang

dáng trường ca trước đó (thậm chí cả tác phẩm Một trăm mảnh gỗ vuông gồm 95 câu

và 34 đoạn thơ, Thanh Thảo vẫn chỉ gọi là "trích trường ca" mà không đưa vào danh

mục trường ca của mình).

Như vậy, đứng trên khái niệm hẹp của lý thuyết thể loại trường ca như đã nêu

trên, căn cứ vào hai đặc điểm nổi bật của trường ca, ta có thể dễ dàng nhận ra trên bình

diện bề mặt của cấu trúc nghệ thuật là “tính hoành tráng của hình thức”, hay gọi rõ hơn

là độ dài hình thức của tác phẩm thì có ít nhất 4 tác phẩm mà Thu Bồn gọi là trường ca

thực chất chỉ là những bài thơ dài. Ta có thể nhận thấy điều này qua thống kê so sánh

dưới đây:

Những bài thơ dài Thu Bồn gọi là trường ca

Tác phẩm Nă Dung

T m sáng tác lượng

Tiếng hú người 197 75 câu

1 Diôloa 4 thơ

Quê hương mặt 197 115 câu

2 trời vàng 5 thơ

Thông điệp mùa 198 34

3 xuân 4 đoạn thơ

Hà Nội ngày nào 199 128 câu

4 6 thơ

Những bài thơ dài mang dáng trường ca của Nguyễn Khoa Điềm

Tác phẩm Năm Dung

T sáng tác lượng

Đất ngoại ô 1968 83 câu

01 -1969 thơ

Con chim thời ? 98 câu

thơ 02 gian

Thưa mẹ con đi 1971 93 câu

03 thơ

Tôi lại đi đường 1971 72 câu

thơ 04 này

Những bài thơ dài mang dáng trường ca của Thanh Thảo

Tác phẩm Năm Dung

T sáng tác lượng

Một người lính 1972 117 câu

1 nói về thế hệ mình thơ

Thử nói về hạnh 1972 121 câu

2 phúc thơ

Viết trên đường 1975 100 câu

3 số 1 thơ

Hà Nội - nhìn từ 1983 74 câu

4 phía tôi thơ

100 mảnh gỗ 1982 95 câu

5 vuông -1984 thơ và

(Trích trường 43 đoạn

ca) thơ

Nếu bàn sâu về hình thức thể loại, ta có thể lấy ngay ý kiến của chính Thu Bồn

để phản biện cách gọi của chính ông. Ông cho rằng: “Trường ca - một kiến trúc tổng

hợp của thơ ca” thì ta nhận ra mức độ “tổng hợp” của 4 tác phẩm trên của Thu Bồn là

vô cùng đơn giản so với một số bài thơ dài của Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo.

Ngay bản thân tên gọi (nhan đề) của 4 tác phẩm này đã chứng tỏ nó chưa đủ sức bao

chứa tính “hoành tráng, sử thi” của tác phẩm, cho dù, tất nhiên, tên gọi không phải là

sự thể hiện toàn bộ độ “hoành tráng” của một tác phẩm. Tiếng hú người Diôloa thật ra

là bài thơ về người đi săn (Diôloa = người đi săn). Hà Nội ngày nào chỉ là những mảng

kỉ niệm một thời, mà xét về độ “hoảnh tráng” thì vẫn chưa sánh kịp với cái nhìn sắc

sảo đầy liên tưởng dữ dội về những mảng kỉ niệm trong Hà Nội - nhìn từ phía tôi của

Thanh Thảo. Còn Thông điệp mùa xuânthực chất là một khúc ca thơ về công trình thủy

điện Cầu Đỏ (Đà Nẵng). Ở đó, bằng niềm tự hào của mình hòa trộn với cảm xúc dạt

dào về quê hương, Thu Bồn thực hiện một “thông báo thơ” đưa tin vui đến toàn dân về

một công trình hiện đại. Nếu so sánh với Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm viết về

một vùng đất ủ mầm cách mạng trong những ngày đen tối ở Huế hoặc so với cái cảm

hứng xuyên dài theo đất nước những ngày hòa bình, thống nhất đầu tiên trong Viết trên

đường số 1 của Thanh Thảo thì rõ ràng tính “sử thi, hoành tráng” của Thông điệp mùa

xuân chỉ là một mảng cảm xúc chưa ngang tầm “cảm xúc tuôn chảy ồ ạt” để thể hiện

một cách nghệ thuật nội dung, tư tưởng lớn của trường ca.

