153
tHs. Lê văn PHục
1. Những vấn đề chung
Đạo đức kinh doanh một dạng của
đạo đức hội, thuộc lĩnh vực đạo đức nghề
nghiệp. Trên thế giới, thuật ngữ đạo đức kinh
doanh chỉ mới xuất hiện vào những năm 70
của thế kỷ 20. Người đầu tiên đưa ra khái niệm
này nhà nghiên cứu đạo đức kinh doanh nổi
tiêng Norman Bowie. Cho đến ngày nay đã
có rất nhiều định nghĩa khác nhau về đạo đức
kinh doanh, trong đó nổi bật định nghĩa của
V.Lewis đã xác định đạo đức kinh doanh như
những quy tắc, tiêu chí, chuẩn mực để đánh
giá hành vi của chủ thể kinh doanh. Ông viết:
“Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc,
tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc luật lệ
để cung cấp, chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn
mực và sự trung thực (của một tổ chức) trong
những trường hợp nhất định”1. Hay Ferrels
John Fraedrich lại chú ý đến phương diện điều
1 PGS.TS. Phạm Văn Đức. Đạo đức kinh doanh – Một
số vấn đề luận thực tiễn của Việt Nam [M].
Nội. Tạp chí triết học, 2013, số 3, tr 31.
chỉnh hành vi của đạo đức kinh doanh đối với
chủ thể kinh doanh: “Đạo đức kinh doanh bao
gồm những nguyên tắc bản tiêu chuẩn
điều chỉnh hành vi trong thế giới kinh doanh.
Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể
đúng hay sai, phù hợp với đạo đức hay không
sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên,
khách hàng, các nhóm quyền lợi liên quan,
hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”2. Còn
Việt Nam, đạo đức kinh doanh vấn đề
vẫn khá mới mẽ, tuy nhiên rất được các nhà
nghiên cứu luận các nhà làm công tác
thực tiễn quan tâm. Định nghĩa thông dụng về
đạo đức kinh doanh được phổ biến rộng rãi
Việt Nam hiện nay là: “Đạo đức kinh doanh
những quy tắc được hội chấp nhận để
phân định hành vi của chủ thể doanh nghiệp
đúng hay sai, đạo đức hay không
2 PGS.TS. Phạm Văn Đức. Đạo đức kinh doanh – Một
số vấn đề luận thực tiễn của Việt Nam [M].
Nội. Tạp chí triết học, 2013, số 3, tr 31.
TƯ TƯỞNG NGŨ THƯNG CỦA NHO GIÁO
VỚI VIỆC GIÁO DC ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS. LÊ VĂN PHụC
Học viện Chính trị khu vực III, Đà Nẵng
TÓM TẮT
nước ta hiện nay đạo đức kinh doanh đang là vấn đề nổi cộm khi nhiều hiện
tượng vi phạm đạo đức nghiêm trọng đang diễn ra một cách phổ biến ảnh hưởng
sâu rộng đến đời sống hội con người. Để giảm thiểu hành vi kinh doanh phi
đạo đức, cũng như thúc đẩy những hành vi kinh doanh mang tính luân lí, thì đòi hỏi
cần phải tăng cường giáo dục đạo đức kinh doanh. Để giáo dục đạo đức kinh doanh
thì cần có nhiều nội dung, biện pháp khác nhau, trong bài viết này, bước đầu tác giả
gợi mở ra một khía cạnh là vận dụng tư tưởng “ngũ thường” của Nho giáo vào giáo
dục đạo đức kinh doanh trên hai phương diện: giáo dục “lợi chính đáng”trong kinh
doanh và giáo dục chữ “tín” trong kinh doanh.
Từ khóa: Đạo đức, kinh doanh, ch tn, ng thường, giáo dục
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
154
đạo đức để trên sở đó nhằm điều chỉnh
hành vi của các nhà kinh doanh”3.
Phải thừa nhận rằng, mục đích hàng đầu
tối thượng của những người làm kinh
doanh các doanh nghiệp chính lợi nhuận.
