76
NGUYỄN BÍCH HÀ
fOLHLOR€ NƯỚC NGOÀI
X3" như trong sáng tấc văn học người
ta tối kị sự lặp lại, sự bắt chước,
những lối mòn...thì trong văn học dân
gian, đó lại là hiện tượng phổ biến làm
nên một đặc trưng độc đáo, một phương
thức sáng tác đặc thù mang tính loại
hình. Sự lặp lại, tương đồng hay bắt
chước không phải chỉ ở một dân tộc, một
vùng mà nhiều khi còn có tính toàn cầu,
đối với cả những dân tộc rất xa nhau khó
cố sự ø1ao lưu.
Ở bốn nước Việt Nam, Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản, văn học dân gian
lại càng có nhiều điểm giống nhau hơn vì
trước hết bốn nước ở rất gần nhau, có
điều kiện sống gần gũi và có nhiều yếu tố
văn hoá tương đồng. Hơn nữa trong một
thời gian rất dài, chúng cùng sử dụng một
thứ văn tự là chữ Hán, điều kiện đồng văn
khiến cho vấn để giao lưu văn hoá càng
thuận lợi hơn nhiều. Đây là những lí do
khiến văn hoá dân gian có sự xâm nhập,
vay mượn, ảnh hưởng lẫn nhau tạo ra sự
giống nhau giữa chúng. Nhưng bên cạnh
đó điều kiện tự nhiên có những nét khác
biệt, tâm lí dân tộc không hoàn toàn
giống nhau, sinh hoạt cộng đồng tuân
theo những phong tục tập quán riêng...
đã tạo ra những nét khác biệt độc đáo của
văn hoá dân gian mỗi nước trên cái nền
chung tương tự nhau ấy.
Có một câu chuyện cổ có mặt ở cả
bốn nước đồng văn trên, đó là truyện
“Ông Ngâu bà Ngâu” ở Việt Nam, “Ngưu
Lang Chức Nữ” ở Trung Quốc, “Kyon U
th se TRUYỆM ÔNG NGÂU BÀ NGÂU
ò Ở VIỆT NAM, TRUNG QUỐC,
TRIỀU TIÊN, NHẬT BẢN
NGUYÊN BÍCH HÀ?)
và Chik Nyo” ở Triều Tiên, “Tanabata”
hay “ori Hime và Hiko Boshi” ở Nhật
Bản. Cả bốn truyện này đều là câu
chuyện tình đẹp và đầy thương cảm của
một cô gái dệt vải và một chàng trai chăn
trâu hoặc chăn bò. Đọc mỗi truyện trên
ta lập tức liên hệ ngay với truyện Ông
Ngâu bà Ngâu Việt Nam bởi tính chất
“đại đồng, tiểu dị” giữa chúng.
Cốt truyện của cả bốn nước chỉ có một
số nét khác biệt nho nhỏ. Chẳng hạn, trong
truyện của Trung Quốc, Việt Nam, cô gái là
con trời và chàng trai là người trần gian.
Còn truyện của Triều Tiên, Nhật Bản thì
cô gái và chàng trai đều là người trời.
Trong truyện Trung Quốc, Chức Nữ là
cháu ngoại của Vương mâu, cô gái rất khéo
tay thêu thùa may vá và dệt vảai. Một hôm
cô cùng tắm với các cung nữ trên sông
Ngân, bị chàng chăn trâu nghèo Ngưu
Lang lén đến bên sông lấy trộm xiêm y.
Không về trời được, cô phải ở lại làm vợ
Ngưu Lang. Truyện của Việt Nam không
nói đến Vương Mẫu nhưng cũng kể bà
Ngâu là con trời xuống trần tắm, bị trộm
áo mà thành vợ ông Ngâu (Ngưu - trâu).
