Truyện Kiều dân gian hoá trong

tộc người Kinh ở Trung Quốc – Tiếp

cận từ góc nhìn nhân loại học văn hoá

Người Kinh tức người Việt, hiện là một trong số 55 dân tộc thiểu số

của Trung Quốc. Người Kinh di cư sang đất Trung Quốc vào năm Lê Hồng

Thuận thứ 3 đời Lê Tương Dực, - tương đương niên hiệu Minh Vũ Tông,

Chính Đức thứ 6, tức năm 1511. Theo thống kê dân số năm 2000, thì tộc

người Kinh ở Trung Quốc hiện có 22.500 người, riêng ở Quảng Tây có

21.000 người, tập trung hầu hết ở ba làng đảo Vạn Vĩ, Sơn Tâm, Vu Đầu,

thường gọi chung là Tam Đảo (hoặc Kinh Đảo), nay thuộc trấn Giang Bình,

thành phố Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ba làng đảo này nằm

trong vịnh Bắc Bộ, thuộc biển Nam Trung Quốc, hiện đã trở thành vùng bán

đảo, do từ năm 1971-1975, nhân dân đã đắp đê chắn biển tạo thành con

đường nối liền vùng đảo với vùng nội địa. Khi di cư sang Trung Quốc,

người Kinh đã mang theo cả một số phong tục tập quán của người Việt, và

trong gần 500 năm cư trú bên ngoài biên giới tổ quốc, người Kinh vẫn còn

bảo lưu được một số hình thức văn hoá cổ hay nói theo thuật ngữ của

Unesco, đó là di sản văn hoá phi vật thể như: truyện kể dân gian, ca dao

tục ngữ, các tục lệ cổ truyền, hát đám cưới, ngôn ngữ song âm tiết (la thi/

quả thị, la na/quả na, la dưa/ quả dừa…), đặc biệt là hình thức diễn xướng

truyện Nôm ở kháp đình (đình hát) v.v… Đây là hiện tượng văn hoá - lịch

sử quý hiếm mà các nhà nhân loại học văn hoá gọi là hoá thạch ngoại biên

(fossilisation périphérique/ peripheral fossiligation), hoặc còn gọi là hoạt hoá

thạch như cách gọi của giới nhân loại học Trung Quốc. Có thể nói, vùng

Kinh Đảo chính là một cầu trường lý tưởng để nghiên cứu hiện tượng hoá

thạch ngoại biên trong văn hóa tộc người.

Trong số những truyện thơ Nôm, thường được gọi là truyện Nôm, thì

tất cả các truyện Nôm bình dân như Tống Trân và Trần Cúc Hoa (tức

truyện Tống Trân Cúc Hoa ở Việt Nam), nhưDương Lễ và Lưu Bình (tức

truyện Lưu Bình Dương Lễ ở Việt Nam) khi lưu truyền trong tộc người Kinh

đều có truyện kể văn xuôi, truyện cổ tÍch tương ứng, mà truyện nào cũng có

dị bản. Và, nếu so sánh với những truyện cùng kiểu loại ở Việt Nam thì sự

sai biệt là khá lớn.

Trong bối cảnh chung như vậy, truyện kể dân gian văn xuôi cũng như

truyện thơ Kim Trọng và A Kiều đã xuất hiện và lưu truyền trong tộc người

Kinh cùng với các truyện thơ Nôm bình dân khác. Đáng chú ý là dòng

truyện kể dân gian văn xuôi đã hình thành cả một nhóm dị bản. Một trong

số những dị bản đó kể rằng:

“Tài chủ họ Nguyễn sinh hạ được hai người con gái là A Kiều và A

Vân. Tên đẹp của hai nàng đồn đại khắp xa gần. Thường ngày A Kiều, A

Vân không cho các nàng ra khỏi cửa.

Năm đó gặp tiết thanh minh, hai chị em cố nài xin cha mẹ cho ra

ngoài đi trảy hội đạp thanh.