Lợi nhuận là động lực hết sức quan trọng đối
với các doanh nhân doanh nghiệp. Động
lực đó đã thúc đẩy các doanh nghiệp
những cải tiến sáng kiến mới trong kinh
doanh để mang lại hiệu quả thiết thực không
chỉ đối với doanh nghiệp còn đối với
hội. Song bên cạnh đó, để được lợi nhuận
nhiều nhà doanh nghiệp bất chấp cả đạo
pháp luật. Đây là mặt trái mang tính quy luật
chung của mọi nền kinh tế thị trường. Ở Việt
Nam, từ khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường, các doanh nghiệp phát triển rất mạnh
mẽ, nhiều hình thức kinh doanh đa dạng
đã góp phần làm cho nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ, từ đó thức đẩy hội phát triển.
Tuy nhiên, không ít doanh nghiệp (doanh
nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu
nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân…) vì mục
tiêu lợi nhuận mà bất chấp đạo đức, bất chấp
pháp lý. Trong các doanh nghiệp Nhà nước
xảy ra hiện tượng tham nhũng; trong các
doanh nghiệp vốn đầu nước ngoài thì
hiện tượng buôn lậu, trốn thuế, gây ô nhiễm
môi trường; trong các doanh nghiệp nhân
thì hiện tượng làm hàng giả, hàng kém chất
lượng, các doanh nghiệp chưa nhận thức sâu
sắc về bảo vệ môi trường, vấn đề đối xử với
người lao động, vấn đề bình đẳng giới… đặc
biệt các doanh nghiệp chưa có ý thức giữ chữ
“tín” trong các hoạt động kinh doanh (với
khách hàng, với đối tác, với hội). Trước
những thực trạng đó thì vấn đề đạo đức kinh
doanh giáo dục đạo đức kinh doanh đang
đặt ra hết sức bức thiết. Trong việc giáo dục
đạo đức kinh doanh hiện nay, giáo dục “làm
lợi chính đáng” giữ “chữ tín” trong kinh
doanh cần phải đặc biệt chú ý.
3 PGS.TS. Phạm Văn Đức. Đạo đức kinh doanh – Một
số vấn đề luận thực tiễn của Việt Nam [M].
Nội. Tạp chí triết học, 2013, số 3, tr 32.
Thời đại mới cần những nội dung,
chuẩn mực mới, nhưng cũng không nên lãng
quên những giá trị chuẩn mực của đạo đức
truyền thống, đặc biệt đạo đức Nho giáo.
Mặc dầu trong tưởng của mình, Nho giáo
không đề cao vai trò của thương nhân, xem
buôn bán nghề hẹn hạ, nhưng Nho giáo vn
cho rằng, người buôn bán cũng phải biết
sống theo đạo “ngũ thường”4. “Ai cũng
muốn giàu sang”, nhưng “thấy lợi thì phải
nghĩ đến nghĩa”, “giàu sang do bất
nghĩa thì cũng như mây nổi”. Theo Nho
giáo, ngư ời buôn bán cần phải những phẩm
chất sau: 1. “Trí” trí tuệ mưu. Trong nền
kinh thế thị trường, nhu cầu thị trường là một
trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản
xuất phát triển cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Bởi vậy, buộc các nhà kinh doanh luôn
phải mưu cầu sống còn phát triển trong
những môi trường kẻ mạnh đầy rẫy, tin
tức rối mù, không đủ trí năng và mưu lược thì
không thể tồn tại và phát triển. Muốn có được
trí năng hoàn bị: thứ nhất, cần chịu khó học
tập luận về thị trường các tri thức hữu
quan, nắm vững các quy luật kinh doanh; thứ
hai, cần ra sức học tập kinh nghiệm rút ra
bài học từ người khác, lấy cái hay của người
đắp chỗ khiếm khuyết của mình; thứ ba,
cần mạnh bạo lao vào thực tiễn, không ngừng
tìm tòi, tích lũy hiểu biết, nâng cao tài năng
kinh doanh. 2. “Tín” coi trọng tín nghĩa,
danh dự. Doanh nghiệp khác nào chiếc cầu
bắc giữa nhà kinh doanh với khách hàng. Tín
nghĩa của công ty nghiệp ra sao tùy thuộc
rất lớn sự phát huy vai trò “cửa sổ” của
ngành tiêu thụ. Điều đó đòi hỏi các nhà doanh
nghiệp phải đối đãi với khách hàng bằng lòng
4 tưởng “ngũ thường” được bắt đầu từ Khổng Tử,
sau đó được Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư khẳng định,
bổ sung hoàn chỉnh. Lúc ban đầu, theo Khổng
Tử, muốn hợp “lễ” thì con người cần phải các
đức “nhân”, “trí”, “dũng”. Đến Mạnh Tử bỏ “dũng”
nói nhiều về “lễ nghĩa” do vậy thành bốn đức:
“nhân”, “nghĩa”, “lễ”, “trí”. Sau đó Đổng Trọng Thư
thêm “tín”, thành năm đức như ngày nay “nhân”,
“nghĩa”, “lễ”, “trí”, “tín”.