Truyện của Nhật Bản thì kể về cô công
chúa dệt vải và chàng trai chăn bò cho
trời. Hai người yêu nhau ngay từ cái nhìn
đầu tiên, rà chìm đắm trong hạnh phúc
mặc vua cha chê chàng trai nghèo phản
đối cuộc hôn nhân. Truyện của Triều
Tiên kế về một vương quốc xa xôi ở trên
I_- ` * ¬ _
''TS, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I.
FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
xinh đẹp và đệt vải rất giỏi (Chik Nyo
nghĩa là công chúa dệt vải), còn Kyon U
là hoàng tử ở nước láng giềng có tài chăn
gia súc. Vua cha hai nước rất hài lòng gả
họ cho nhau. Cả bốn đôi nam nữ trên dù
là người trên trời hay trần gian, dù tự
nguyện kết hôn hay bị hoàn cảnh đưa
đẩy thì sau đó đều yêu nhau và sống rất
hạnh phúc.
Đối tượng chia rẽ hạnh phúc của họ
thường là người cha đẩy uy quyển.
Truyện của Trung Quốc thì người cha bắt
con phải về trời, chàng trai lên trời tìm
vợ bị Vương mẫu lấy trâm cài đầu vạch
một vạch đài làm thành sông Ngân hà,
bắt mỗi người ở một bên sông chỉ nhìn
nhau mà không thể gần nhau, mỗi năm
họ chỉ được gần nhau một lần vào đêm 7
tháng 7. Truyện của Triều Tiên, hai
người quá say mê nhau, cô gái quên dệt
vải, chàng trai để đàn gia súc chạy rông
khắp nơi vào cả vườn thượng uyễn, cha
tức giận bắt hai người xa nhau, người bên
đông người bên tây. Ông chỉ cho họ mỗi
năm gặp nhau một lần vào ngày 7 tháng
7. Truyện của Nhật Bản, vua cha bắt đôi
trẻ phải xa nhau, mỗi người ở một bên bờ
sông sao (Ngân hà), mỗi năm chỉ cho họ
gặp nhau một lần vào ngày mồng 7 tháng
7. Riêng truyện của Việt Nam, cô gái
thương nhớ cha mẹ bí mật bay về trời.
Chàng trai đưa con lên trời tìm vợ,
nhưng cha Trời buộc chàng trai chăn
trâu ở một bên sông, cô gái dệt vải ở bên
này, mỗi năm chỉ được gần nhau mấy
ngày trong tháng bảy. Do ảnh hưởng của
nước láng giềng Trung Quốc, Việt Nam
cũng có ngày thất tịch (7 tháng 7 âm
lịch), nhưng trong tâm thức người Việt,
hầu như không có hai ngôi sao Ngưu
Lang - Chức Nữ, chỉ có Ông Ngâu bà
Ngâu khóc sướt mướt hơn tất cả các
chàng trai cô gái của các nước láng giềng
làm mưa tầm tã suốt cả tháng trời.
trời có Chik Nyo là một nàng công chúa
TẾ
Trong truyện cổ, người xưa sử dụng
khá nhiều con số. Song dường như sự có
mặt của chúng không bao giờ là ngẫu
nhiên hay vô cớ, nó đều có nguồn gốc từ
quan niệm mang đậm tính văn hoá của
các dân tộc. Xét về phương diện đó, con
số 7 cũng là số thiêng mang ý nghĩa triết
học và thể hiện quan niệm dân gian sâu
sắc. 7 là số sinh, con số kết hợp hai số âm
- dương với ngũ hành (kim, mộc, thuỷ,
hoả, thổ), năm yếu tố vật chất đầu tiên
và quan trọng nhất đối với người xưa. Sự
vận hành của âm dương ngũ hành làm
cho con người, thiên nhiên, vũ trụ sinh
sôi nảy nở, vì lẽ đó, số bảy có ý nghĩa
tượng trưng cho vũ trụ đang vận động, là
sự hoàn thành và đổi mới một chu kì. Sau
này mỗi chu kì được tính bằng một tuần
lễ gồm 7 ngày, hết ngày thứ bảy là bắt
đầu một chu trình mới. Số bảy cũng là
con số gắn với sinh mệnh của con người
(đàn ông có ba hồn, bảy vía), từ đó người
ta quan niệm, sau khi chết bảy tuần, mỗi
tuần bảy ngày (7x7=49) con người mới
hết vương vấn với trần gian để về thế giới
bên kia và khi đó người ta làm một lễ
trọng để tiễn người chết ra đi mãi mãi.