Hai chị em nàng chơi bời thoả thÍch ở một vùng núi hoang dã, vắng

vẻ. Khi hai chị em đi tới một ngôi mộ nằm trơ trọi bên sườn đồi, A Kiều xem

kỹ tấm bia đá, thì ra đó là mả nàng ca kỹ nổi tiếng Đạm Tiên. Nghĩ tới câu

chuyện mẹ kể về nàng Đạm Tiên lúc trẻ, biết bao kẻ theo đuổi nàng năm

xưa không còn thấy tăm hơi đâu cả, bất giác A Kiều ngậm ngùi rơi lệ, thắp

hương lạy trước mả Đạm Tiên mấy lạy. A Vân thấy thế bèn giục chị đi chỗ

khác chơi, song A Kiều thoái thác là mỏi mệt muốn về nhà. Lúc bấy giờ

chợt có chàng Bùi Kim Trọng là công tử con vị tài chủ ở làng bên dắt ngựa

đi tới, định đỡ A Kiều lên ngựa. Nhưng A Kiều từ chối khiến Kim Trọng tỏ ý

rất áy náy.

Từ đó, A Kiều về nhà luôn nhớ nhung Kim Trọng mà sinh bệnh. Biết

tin, Kim Trọng bèn mạo nhận là thầy thuốc đến nhà tài chủ họ Nguyễn thăm

bệnh cho nàng A Kiều. A Kiều vừa nhác thấy Kim Trọng thì bệnh đã đỡ vài

phần. Cha A Kiều liền mời Kim Trọng ở lại chữa trị tiếp cho A Kiều cho đến

khi khỏi bệnh.

Sau đó ít lâu A Kiều khỏi bệnh. Kim Trọng trở lại nhà mình. Cha

chàng Kim bắt chàng nhốt vào phòng đọc sách, bắt chàng phải chăm chỉ

gắng công học hành.

Đến ngày mồng 10 tháng 6 nông lịch là ngày hội hát đối đáp ở kháp

đình (đình làng) của tộc người Kinh, Kim Trọng mượn cớ đi lễ tổ để tới đình

làng dự hội. Song tại đình làng chàng Kim không tìm thấy A Kiều. Chàng

thẫn thờ như kẻ mất hồn, đi thất thểu ra ngoài làng, ngồi bệt dưới gốc cây

đa cổ thụ, bỗng chàng ngồi phải một cái thoa gài tóc bằng vàng, chàng cầm

lên xem thì nhận ra đó là cái thoa của A Kiều.

Lúc ấy A Kiều cũng đang cúi đầu bước tới để tìm cái thoa. Thế là hai

người có dịp gặp gỡ, cùng thề thốt kết làm vợ chồng. Kim Trọng về nhà, xin

cha đi cầu hôn. Cha chàng trách mắng chàng sớm nghĩ tới việc yêu

đương, lệnh cho chàng nếu không thi đỗ Trạng Nguyên thì suốt đời không

cho lấy vợ.

Kim Trọng vội vã lên đường đi thi, nhờ người mang thư cho A Kiều,

hẹn rằng sau khi thi đỗ sẽ về cưới nàng làm vợ.

Bấy giờ có một lái buôn ở trọ nhà A Kiều, hắn thấy A Kiều xinh đẹp

bèn xin cha nàng cho được kết hôn với nàng. Nhưng bị cự tuyệt. Hắn liền

hối lộ quan huyện, rồi tố cáo rằng cha A Kiều đã ăn cắp tơ lụa của hắn. Tên

quan huyện bèn sai lính tới khám xét và lấy hết của cải của nhà tài chủ họ

Nguyễn, lại đánh đập cha A Kiều rất dã man. A Kiều đành phải nhận lời lấy

tên lái buôn để cứu cha. Rồi nàng tháo đôi khuyên tai mà Kim Trọng đã

đính ước đưa cho A Vân, và dặn em phải thay chị chăm lo cho chàng Kim.

Người lái buôn đưa A Kiều đi theo, nàng tuyệt thực để tự tử. Người lái

buôn thấy vậy bèn bán A Kiều cho một quan viên ở Kinh thành để làm nàng

hầu.

Cha con tên quan viên nọ tranh nhau nhận A Kiều làm tỳ nữ riêng.