155
tHs. Lê văn PHục
chân thành, đã nói làm, đã làm kết
quả, dùng sự trọng tín nghĩa để lôi cuốn, chinh
phục khách hàng. Đồng thời, phải trung thực
chấp hành chiến lược kinh doanh của công ty
nghiệp, tận lực thực hiện mục tiêu đề ra,
không làm bất cứ điều gì tổn hại đến danh dự
lợi ích của công ty, nghiệp. 3. “Nhân”
là một lòng phục vụ với tiêu chí “khách hàng
trên hết”, “Mọi điều nghĩ về khách” biểu
hiện về nhân nghĩa của công ty, nghiệp.
Làm nhà doanh nghiệp, phải nghĩ những
khách hàng nghĩ, đáp ứng những khách
hàng cần, hướng dẫn khách những gì họ chưa
biết để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc
cho khách hàng. Chớ nên “lúc hàng bán chạy
thì vênh váo, lúc hàng ế ẩm thì nài nỉ”. Chất
lượng phục vụ về ý nghĩa nào đó quyết định
tuổi thọ thị trường của một mặt hàng và hiệu
quả kinh tế của nó. Nhà doanh nghiệp còn cần
phải hợp tác chân thành với đồng sự, quan
tâm ủng hộ lẫn nhau, hợp lực với nhau, biến
điểm bán hàng thành “lô cốt đầu cầu” trông ra
thị trường của công ty, nghiệp. 4. “Dũng”
là dũng cảm, điềm tĩnh. Trong thị trường vạn
biến khôn lường, mỗi hành động kinh doanh
đều mang tính mạo hiểm nhiều thách thức.
Điều đó đòi hỏi nhà doanh nghiệp phải tinh
thần dám đương đầu với thách thức, bình tĩnh
ứng phó tình huống bất ngờ, mạnh bạo mở ra
con đường mới. Đối với nghiệp vụ bán hàng,
phải tích cực thúc đẩy thu hút khách hàng và
mở rộng thị trường, gặp lúc khó khăn, không
được oán trách trời phận, phải chủ động ra
tay, tích cực điều chỉnh sách lược kinh doanh
tiêu thụ, dùng những thủ pháp độc đáo của
mình để xoay chuyển tình thế. 5. “Nghiêm”
nghiêm túc cần mẫn. Một là phải nghiêm với
bản thân mình, gương mẫu tuân thủ kỷ luật
quy định; hai là, làm đúng phương án kinh
doanh, không coi nhẹ một khâu nào. Như
vậy, người buôn bán kinh doanh cũng cần
đức. Phải biết “trung thứ” đặt mình vào
vị trí mong muốn của khách hàng để tạo
ra chất lượng sản phẩm hiệu quả phục vụ
tốt, góp phần thu lợi nhuận lâu dài. Tuy Nho
giáo không đề cao vai trò của thương nhân,
nhưng những yêu cầu của Nho giáo đối việc
buôn bán như đã trình bày là rất có giá trị đối
với việc kế thừa, vận dụng vào giáo dục đạo
đức kinh doanh hiện nay, đặc biệt là giáo dục
“làm lợi chính đáng” giữ “chữ tín” trong
kinh doanh.
2. Ngũ thường với việc giáo dục chuẩn
mực đạo đức “làm lợi chính đáng” trong
kinh doanh.
Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh
hiện nay đang tác động mạnh mẽ đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống hội, không chỉ
có vai trò tạo nên sự ổn định hay rối loạn nền
kinh tế mà còn ảnh h ưởng đến các vấn đề
xã hội khác nh ư: phân hóa giàu nghèo, tệ nạn
hội… Đặc biệt, do hoạt động kinh doanh
luôn gắn liền với lợi nhuận. Nên hiện nay rất
nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong hoạt động
kinh doanh của mình kiếm lợi bất chấp mọi
thủ đoạn gây hậu quả nghiêm trọng đối với
cuộc sống của nhân dân hội. Do vậy,
bên cạnh những giải pháp thúc đẩy hoạt động
kinh doanh thì một vấn đề quan trong cần
được quan tâm vấn đề xây dựng đạo đức
kinh doanh trong doanh nghiệp để lợi ích
nhân luôn gắn với lợi ích cộng đồng hội,
phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ
công bằng hội như mục tiêu Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra trong giai đoạn hiện
nay.
Chẳng phải vô cớ mà bao nhiêu năm nay
một câu ngạn ngữ Ấn Độ được lưu truyền
trong giới doanh nghiệp các nước phát
triển: “Gieo hành vi gặt thói quen, gieo thói
quen gặt tư cách, gieo cách gặt số phận”.
Điều này hàm ý: Sự tồn vong của doanh
nghiệp không chỉ đến từ chất lượng của bản
thân các sản phẩm - dịch vụ cung ứng
còn chủ yếu từ phong cách kinh doanh của
doanh nghiệp. Tóm gọn: Hành vi kinh doanh
thể hiện cách của doanh nghiệp, chính
cách ấy tác động trực tiếp đến thành bại
của tổ chức. Đạo đức kinh doanh, trong chiều
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
156
hướng ấy, trở thành một nhân tố chiến lược
trong việc phát triển doanh nghiệp. Do đó,
muốn “vị lợi” phải “vị nhân”. Điều này trái
với cách tiếp cận của kinh tế học cổ điển vốn
cho rằng mục đích duy nhất của doanh nghiệp
tìm kiếm lợi nhuận, thế vấn đề đạo đức
- theo nghĩa “vị nhân bất vị lợi” - không thể
đặt ra trong kinh doanh: Bản thân hoạt động
doanh nghiệp “phi đạo đức”, trong nghĩa
đạo đức không phải là phạm trù quan tâm của
doanh nghiệp (vì nó không mang ích lợi thiết
thực cho doanh nghiệp, chứ không phải ý
rằng doanh nghiệp là thực thể “vô đạo đức”).
Nhưng trước thực tế thành công của nhiều
doanh nghiệp nổi tiếng trên thế giới đã chứng
minh “vị lợi” “vị nhân” không hề mâu
thuẫn với nhau, ngược lại còn bổ sung cho
nhau tạo nên thương hiệu nổi tiếng lâu bền
của doanh nghiệp.
Hoạt động của doanh nghiệp, theo đó,
muốn hiệu năng tối ưu, phải được chu
toàn trong sự tổng hòa những hành vi chiến
lược bao gồm chủ yếu ba cấp độ trách nhiệm
giới chuyên ngành gọi bổn phận kinh
tế, luân đạo đức. Bổn phận kinh tế của
doanh nghiệp sản xuất cung ứng hàng
hóa - dịch vụ để có được lợi nhuận cần thiết.