Chính vì số 7 là số thiêng nên nó dường
như không phải là con số dành cho những
người bình thường trong cuộc sống thường
nhật, trong dân gian, nó trở thành con số
kiêng kị “chớ đi ngày bảy”. Ở truyện cổ, con
số bảy thường được dùng để diễn tả những
hiện tượng kì lạ hay dự báo một điều gì đó
linh thiêng. Chẳng hạn, đứa bé ra đời
khóc bảy ngày bảy đêm cho đến khi người
ta đặt cho nó một cái tên vừa ý; Đứa con
thứ bảy vừa lọt lòng đã nhảy qua bảy quả
núi; Hơ Rum ăn trái bưởi rụng trên
đường, bảy ngày sau thấy mình thay đổi,
rồi chuyển dạ sinh ra một đứa con trai...
Con số bảy cũng thường dùng để diễn tả
sự lặp lại một hiện tượng nào đó như một
chu kì: Cứ bảy ngày dân làng lại mang
cơm rượu ra chùa cúng; Cứ bảy năm lại
phải dâng cho con thần long một cô gái
đẹp.. Truyện chàng Ngưu nàng Chức
hàng năm gặp nhau vào tháng 7 hay
ngày 7 tháng 7 cũng không ngoài những
ý nghĩa đó.
Nhân vật người cha, kẻ chia rẽ,
trong những câu chuyện này thực ra
không phải là một cá nhân độc ác mà
chính là đại diện cho thế lực xã hội ngăn
trở tình yêu tự do và hạnh phúc của đôi
trẻ. Ở đây chúng ta đã thấy thấp thoáng
bóng dáng sự phân chia đăng cấp, sự
cách trở giàn nghèo. Sự chia li và nỗi đau
khổ dằng dặc của hai người yêu nhau
cũng không phải chỉ của hai cá nhân
Ngưu Lang - Chức Nữ, nó là nguyện
vọng, khát vọng giải phóng khói những
trói buộc xã hội của các chàng trai cô gái
xưa để có tình yêu tự do và hạnh phúc
lứa đôi.
Truyện kể về chàng trai chăn trâu
(hay bò) với cô gái dệt vải ở cả bốn nước
trên đều là những câu chuyện gắn với
chủ đề giải thích hiện tượng tự nhiên.
Truyện của Trung Quốc, Triều Tiên,
Nhật Bản giải thích sự xuất hiện của hai
ngôi sao Altair và Vega ở hai bờ sông
Ngân. Vào tháng 7, chúng đường như gần
nhau bơn, sông Ngân như hẹp lại. Hai
ngôi sao Altair và Vega, trong truyện của
Trung Quốc chính là Ngưu Lang - Chức
Nữ, truyện của Triều Tiên là Kyon U và
Chik Nyo, truyện của Nhật Bản là hai
ngôi sao engyu và Shokujo. Ông Ngâu
bà Ngâu của Việt Nam không giải thích
về các ngôi sao mà lại nhằm vào một hiện
tượng tự nhiên quen thuộc. Đó là mưa
tầm tã, dai dẳng, mưa ngâu. Người ta
nói: “Vào ngày ba, ra ngày bảy, giãy ngày
tám”, mồng 3, mồng 7, mông 8, 13, 17, 18,
23, 27, 28 là những ngày mưa đậm trong
tháng 7, cũng là những ngày ông bà
Ngâu gặp gỡ và bịn rịn chia tay. Giải
NGUYỄN BÍCH HÀ
thích hiện tượng tự nhiên là một chủ đề
khá phổ Liến của truyện cổ các dân tộc
trên thế giới. Sự giải thích đó thường chỉ
dựa một chút vào thực tế, còn lại là hư
cấu. Tất nhiên, các hiện tượng tự nhiên
đều tổn tại trước khi những câu chuyện
giải thích nguồn gốc của chính nó ra đời.