Còn các người vợ của hai cha con quan viên thì mượn cớ ấy đánh đập A

Kiều tơi tả. Nàng uất ức tìm con đường chết nhưng được mẹ lão quan viên

cứu thoát. Ông bố quan viên biết chuyện, trách mắng con trai, con dâu. Thế

là bọn vợ của hai cha con quan viên cùng thông đồng lập mưu đem bán A

Kiều cho lầu xanh. Mụ chủ lầu xanh dạy A Kiều các cách đưa đón khách

cùng kỹ thuật đàn hát, và ép nàng phải tiếp khách. Dần dần A Kiều trở

thành kỹ nữ nổi tiếng.

Khi ấy thượng tướng quân Từ Hải dẹp loạn xong bỏ nghiệp võ theo

nghề buôn, nghe tiếng danh kỹ A Kiều bèn tìm đến hỏi rõ thân thế rồi tỏ

lòng thương cảm, bỏ tiền ra chuộc nàng đem đi và hứa sẽ giúp nàng báo

thù. Sau khi Từ Hải thôi nắm giữ binh quyền thì bọn giặc ẩn nấp ở đâu đó

lại nổi dậy và áp sát kinh thành. Từ Hải nghe tin quá uất hận mà chết. Niềm

hi vọng của A Kiều thế là tan vỡ, nàng phải trốn đến một ngôi chùa mong

được xuất gia tu hành, nhưng nàng bị từ chối, rồi cuối cùng lại bị mụ chủ

lầu xanh bắt về.

Lại nói Kim Trọng khi ấy thi đỗ Trạng Nguyên, nhà vua muốn kén làm

phò mã. Kim Trọng tâu bày rõ nguyên do, nhà vua bèn ban cho chàng chức

quan tam phẩm và cho chàng về quê để kết hôn. Nhưng khi Kim Trọng về

đến nhà thì chỉ thấy nhà họ Nguyễn đã hoang phế, cỏ dại mọc đầy sân. Kim

Trọng tìm được ba người nhà họ Nguyễn, xét xử lại vụ án oan khuất, trừng

trị gã lái buôn. Chàng sai người đi tìm nàng A Kiều nhưng không thấy, nên

đành kết hôn với A Vân.

Sau 15 năm chia tay với A Kiều, một hôm Kim Trọng đến một ngôi

chùa cổ bên sông Tiền Đường, chợt thấy một thiếu phụ ngồi ở dưới đất,

đang chắp tay nhắm mắt giống như pho tượng Quan Âm. Chàng dụi mắt

nhìn kỹ, thì ra đó là A Kiều. Nguyên do là nàng bị mụ chủ lầu xanh bán cho

một kỹ viện khác, nàng liền bỏ trốn rồi nhảy xuống sông tự tử, sau được

một người đánh cá cứu sống và đưa nàng đến tu ở ngôi chùa này. Sau khi

gặp lại A Kiều, chàng Kim bèn đưa nàng về nhà cùng sum họp...”.

Truyện thơ Kim Trọng và A Kiều về cơ bản cũng cùng nội dung với

truyện kể văn xuôi, nhưng do đặc trưng thể loại là thơ ca diễn xướng dân

gian của tộc người Kinh, nên hình thức ngôn từ thường mang đậm tính chất

trữ tình và giàu sắc thái biểu cảm hơn. Theo GS. Qua Vĩ cho biết, thì vào

những năm 40 của thế kỷ trước, vào dịp lễ hội ở đình làng hàng năm,

truyện thơ dân gian này còn được các kháp ca (liền anh), kháp muội (liền

chị) diễn xướng. Song đáng tiếc là vào thời điểm GS. Qua Vĩ đi sưu tầm

(1984) thì đã không còn ai biết diễn xướng truyện thơ này nữa. Sau đây

chúng ta hãy xem xét một đoạn kể lại cảnh tượng chàng Kim Trọng đi tìm

nàng A Kiều trong dịp lễ hội ở đình làng:

“Mồng 10 tháng 6, mọi người náo nức tới đình làng tế lễ tổ tông. Kim

Trọng mượn cớ tới dự hội đình để mong gặp A Kiều. Nhưng khi tới nơi thì

chỉ thấy đông đặc những người là người mà chẳng thấy A Kiều đâu. Kim

Trọng ngó nghiêng khắp chốn mà vẫn chẳng thấy nàng, nghĩ rằng nàng

không muốn đến gặp chàng. Càng nghĩ Kim Trọng càng thấy đau lòng,

trong khi mọi người cười nói rộn ràng thì chàng đành ôm mối tình si thất

thểu đi ra khỏi làng. Kim Trọng tới một gốc đa cổ thụ, bèn ngồi xuống đó,

bất chợt chàng thấy đùi đau nhói, thì ra chàng ngồi phải chiếc thoa vàng.