Nhưng bổn phận ấy chỉ thật sự hoàn thành khi
lợi nhuận được phân bổ đúng đắn cho việc
phát triển doanh nghiệp phân phối đồng
thời cho tất cả các thành viên liên quan nhằm
không chỉ góp phần trực tiếp vào việc mở
rộng sự tái tạo của các thành viên ấy
còn gián tiếp vào sự tái sinh mở rộng
hội. Vì thế, bổn phận kinh tế phải đi liền với
bổn phận luân lý của doanh nghiệp, hiểu theo
nghĩa tối thiểu doanh nghiệp phải tuân thủ
nền luân hội được thiết chế trong những
quy định pháp của Nhà nước. Theo nghĩa
tối đa, bổn phận trên chỉ được cáng đáng hoàn
chỉnh khi doanh nghiệp không chỉ tôn trọng
pháp chế còn góp phần vào việc phát triển
hóa những quy tắc kinh doanh thuận lợi cho
việc phát triển môi trường sống của hội
chứ không phải thủ thế độc quyền trục lợi
hay thừa lách luật. Bổn phận đạo đức của
doanh nghiệp được minh chứng thông qua
những hành vi mang tính chất “tự nguyện”,
nghĩa những hoạt động “vị nhân” không
nằm trong khuôn khổ các đòi hỏi thuộc bổn
phận kinh tế luân lý. Tính chất vừa nói
cũng không nằm trong các chương trình đóng
góp từ thiện của doanh nghiệp thực chất vốn
chỉ những hành xử quan hệ công cộng
khởi nguyên được thể hiện bởi sự ràng buộc
giữa doanh nghiệp với chính lương tâm của
trong việc thực hiện các hoạt động kinh
doanh đối với tất cả mọi đối tác. Như vậy,
áp dụng đạo đức trong kinh doanh không chỉ
đem lại lợi nhuận cho ng ười khác, cho xã hội
còn đem lại lợi nhuận cao cho chính
doanh nghiệp đó.
Mục đích lớn nhất của kinh doanh
làm giàu, thu lợi nhuận thật cao. Nhưng làm
giàu phải chính đáng, “phú phải gắn liền với
nhân”. Trên thực tế, các nước xưa kia theo
Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapo... tăng trưởng mạnh về kinh tế
công thương nghiệp, một trong những nguyên
nhân là họ biết sử dụng Nho giáo như một
động lực cho sự phát triển. Thực ra, muốn
tăng trưởng kinh tế công thương nghiệp phải
hội đủ các điều kiện vốn, khoa học kỹ thuật,
nhất là có lớp người thành thạo kinh doanh –
điều Nho giáo không hề nghĩ tới. Nhưng
điều, giới cầm quyền cũng như các chủ
doanh nghiệp họ biết tiếp tục duy trì đạo đức
Nho giáo trong làm giàu, trong sự ổn định,
điều hòa được mâu thuẫn giữa phú nhân
một cách triệt để nhất. Họ vẫn duy trì được
tinh thần ham học, tinh thần tiết kiệm, duy
trì nguyên xi cái đạo hiếu trung, cái đức nhân
nghĩa của Nho giáo, để củng cố tình cảm gia
tộc trong xí nghiệp, xoa dịu mâu thuẫn trong
các mối quan hệ ấy. Cho nên có thể nói Nhật
Bản đã lấy cái thống nhất chính trị - văn hóa
phục vụ thị trường thống nhất cạnh tranh. Và
đạo đức Nho giáo đã làm cho sự bóc lột của
người trên bớt thô bạo trắng trợn, đã làm cho
sự chịu đựng của ngượi dưới bị bóc lột dịu
157
tHs. Lê văn PHục
bớt đi. Hay trong chữ “nghĩa” của Nho giáo
nêu cao tính cộng đồng, bổn phận của mỗi
con người trong mối quan hệ xã hội, như tính
tập thể trong tổ chức lao động, ăn uống, sinh
hoạt văn hóa, giải trí tập thể, quan hệ cộng
đồng giữa các nghiệp nhỏ nghiệp
lớn... đã làm hạn chế đi những mặt xấu của
sản xuất kinh doanh.
Việt Nam hiện nay, tuy rằng trong sự
phát triển kinh tế - xã hội, còn nhiều mặt hạn
chế, trong sản xuất kinh doanh vẫn còn làm
lợi bất chính chà đạp lên nhân nghĩa. Nhưng
nhìn tổng thể bản chất của chế độ Việt Nam,
mục đích làm giàu không phải bóc lột sức
lao động làm giàu cho toàn hội, giàu
cho tất cả mọi người. Giàu như chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu ra đó là: kết hợp giữa quyền
lợi cá nhân với quyền lợi tập thể, giữa quyền
lợi gia đình nhỏ với quyền lợi gia đình lớn,
giữa cái lợi nhỏ gắn liền với cái nghĩa lớn.