Trong 4 bài thơ trên của Thu Bồn, có lẽ cái nhan đề Quê hương mặt trời vàng là

có hơi hướng trường ca hơn hết. Đây là bài thơ mang cảm hứng ngợi ca đất nước, song

với dung lượng 115 câu thơ tự do, bài thơ này không đủ sức làm nên yếu tố tự sự và

“nhân vật” của trường ca. Cũng xuất phát từ những yếu tố vàng son rực rỡ của truyền

thống dân tộc với Âu Cơ, An Tiêm, với chim lạc, Đông Sơn, Loa Thành, song so với

chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm thì

cái nền văn hóa truyền thống ấy chỉ được lướt qua một cách khái quát, chung chung,

chưa đủ sức làm nên tính “đồ sộ, sử thi lung linh, huyền ảo” như một chương Đất

nước của Nguyễn Khoa Điềm. Và thực ra, nếu đọc kỹ bài thơ này thì sức bao quát, “độ

lớn” nội dung, tư tưởng vẫn chưa thể sánh kịp với bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình

Thi. Thực chất Quê hương mặt trời vàng chỉ là bài thơ ngợi ca quê hương, đất nước.

“Ngợi ca” là một đặc trưng của trường ca, nhưng tính thuyết phục bằng một “cảm xúc

tuôn trào”, bằng độ lớn và chiều sâu của tư tưởng thì tác phẩm này của Thu Bồn chưa

thể đạt tới “độ” của một trường ca (dù là một trường ca đơn giản).

Thử trích vài đoạn so sánh để ta dễ nhận ra hơn. Đây là đoạn mở đầu Quê

hương mặt trời vàng của Thu Bồn: “Quê hương tôi bé nhỏ đẹp xinh/ có đá trong

mưa/ lửa trong nắng/ dòng sông cạn mà đồng lại sâu/ có mẹ Âu cơ đẻ ra trăm

trứng/ chim lạc bay về trên mặt trống Đông Sơn/ có Loa thành mở ra kho truyền

thuyết/ những điều ấy trẻ em đều biết”(3). Truyền thống văn hóa dân tộc chỉ được Thu

Bồn lướt qua như thế, trong khi đó, chỉ cần đọc vài câu mở đầu của chương Đất

nước trong trường ca Nguyễn Khoa Điềm, ta dễ nhận ra độ bao quát mang tầm trường

ca của cả Mặt đường khát vọng.

Đây là đoạn kết trong Hà Nội ngày nào của Thu Bồn: “lên Hồ Tây với lạnh lẽo

mùa đông/ căn phòng nhỏ ngọn đèn dầu thắp nén hương tôi viết/ tôi viết những gì tôi

thương tôi yêu tôi tin tôi tiếc/ và cả những gì đau xót đến chua cay/ Hà Nội ơi! Đêm

nào đó Người có hay/ ngọn bút rưng rưng tôi viết về Người đó”.

Thật ra, trích một vài đoạn thơ riêng lẻ để chứng minh “độ lớn cảm xúc” của

trường ca thì cũng chưa thuyết phục, song nếu nghĩ đơn giản rằng đây là những câu kết

luận của một trường ca về Hà Nội thì lại càng khó thuyết phục hơn. Đó chỉ mới là cảm

xúc về “những gì tôi thương tôi yêu tôi tin tôi tiếc” của một bài thơ về Hà Nội ngày

xưa.