Vừa nhặt lên, chàng nhận ra ngay đó là chiếc thoa của nàng A Kiều. Kim

Trọng vừa mừng vừa lo, đang định đi tìm thì ngay lúc đó, nàng A Kiều

đang cúi gầm đầu đi tìm thoa cũng vừa tới chỗ Kim Trọng. Thế là hai người

gặp nhau, Kim Trọng bèn cất tiếng ca rằng:

… Vô ý đánh rơi vàng xuống đất

Có lòng tìm vàng đến hỏi anh…

Nhận được thoa rồi chớ cài chặt tơ tình,

Tiếng ca của Kim Trọng vừa mới dứt thì A Kiều hát đáp lại ngay:

… Rơi vàng bấy lâu lòng bồn chồn

Gần đây tơ tình khó cài chặt

Nên nỗi ngẩn ngơ như mất hồn.

Chàng Kim nghe rồi mừng đến phát điên, vội vàng chạy tới gần A

Kiều. Thì ra A Kiều từ sau khi chia tay với Kim Trọng, nàng cũng rất nhớ

Kim Trọng, song vì gia pháp nghiêm ngặt, nên nàng không dám đi gặp Kim

Trọng. Do đó, lúc này nàng cũng phải mượn cớ đi dự hội đình để có dịp

gặp Kim Trọng. Nhưng vì không gặp được Kim Trọng, lại không tiện tìm

kiếm ở chỗ đông người, nên A Kiều đành âm thầm tới gốc đa ngồi khóc

than. Được một lát, A Kiều sợ người nhà đi tìm, nên nàng vội về nhà, chẳng

ngờ lúc đứng lên thì đánh rơi chiếc thoa vàng mà không biết, sau phát hiện

đã mất thoa mới quay lại đường cũ để tìm và không ngờ lại được gặp Kim

Trọng ở đây. Sau một hồi trò chuyện, Kim Trọng đưa cho A Kiều một bọc

lụa nhỏ, nói là chiếc thoa vàng ở trong đó. A Kiều có ý nghi ngại: làm sao

chàng đưa trả chiếc thoa lại còn phải bọc kín như thế? Nàng mở bọc lụa ra

xem, bất giác nóng bừng cả hai tai, thì ra ngoài chiếc thoa, trong gói lụa còn

có một đôi khuyên tai rất đẹp. Đó chính là vật đính ước của con trai trao cho

con gái. A Kiều cũng đưa chiếc nhẫn của mình cho chàng Kim làm vật đính

ước. Kim Trọng chợt nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn của A Kiều không muốn

bỏ ra, hồi lâu sau lại ngỏ ý muốn A Kiều tự tay đeo nhẫn cho chàng, còn

chàng thì cũng tự tay cài trâm và đeo khuyên tai cho nàng A Kiều. Rồi cả

hai người cùng quỳ xuống vái trời làm lễ ăn thề, lấy gốc đa cổ thụ làm

chứng cho việc trăm năm của đôi lứa...

Đoạn kể của câu chuỵên rất đậm đà có hậu: Kim Trọng đưa A Kiều về

nhà gặp mặt mọi người, nghĩ lại 15 năm lưu lạc lúc vui lúc buồn, cả nhà đều

bùi ngùi rơi nước mắt. Kim Trọng ngỏ ý muốn A Kiều cùng với em Vân và

chàng xum họp một nhà. Nhưng A Kiều lặng đi một hồi lâu rồi mới thưa

rằng:

Mười lăm năm gió gió mưa mưa,

Trăng kia đã khuyết hoa kia đã tàn

Kim Trọng nghe xong lại càng cảm kích sâu nặng, chàng nói:

Trăng khuyết thì trăng lại tròn

Hoa tàn lại nở tươi giòn hơn xưa!