Cũng như ngày nay Đảng Nhà nước ta đề
ra mục tiêu, tăng trưởng về kinh tế phải đi đôi
với công bằng hội. Không ngừng nâng cao
mức sống, nhưng cũng không ngừng nâng
cao lẽ sống “mình vì mọi người, mọi người
mình”. Các nhân gia đình nhỏ tự do phát
triển làm giàu trong các gia đình xung quanh
và cả nước cùng giàu. Đây thực sự là kết hợp
kinh doanh làm giàu với việc gìn giữ đạo đức,
giữa phú và nhân một cách triệt để nhất, nhân
đạo nhất.
Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế
thị trường để xóa đi lối sống cào bằng,
lối sống bình quân chủ nghĩa. Việt Nam đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để tạo
điều kiện nhanh chóng về tăng trưởng kinh
tế, để cho mọi nhân, gia đình ra sức kinh
doanh làm giàu. Nhưng làm giàu không phải
đèn nhà ai nhà ấy rạng; cá lớn nuốt cá bé, mà
làm giàu theo hướng hội chủ nghĩa, cùng
nhau làm giàu nhanh chóng để xóa đói, giảm
nghèo. Làm giàu thu nhập cao, sẵn lòng
hảo tâm góp vào những chương trình cứu tế
hội, chương trình đền ơn đáp nghĩa, quỷ
hộ trợ phát triển tài năng. Như vậy, là đã xóa
đi cái mâu thuẫn “vi nhân bất phú, vi phú bất
nhân”, đã kết hợp được phú nhân một cách
hài hòa, một cách Nho giáo nhất. Bởi vì Nho
giáo vẫn đã từng nêu lên: “Kỷ dục lập nhi lập
nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhi đạt nhân”5. Tuy
nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng sự làm giàu,
kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thì
thể hòa nhập giũa phú nhân không? Đây
câu hỏi lớn đang đặt ra đòi hỏi cần giải đáp.
Theo chúng tôi, nếu nhà kinh doanh lương
tâm, nghĩ đến quyền lợi người tiêu dùng, thì
hẳn sẽ không diễn ra việc sản xuất, bán hàng
giả, không quá quắt đong đầy bán vơi. Hoặc
kinh nghiệm cũng nhiều sở kinh doanh,
nhanh chóng nắm bắt thông tin thị trường, cải
tiến kỹ thuật, mẫu chất lượng hàng hóa,
để thể bán được nhiều hàng, tăng thu nhập.
Tuy nhiên, vẫn thể nói, kinh doanh
lương thiện và kinh doanh xảo trá. Đó lợi
dụng sự kém hiểu biết, thiếu thông tin của
khách hàng, để bắt chẹt khách hàng, không kể
đến sử dụng hàng hóa ra sao... Cơ bản của
vấn đề ở đây, vẫn là ở chỗ, nếu vì hạnh phúc
của muôn nhà, hội thì trong kinh doanh
vẫn kết hợp được phú nhân cho đó
biện pháp kinh doanh nào đi nữa.
ai kinh doanh cũng muốn mang đến
lợi nhuận cao, nhưng cao phải đặt lợi ích
người tiêu dùng lên trên hết. Làm giàu thì
phải làm giàu chính đáng, như vậy mới tồn
tại bền vững được. Đây thực tế đã đang
diễn ra, cho nên trong kinh doanh rất cần thiết
phải giáo dục đạo đức kinh doanh làm giàu
chính đáng, nó không chỉ giúp cho hoạt động
kinh doanh của nhân, của doanh nghiệp
phát triển bền vững còn tạo ra môi trường
hội phát triển bền vững, lành mạnh. Cho
đạo đức Nho giáo thời xa xưa không đề
cập đến giáo dục đạo đức trong kinh doanh,
nhưng những giá trị đạo đức của nó, mà đặc
biệt tưởng “ngũ thường” chắc chắn sẽ
nội dung cần thiết hữu ích cho việc giáo
dục đạo đức kinh doanh ngày nay.
5 Xem: Luận Ngữ: Ung dã 30.