Cũng trên nền chủ đề Hà Nội, cũng tâm trạng của những người từng gắn bó với

Hà Nội thời chiến tranh và thời bao cấp trở về sinh sống tại miền Nam, song cái hơi

hướng trong bài thơ Hà Nội - nhìn từ phía tôi của Thanh Thảo có độ sâu của cảm xúc

dồn nén và tuôn trào mãnh liệt hơn:“tôi trào lên như một vại bia hơi không kèm/ ta

uống với cá chuồn khô bán cắt ô tem phiếu/ ta nhấm nháp thói quen vô hiệu hóa thời

gian/ nâng chén rượu làng Vân hiện đại/ tôi uống mà nhớ/ dệ cỏ mềm ven đê/ nơi đứa

trẻ phóng lên khoảng mây vàng lụn ráng chiều một ngôi sao/ trong lúc dòng sông di

động mờ mờ/ tôi nghe hơi nóng từ ngực em gấp gáp/ bấy giờ tôi chưa đọc “Trăm năm

cô đơn”/ chưa từng biết Gacxia Máckét/ nhưng em thì tôi biết/ em khác xa những câu

văn ẩn ức/ em là cái gì không thể dịch”(4).

Đến đây, ta dễ dàng nhận ra rõ ràng 4 tác phẩm mà Thu Bồn gọi là trường ca

trên đây, thực chất là những bài thơ dài đúng theo cách gọi các tác phẩm của

Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo. Hơn nữa, khác hoàn toàn với 8 trường ca còn

lại, 4 bài thơ này, Thu Bồn viết liền mạch không hề có sự phân chia chương, mục

phổ biến thể hiện từng mảng cảm xúc như các trường ca.

Như vậy, đứng trên góc độ lý thuyết thể loại mà xem xét thì trong 12 tác phẩm

Thu Bồn gọi là trường ca, chỉ có 8 tác phẩm là trường ca thực sự với “nội dung lớn”,

“tư tưởng lớn” chứa đựng trong một “hình thức lớn”. Kết thúc phần này, ta đủ cơ sở để

kết luận rằng: Thu Bồn và Thanh Thảo là hai nhà thơ viết nhiều trường ca nhất trong

các nhà thơ hiện đại Việt Nam (mỗi tác giả đã viết 8 trường ca). Còn tất cả những bài

thơ dài (Thu Bồn: 4 bài, Nguyễn Khoa Điềm: 4 bài, Thanh Thảo: 4 bài và 1 trường ca

dang dở) đều là những bài thơ dài mang hơi hướng trường ca như là một sự tích lũy,

một sự thử nghiệm để làm cơ sở sáng tạo nên những trường ca thực thụ.

2. Cấu trúc của trường ca Thu Bồn

Xưa nay, trong quá trình nghiên cứu cấu trúc của trường ca, nhiều tác giả có đưa

ra hai mô hình cấu trúc phổ biến của trường ca hiện đại Việt Nam, là cấu trúc theo

tuyến sự kiện, có cốt truyện, "nhân vật" và cấu trúc theo mạch tư tưởng, cảm xúc. Đây

là hai mô hình chung nhìn từ góc độ cấu trúc nội tại của nội dung trường ca. Đứng ở

góc độ này, thì cấu trúc trường ca Thu Bồn gồm cả hai loại. Nhưng đúng như nhận xét

của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu: “Bài ca chim Chơ rao được Thu Bồn viết theo lối

truyền thống, có cốt truyện, có nhân vật dưới dạng một truyện thơ truyền thống. Người

đọc bị cuốn hút, rung động bởi lối dẫn truyện, bởi nhịp thơ, bởi ngôn ngữ hình tượng.

Ở những trường ca khác, Thu Bồn không chịu đi theo lối mòn, ông có một cuộc cách

tân bứt phá, tự vượt lên mình. Bứt phá cả trong cách cấu trúc, trong thể loại thơ, trong

cách biểu đạt”(5).