Qua nội dung truyện dân gian Kim Trọng và A Kiều, cả truyện thơ và

truyện văn xuôi, chắc chúng ta ai cũng cảm thấy quen thuộc, bởi vì chúng

ta đều đã quá quen thuộc với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tuy nhiên,

truyện Kim Trọng và A Kiều đã được dân gian hoá từ Truyện Kiều của

Nguyễn Du, hay ngoài ra còn chịu ảnh hưởng phần nào Kim Vân Kiều

truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nữa hay không lại là vấn đề không đơn

giản, và cần phải được tìm hiểu, nghiên cứu một cách hết sức cẩn trọng.

Chúng ta đều biết rằng Truyện Kiều của Nguyễn Du vốn được sáng tạo trên

cơ sở Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân; về cơ bản, nội dung

cốt truyện của hai tác phẩm là tương đồng. Vậy trước hết, chúng ta hãy thử

so sánh nội dung truyện dân gian Kim Trọng và A Kiều với nội dung Truyện

Kiều của Nguyễn Du.

Trong truyện Kim Trọng và A Kiều, tác giả dân gian đã lược bỏ hết

các tình tiết và các nhân vật có liên quan như: Vương Quan (em trai Thuý

Kiều), Mã Giám Sinh, Mã Kiều, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Khuyển

Ưng, Khuyển Phệ, Hồ Tôn Hiến, Giác Duyên... Truyện dân gian đã bỏ hẳn

sự kiện Hồ Tôn Hiến dẹp giặc, và hầu như chỉ tập trung vào câu chuyện

tình ái bi hoan ly hợp giữa Kim Trọng và A Kiều. Về tên nhân vật, Kim

Trọng đã không còn là họ Kim, mà đã biến thành họ Bùi – Bùi Kim Trọng;

Thuý Kiều, Thuý Vân cũng không còn là họ Vương mà đã đổi sang họ

Nguyễn, và lại gọi A Kiều, A Vân theo cách gọi thân mật của người Hán.

Còn Bùi và Nguyễn đều là họ của tộc người Kinh. Về địa điểm, địa danh,

không gian truyện, không còn là Bắc Kinh, Lâm Tri, mà là kháp đình/đình

làng và hội hát đối đáp ở đình làng. Ngoại trừ kinh thành, sông Tiền Đường,

truyện không có địa danh nào cụ thể. Một số tình tiết khác cũng có những

thay đổi nhất định: A Kiều trao đổi tín vật với Kim Trọng không phải tại vườn

nhà mà tại dưới gốc cây đa cổ thụ. Kim Trọng chia tay Kiều đi xa không

phải vì lý do việc tang cho ông chú, mà là vì lên kinh để đi thi. Việc A Kiều

luân lạc vào kỹ viện không phải do cha bị người vu cáo hãm hại, rồi nàng

phải bán mình chuộc cha, mà là do tên lái buôn đến ở trọ hám nhan sắc

của nàng, cầu hôn không được, nên mới vu cáo cha nàng để ép nàng phải

lấy hắn mà cứu cha. Rồi sau đó, vì nàng tuyệt thực tìm cái chết, tên lái

buôn e “mất cả chì lẫn chài” nên đã bán nàng cho một quan viên ở kinh

thành. Tiếp đó, vì hai cha con tên quan viên tranh nhau lấy nàng, nên các

bà vợ của chúng đã đem bán nàng cho kỹ viện. ở truyện dân gian, chúng ta

thấy nhân vật Từ Hải cũng không còn là anh hùng riêng một góc trời, mà đã

biến thành một vị thượng tướng quân, sau khi thành công đã bỏ nghiệp võ

trở về nghiệp buôn. Rồi vì nghe tin giặc nổi lên, Từ Hải uất hận mà chết,

chứ không phải do bị Hồ Tôn Hiến lừa giết chết, và cũng không có cảnh

“chết đứng”.