Con người không có ý định tìm nguồn gốc
sự vật ở sự giải thích dân gian này, mà
chỉ nhằm từ đó trình bày những vấn đề
có ý nghĩa khái quát sâu xa hơn. Trong
kiểu truyện Ông Ngâu bà Ngâu thì đó là
sự đề cao tình yêu chung thuỷ chiến
thắng mọi khó khăn cản trở. Câu chuyện
có lẽ bắt đầu từ một dân tộc nhưng nó bắt
gặp nhu cầu chung của các dân tộc khác,
vì vậy mà trở thành sản phẩm của cả bốn
nước đồng văn. Kết thúc truyện của cả
bốn nước là sự chia li vĩnh viễn của
chàng trai và cô gái, nhưng mối tình
chung thuỷ đến muôn đời của họ đã cảm
động cả đất trời, hoá thân vào thiên
nhiên để trở thành bền vững với thiên
nhiên. Tuy nhiên, các hiện tượng tự
nhiên đặc trưng của mỗi nước đã chi phối
rất nhiều hướng đi của cốt truyện, bởi nó
không thể giải thích tự nhiên mà lại
không gắn với hiện tượng tự nhiên cụ thể
của từng nước. Điều đó được thể hiện rõ
trong truyện chàng chăn trâu (bò) với
nàng dệt vải ở bốn nước chúng tôi vừa
nêu trên. ở Nhật Bản và Triều Tiên
tháng bảy không mưa, vì vậy chàng trai
cô gái không khóc, thậm chí người Nhật
còn nói khi gặp nhau Hiko Boshi và Ori
Hime rất hạnh phúc, vì vậy ngày 7 tháng
7 trời Nhật Bản rất đẹp. Trong truyện
của Trung Quốc thì đêm 7 tháng 7 trời
mưa lác đác trong chốc lát, đó là lúc họ
cảm động nhất khi gặp lại nhau. Nhưng
trong truyện Việt Nam, ông Ngâu-bà
Ngâu gặp nhau chỉ khóc ròng làm ra mưa
đầm tháng bảy. Phải chăng người Việt
vốn sướt mướt khi yêu? không phải,
tháng 7 ở Việt Nam có mưa đầm, vậy thì
FOLKLORE NƯỚC NGOÀI
79
———=———————— EE ————--————————————— —————— — ————————————————
thật khó giải thích hiện tượng đó nếu ông
bà Ngâu chỉ khóc trong chốc lát. Cũng
như vậy, nếu con trâu đã “là đầu cơ
nghiệp” rất quen thuộc với đồng đất Việt
Nam và Trung Quốc, thì nó không thể so
sánh được với sự phổ biến của hình ảnh
con bò ở Triều Tiên và Nhật Bản. Chúng
ta hiểu tại sao lại có chàng Ngâu (trâu) ở
Việt Nam và Ngưu lang ở Trung Quốc, và
chàng Hiko Boshi (chăn bò) ở Nhật Bản,
Kyon DÚ (công tử bò) ở Triều Tiên. Rõ
ràng thiên nhiên và điều kiện sinh hoạt
_ gần gũi đã chi phối lớn tới kiểu truyện
Ông Ngâu Bà Ngâu ở bốn nước trên.