Về tổng thể, ta có thể phân trường ca Thu Bồn ra hai dạng cấu trúc sau:

- Dạng cấu trúc có cốt truyện và "nhân vật" cụ thể, gồm 5 trường ca: Bài ca

chim Chơ rao, Vách đá Hồ Chí Minh, Badan khát, Campuchia hi vọng và Oran 76

ngọn.

- Dạng cấu trúc theo mạch tư tưởng và cảm xúc, cốt truyện không rõ, không có

“nhân vật” cụ thể, gồm 3 trường ca: Người gồng gánh phương Đông, Chim vàng chốt

lửa vàNgười vắt sữa bầu trời.

Nhìn trên bề mặt tác phẩm, tất cả tám trường ca của Thu Bồn đều được cấu trúc

theo chương, mục trừ Bài ca chim Chơ rao. Tuy nhiên, khi nghiên cứu cấu trúc nội tại

của từng trường ca, ta dễ nhận ra bên trong của bề mặt chương, mục, Thu Bồn vận

dụng đan xen nhiều kiểu cấu trúc khác nhau. Để đi tìm cuộc “bứt phá” ngoạn mục

trong cấu trúc trường ca Thu Bồn, chúng tôi không đi lại theo cách phân chia thành hai

dạng cấu trúc như đã nêu trên mà tìm đến một nẻo đi riêng và quy ra bốn kiểu cấu trúc

nổi bật mà Thu Bồn đã vận dụng trong quá trình sáng tác trường ca của mình.

Cấu trúc theo kiểu truyện thơ

Bài ca chim Chơ rao trong bản của Nxb. Quân đội nhân dân (năm 1997) thì chia

làm 8 mục, mỗi mục được phân chia bằng một dấu sao (*) nhưng trong Thu Bồn - thơ

và trường ca của Nxb. Đà Nẵng (năm 2003) thì không còn những dấu sao mà in liên

tục từ đầu đến cuối mỗi khổ 4 câu thơ. Được xem là trường ca đầu tiên (in 1963) thành

công nhất viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhưng thực ra Bài ca chim Chơ rao của

Thu Bồn được cấu trúc theo lối truyện thơ truyền thống trên nền của các sử thi Tây

Nguyên. Có điều nó hoàn toàn không phải là truyện thơ vì tác giả không nặng về phần

kể mà nghiêng hẳn về cảm xúc biểu đạt. Trong toàn bộ trường ca, yếu tố trữ tình hoàn

toàn lấn át yếu tố tự sự. Cái hấp dẫn của trường ca này không phải lôi cuốn người đọc

bằng nội dung câu chuyện mà thật sự rung động bởi cảm xúc mãnh liệt, dạt dào, bi

tráng trong cách kể của Thu Bồn. Bài ca chim Chơ rao không phân chương, không có

nhan đề cho từng phần mà các phần được nối nhau bằng những câu thơ chuyển mạch

theo lối truyện thơ. Chính vì thế, trường ca này, xét về mặt cấu trúc ta dễ nhận ra nó

mang dáng cấu trúc của một truyện thơ. Mở đầu là tiếng hát trong nhà lao vào

một “đêm tháng bảy trời sao yên tĩnh”. Có không gian cụ thể (đêm), có thời điểm rõ

ràng (tháng bảy) của truyện. Tiếng hát dẫn đến cuộc hội ngộ của ba nhân vật chính là

Hùng, Rin và Sao; để từ đó, tác giả kể lại toàn bộ thiên tình sử bi tráng của Rin và Sao,

cũng như cuộc đời xa quê đi làm cách mạng của Hùng. Câu chuyện kết thúc bằng cái

chết cao cả, bi hùng của hai người chiến sĩ Hùng và Rin. Nếu là truyện thơ thì tác

phẩm đến đây là kết thúc. Song, vì là trường ca, do đó, Thu Bồn lại mở ra một đoạn

hiện tại mới “Sau mấy năm, hôm nay tôi trở lại” gặp lại Sao “Bây giờ thành chị bí

thư” và được cô dẫn đến thăm mộ của Hùng, Rin trong một bối cảnh Tây Nguyên

hoàn toàn khác trước. Nếu được viết ở giai đoạn sau này thì tác giả sẽ không ngần ngại

gắn vào đoạn kết này hai chữ “Vĩ thanh” như ta thường gặp ở trường ca.