Tóm lại, theo tài liệu sưu tầm của các nhà sưu tầm folklore Trung

Quốc cho thấy, thì nội dung truyện do lưu truyền bằng miệng qua nhiều đời,

nhiều địa phương, nên tình tiết cũng có nhiều biến dị. Chẳng hạn, có nơi kể

Kim Trọng là con nhà giàu có, cũng có chỗ lại kể Kim Trọng là con nhà

nghèo khổ. Có thuyết kể nàng Kiều bị danh kỹ Đàm Tiên (Đàm chứ không

phải Đạm như trong Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện) cảm hoá. Có

người lại kể rằng Đàm Tiên hoá thành luồng gió xuân bay đi để nàng Kiều

phải thay Đàm Tiên mà chịu dày vò ở cõi thế gian. Có người lại kể rằng cha

mẹ Kiều bị vu hãm phải vào ngục tù, nàng Kiều và em gái lên kinh tìm Kim

Trọng, rồi sa vào lầu xanh. Lại có người kể rằng nàng Kiều và Kim Trọng

gặp nhau ở hoàng cung. Lúc ấy chàng Kim Trọng đã đỗ Trạng Nguyên.

Nhà vua vời chàng vào cung làm phò mã, và trong bữa tiệc mừng đám cưới

Kim Trọng với công chúa, chàng đã nhận ra nàng ca nữ đang hát hầu tiệc

rượu chính là A Kiều. Thế là nhà vua bèn xoá bỏ hôn ước giữa công chúa

với Kim Trọng và thành toàn cho mối tình của chàng Kim với A Kiều, v.v...

và v.v...

Như vậy, qua so sánh bước đầu, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng Kim

Trọng và A Kiều có nhiều khả năng chắc chắn là đã được dân gian hoá

từ Truyện Kiều của Nguyễn Du – bởi tộc người Kinh cũng có một đợt di cư

sang Trung Quốc vào năm Tự Đức 28 (1875), tức là sau thời điểm Nguyễn

Du viết Truyện Kiều (hiện ở Kinh Đảo còn có bản hương ước ghi chép về

đợt di cư này). Thế nhưng với chi tiết Từ Hải đi buôn thì lại khiến chúng ta

không khỏi có phần băn khoăn, vì đó là tình tiết chỉ có trong Kim Vân Kiều

truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Hồi thứ mười bảy) mà không có

trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tuy nhiên, theo các học giả Trung Quốc

cho biết, thì truyện kể về Từ Hải không chỉ có trong tác phẩm Kim Vân Kiều

truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, mà còn thấy trong nhiều tác phẩm truyện

ngắn thể truyền kỳ như Vương Thuý Kiều truyện của Dư Hoài (trong Ngu sơ

tân chí của Trương Triều sao lục), hoặc Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt của

Mao Khôn, v.v... Đây là những thiên truyện ngắn mang đậm màu sắc dân

gian, từng lưu truyền rộng rãi ở Trung Quốc thời Minh – Thanh mà ngay cả

Thanh Tâm Tài Nhân khi sáng tạo Kim Vân Kiều truyện cũng đã tiếp nhận

vào trong tác phẩm của mình. Do đó, chúng ta cũng có thể nghĩ rằng loại

truyện truyền kỳ dân gian này phải chăng cũng đã phần nào ảnh hưởng đến

các tác giả tộc người Kinh khi dân gian hoá Truyện Kiều của Nguyễn Du,

nhất là trong môi cảnh văn hóa Hán mà họ đã sinh tồn trên dưới 500 năm.

Đó là thiển kiến của chúng tôi. Còn các học giả Trung Quốc thì cũng

đặt ra một số vấn đề khá lý thú xung quanh truyện dân gian Kim Trọng và A

Kiều của tộc người Kinh ở Quảng Tây. Chẳng hạn như GS. Phó Quang Vũ

(Đại học Vân Nam) thì đưa ra giả thuyết về những tác phẩm quá độ, có tính

chất bắc cầu, giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với truyện dân gian Kim