Nhân vật giúp cho chàng trai cô gái
gặp lại nhau trong truyện của Nhật Bản
và Trung Quốc là những con quạ. Chúng
cảm thông với nỗi nhớ thương của hai
người nên đã nối cánh làm cầu cho họ
gần nhau. Truyện của Triều Tiên thì
chính những ngôi sao trên sông Ngân đã
sáng lấp lánh hơn để soi đường cho họ.
Truyện của Việt Nam thì quạ và chim
khách đội đá làm cầu cho ông Ngâu gặp
bà Nøâu. Có lẽ tư duy thực tế của người
Việt không chấp nhận được một chiếc cầu
thơ mộng bằng những cánh chim ghép lại
mà phải là chiếc cầu bằng đá chăng?
Nhưng hình tượng con quạ, con quạ vàng
chính là hình tượng tượng trưng cho mặt
trời (kim ô) đã có mặt ở những truyện
trên. Mặt trời lên là trời quang mây tạnh,
muôn vật hạnh phúc, điều đó hợp với
mong ước của mọi cư dân châu á, những
tác giả xuất thân từ vùng đất nắng lắm
mưa nhiều.
Từ cốt truyện cổ đó, hiện nay một vài
nước còn giữ những tục lệ riêng liên quan
đến câu chuyện. Theo phong tục của
Nhật Bản, hiện nay vào ngày 7 tháng 7 ở
nhà ga, văn phòng công ty, trường học và
những địa điểm công cộng khác, người ta
dựng những cây tre to, cành lá rườm rà,
nếu ai mong ước điều gì thì chỉ cần viết
vào những băng giấy trắng nhỏ buộc lên
cành tre, họ sẽ được như mong ước. Vì
Ori Hime và Hiko Boshi hạnh phúc khi
gặp nhau sẽ rộng lòng ban phát hạnh
phúc cho mọi người. Còn người Việt Nam
hiện nay vẫn kiêng cưới vào tháng Ngâu
vì lo vợ chồng sẽ phải sống xa nhau như
ông Ngâu bà Ngâu vậy.
Về căn bản cốt truyện Ông Ngâu bà
Ngâu ở cả bốn nước đều có nhiều nét
giống nhau khiến ta dễ nghĩ nó cùng một
gốc. Trong lời giới thiệu truyện Nhật
Bản, người ta xác nhận “Tanabata là một
câu chuyện có nguồn gốc từ tiên thoại
Trung Quốc vào thời nhà Đường (618-
906), giải thích về hai ngôi sao Kim Ngưu
(Altair) và Chức Nữ (Vega)”. Giáo sư
Định Gia Khánh khi nhận xét về truyện
này cũng viết: “Truyện Ngưu Lang Chức
Nữ của Trung Quốc với truyện Á Chức
Chàng Ngưu của ta là hai dị bản của
cùng một truyện rất cổ. Truyện này chắc
đã lưu hành từ lâu trong các tộc người
sống từ bờ nam sông Dương Tử xuống
phía nam, các tộc người mà Hoa tộc xưa
kia gọi là Nam mìan (trong đó có người
Lạc Việt)”. Nhưng tình yêu éo le và
chung thuỷ của Chức Nữ - Ngưu Lang,
Ông Ngâu - Bà Ngâu, Ori Hime - Hiko
Boshi, Kyon U - Chik Nyo là tình cảm
thiêng liêng và chung cho các chàng trai
cô gái các dân tộc phương Đông, vì vậy nó
được lưu truyền rộng rãi và dễ đồng hoá
ở tất cả các nước có nền văn hoá gần gũi
và ảnh hưởng lẫn nhau. Điều đó tạo ra
diện mạo riêng, đặc trưng riêng của
VHDG các dân tộc, vừa đặc sắc vừa hấp
dẫn, vừa quen thuộc lại vừa độc đáo.f
N.B.H
1.Helen Bauer and Sherwin Carlqulst,
japanese Festivals. Tokyo. 1985. Tr.77.
2. Đinh Gia Khánh, Thần thoại Trung
Quốc, Nxb KHXH. H.1998. Tr.1õ7.