Cấu trúc kiểu truyện thơ trong trường này thể hiện trước tiên ở những câu thơ

mang đậm tính chất kể cùng những câu chuyển mạch nối liền các phần truyện để

chúng được liên tục với nhau. Những câu thơ đậm chất kể này thường nằm ở câu mở

đầu chuyển dẫn các đoạn liên kết nhau: “Đêm tháng bảy trời sao yên tĩnh”, sau

đó: “Trong tù đêm nay có người con gái”… rồi “Lum - tên chánh tổng làng bên kia

suối”, “Một đêm trên đồi le trăng nở”, “Sáng hôm sau cành cây trên mồ treo cổ nó”,

“Rin bỏ làng ra đi năm trước”, hoặc “Hùng có mái nhà tranh nho nhỏ”, “Ngày ra đi

anh hẹn em trở lại”, rồi “Trở về buồng giam Sao hát”, “Trên nương sáng nay lúa vừa

ngậm sữa”, “Lính quan khiếp đởm ùn nhau chạy”, “Chim chơrao ơi! Bay về buôn

vắng”, cuối cùng “Sau mấy năm hôm nay tôi trở lại”, “Tôi và Sao đi trên đỉnh đồi

nắng ấm”, và “Tôi đến thăm nơi một già làng yên nghỉ”. Tất cả đều là những câu mở

đầu đầy chất tự sự để làm nền chuyện cho những câu thơ đầy cảm xúc phía sau. Đây

cũng chính là thành công nổi bật của Bài ca chim Chơ rao.

Ngoài Bài ca chim Chơ rao, bốn trường ca được viết theo lối cấu trúc có cốt

truyện và nhân vật của Thu Bồn như đã nêu trên đều có chuyện, song các trường ca

này không còn cấu trúc theo kiểu truyện thơ truyền thống mà là lối cấu trúc mang tính

tổng hợp theo cách của truyện ngắn hiện đại. Nghĩa là không nhất thiết phải theo trình

tự thời gian mà đảo lộn trật tự câu chuyện theo từng mảng cảm xúc của tác giả. Đồng

thời với lối xáo trộn nội dung này, Thu Bồn đã vận dụng rất nhiều dạng cấu trúc khác

nhau.

Cấu trúc kiểu điện ảnh (montage)

Đứng về mặt văn học mà nói, kịch bản điện ảnh nổi lên hai đặc trưng chủ yếu

tạo nên “phong cách kịch bản”, đó là: kịch bản chủ yếu thuộc về nghệ thuật nghe nhìn

và bao giờ cũng diễn ra ở thì hiện tại. Nếu “các loại hình văn học khác chủ yếu viết ra

để được đọc” thì “ngược lại, kịch bản được viết ra chỉ nhằm để được nhìn và được

nghe mà thôi. Chính vì vậy mà trong kịch bản ta chỉ nên nói đến hình ảnh và càng

tránh càng tốt tất cả những gì thuộc về dự định, ý nghĩa; nói chung, là tất cả những gì

không có tính chất “nghe nhìn”(6). Từ những kiến thức điện ảnh cơ bản trên, ta có thể

dễ nhận ra trong bảy trường ca còn lại của Thu Bồn, nổi rõ lên hai trường ca được anh

chú tâm cấu trúc theo mô hình loại “nghệ thuật thứ bảy” này. Đó là trường ca Ba dan

khát và Oran 76 ngọn.