Trọng và A Kiều của tộc người Kinh. Ông rất mong mỏi được các nhà khoa

học Việt Nam cho biết xem liệu ở Việt Nam có các truyện thơ dân gian và

truyện kể dân gian văn xuôi được sáng tạo từ Truyện Kiều của Nguyễn Du

hay không? Riêng đối với truyện dân gian Kim Trọng và A Kiều, ông tỏ ý lấy

làm tiếc rằng hiện nay trong tộc người Kinh ở Quảng Tây không còn ai biết

hát/ biết diễn xướng như những năm 40 của thế kỷ trước, rằng nếu có

người còn hát được truyện thơ dân gian Kim Trọng và A Kiều, rồi ghi chép

lại, để làm tài liệu so sánh với Truyện Kiều của Nguyễn Du và truyện dân

gian văn xuôi Kim Trọng và A Kiều thì thật là tuyệt vời. Cuối cùng, GS. Phó

Quang Vũ cho rằng truyện thơ của Nguyễn Du vốn dùng thể thơ lục bát

nguyên là lối thơ bình dân/dân gian rất thuận tiện cho việc diễn xướng; do

đó, xét về mặt dân gian hoá Truyện Kiều của Nguyễn Du trong tộc người

Kinh, thì rất có khả năng truyện dân gian bằng văn vần đã ra đời trước, rồi

sau đó mới xuất hiện truyện dân gian văn xuôi Kim Trọng và A Kiều, và tiếp

đó, các dị bản truyện dân gian văn xuôi sẽ xuất hiện muộn hơn nữa.

Còn GS. Trần Ích Nguyên (Đại học Trung Chính, Đài Loan) vốn là một

học giả đầy tâm huyết trong lĩnh vực nghiên cứu so sánh văn học chữ

Hán – Việt Nam với văn học chữ Hán – Trung Quốc (Năm 2000, Nxb. Văn

học Hà Nội đã xuất bản công trình Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại

và Truyền kỳ mạn lục của ông, do nhóm dịch giả Phạm Tú Châu chuyển

dịch ra tiếng Việt), đồng thời cũng là người say mê nghiên cứu Truyện

Kiều của Nguyễn Du trong nhiều năm nay, nên ông cũng tỏ ra hết sức nhiệt

tình với việc tìm hiểu truyện dân gian Kim Trọng và A Kiều của tộc người

Kinh ở Quảng Tây. Vào năm 1999, GS. Trần Ích Nguyên đã hai lần từ Đài

Loan đến tận vùng Kinh Đảo để thực hiện việc sưu tầm và thẩm định lại các

tài liệu ghi chép về truyện dân gian Kim Trọng và A Kiều do giới folklore

Trung Quốc lục địa thực hiện trước đây. GS. Trần Ích Nguyên đã tìm gặp

ba lão nghệ nhân đã cung cấp tư liệu về truyện dân gian Kim Trọng và A

Kiều của lần sưu tầm đầu tiên ở làng Vạn Vĩ, do GS. Qua Vĩ (Học viện Sư

phạm Quảng Tây) chủ trì vào tháng 7 năm 1984. Không biết vô tình hay

hữu ý, kể từ lần sưu tầm đầu tiên đến lần sưu tầm lần này về Kim Trọng và

A Kiều ở Kinh Đảo cũng đã qua đi 15 năm. “Mười lăm năm ấy bây giờ là

đây” là con số thời gian trầm luân, định mệnh của nàng Kiều thì cũng là con

số thời gian đã có những biến đổi trong cuộc sống của ba lão nghệ nhân

năm xưa: một đã qua đời, một đã suy giảm trí nhớ và nặng tai, chỉ còn một

người có thể đối đáp được với nhóm điều tra. Do đó GS. Trần Ích Nguyên

phải gom góp thêm một số nghệ nhân cao tuổi vào thời điểm bấy giờ để

phỏng vấn, theo phương pháp nhân loại học văn hoá như: phỏng vấn cá

nhân, phỏng vấn nhóm, phỏng vấn tham dự tại hội diễn “kháp đình” v.v...

cùng với các cộng sự là các nhà khoa học ở đại lục.

Qua điều tra, tìm hiểu tại thực địa, GS. Trần Ích Nguyên đã sơ bộ đưa

ra một số kết luận sau: Đúng là truyện kể dân gian Kim Trọng và A Kiều đã

tồn tại một số bản kể, một số dị bản qua quá trình lưu truyền bằng miệng.

Truyện kể dân gian Kim Trọng và A Kiều là truyện kể đã Kinh hoá

hoàn toàn, nội dung truyện mang đậm sắc thái văn hoá của ngư dân ở Kinh

Đảo cùng những đặc trưng thẩm mỹ của tộc người Kinh.

Tại Kinh Đảo không thấy có những tác phẩm quá độ có tính chất bắc

cầu giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du với truyện dân gian Kim Trọng và A

Kiều như GS. Phó Quang Vũ ở Đại học Vân Nam phỏng đoán.

Qua một vài phiến đoạn truyện thơ dân gian Kim Trọng và A Kiều còn

ghi chép được, cho thấy rất gần gũi với nội dung Truyện Kiều của Nguyễn

Du. Điều này chứng tỏ truyện thơ dân gianKim Trọng và A Kiều đã được

dân gian hoá từ truyện thơ lục bát của Nguyễn Du.

(Để đi đến kết luận này, GS. Trần Ích Nguyên đã ghi âm một phiến

đoạn truyện thơ A Kiều do một lão nghệ nhân tộc người Kinh diễn xướng,

sau đó mang đoạn băng ghi âm qua Mỹ, tới Đại học Harvard, nhờ học giả

người Việt Nam là ông Nguyễn Nam khảo chứng, và ông Nam cũng đã xác

nhận ý kiến của GS. Trần Ích Nguyên).

Về tình tiết Từ Hải đi buôn trong trong bản kể Kim Trọng và A Kiều,

ghi chép năm 1984, do chúng tôi giả thiết là các tác giả dân gian ngoài việc

lấy nguồn chủ yếu từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể còn chịu ảnh

hưởng nào đó từ nguồn truyền thuyết dân gian ở người Hán chăng? GS.

Trần Ích Nguyên trong khi trao đổi lại, đã đưa ra hai lập luận: một là người

kể chuyện năm đó đã nhớ lầm, kể lầm – hai là có thể người cung cấp tư

liệu điền dã đã đem thân thế của nhân vật Thúc Sinh cũng là nhà buôn để

gán cho nhân vật Từ Hải, và vì không đọc được tiếng Việt cho nên GS.

Trần Ích Nguyên đã lấy câu thơ chữ Hán, theo bản dịch Truyện Kiều của

GS. Hoàng Dật Cầu để chứng minh: “Thường Châu hữu khách đáo tầm

phương/Danh thúc Kỳ Tâm doanh cự thương/Gia bản thư hương Vô TÍch

huyện/Tuỳ đường tác cổ tạm ly hương” (Khách du bỗng có một người/Kỳ

Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương/Vốn người huyện TÍch châu

Thường/Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri – câu 1275-1278,

Truyện Kiều).

Lập luận của GS. Trần Ích Nguyên có thể do chưa hiểu đúng ý của

chúng tôi. Xét trên bình diện folklore hoá (folklorisation) một kiệt tác văn

học, chúng tôi không hề phủ nhận Kim Trọng và A Kiều bắt nguồn

từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Song nếu lý giải tình tiết Từ Hải đi buôn chỉ

đơn giản là do người kể chuyện nhớ lầm, hoặc đã gán ghép thân thế của

Thúc Sinh cho Từ Hải thì e có phần khiên cưỡng, chưa thoả đáng. Theo

chúng tôi, đây là vấn đề còn cần được tiếp tục nghiên cứu thêm về nhiều

mặt, nhiều khía cạnh.

Cuối cùng, để đánh giá chung về Kim Trọng và A Kiều như một hiện

tượng văn hoá đặc thù, chúng tôi hoàn toàn chia sẻ với nhận định của GS.

Qua Vĩ, GS. Trần Ích Nguyên rằng đây chính là một chứng tÍch rất đẹp của

quan hệ giao lưu văn hoá Trung – Việt, rằng đây cũng là một thành quả kỳ

vĩ về sự dung hợp văn hoá Kinh – Hán, và từ góc nhìn folklore, thì đây cũng

chính là một hiện tượng vô cùng đặc sắc để nghiên cứu về mối quan hệ

giữa văn học viết và văn học truyền miệng, cũng như mối quan hệ giữa văn

học cổ điển với văn học dân gian.

Đó là nói về giá trị của Kim Trọng và A Kiều. Còn nhìn ở một phía

khác, phía Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, thì qua hiện tượng Kim

Trọng và A Kiều, chúng ta lại càng thấy rõ hơn sức lan toả trường tồn

của Truyện Kiều quả là đã vượt mọi không gian, thời gian để trở thành một

di sản văn hoá ngoại biên hết sức kỳ thú và có sức hấp dẫn đặc biệt đối với

giới nghiên cứu nhân loại học văn hoá - văn học của cả hai nước Trung –

Việt./.