NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI




ỨNG XỬ Và MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ THUẬT ỨNG XỬ TRONG TRUVỀN CƯỜI LÔ GÍCH
PHAN TRỌNG HOA - PHAN THỊ ĐÀO)

1. Ứng xử thể hiện qua mối quan hệ Øø1ữa người Với người trên mọi lĩnh vực cuộc sống. Có quan hệ người - người là có ứng xử, nhưng ứng xử không đồng nhất với
quan hệ.
Có thể coi mỗi quyển sách tục ngữ của môi đân tộc là một quyển giáo trình tâm lí học ứng xử của dân tộc đó. Mà tục ngữ là một trong những thể loại văn học dân gian ra đời sớm nhất nên hoạt động ứng xử của con người có cách đây rất lâu. Thế nhưng ở Việt Nam, câu hỏi "Ứng xử là gừ" vẫn là vấn đề khá mới mẻ. Băng chứng là mãi đến năm 3000, Từ điền tiếng Việt (Hoàng Phê chu biên) mới có mục từ "ứng xử" và từ này được giai thích là "có thái độ, hành động, lời nói thích hợp trong việc xử sự""”. Còn trong Từ điển tâm lí (Nguyễn Khắc Viện chủ biên). các soạn giả lại cho rằng hai từ "ứng xử" và "hành vị" thương dùng thay thế cho nhau. “Pừ ứng xử chỉ mọi phản ứng của động vật khi một yếu tố nào đó trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và tình trạng bên trong gộp thành một tình huống, và tiến trình ứng xử để kích thích có định hướng nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh. Khi nhấn mạnh về tính
khách quan, tức là các yếu tố bên ngoài
°* Thạc sĩ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Huế.
kích thích cũng như phản ứng đều là những hiện tượng có thể quan sát được, chứ không như tình ý bên trong, thì nói là ứng xư. Khi nhấn mạnh mặt định hướng, mục
n(^2)
tiêu thì gọi là hành vị
Thời gian gần đây, ở nước ta đã xuất hiện một số cuốn sách, bài báo viết về nghệ thuật ứng xử hay Văn hod ứng xử của ngươi Việt. Ở đó "ứng xử" được sử dụng như là một khái niệm trung tâm - một vân đề cơ bản, mấu chốt, đưa ra để không chỉ tác gia mà ca độc gia cùng suy nghĩ, bàn luận. Điều đáng tiếc là khi nghiên cứu, các tác gia không hề trình bày một quan niệm nào về khái niệm "ứng xử" cá. Tuy nhiên, với những gì mà giấy trắng mực đen đã thê hiện, người đọc vẫn có thể nhận thấy rằng, quan hệ của họ về khái niệm này là khá rộng. Chẳng hạn, có ngươi coi những câu tục ngữ nói về tình vợ chồng như Vợ chồng sống gửi thịt, chết gửi xương, Trai có Uợ như gio có hom; Làm ruộng phúi có trâu, làm giàu phối có 0uợ; Vợ chồng may rủi là duyên, 0uợ chồng hoà thuận là tiên trên trời... là ứng xử trong tình vợ chồng"”. Thực ra, những câu này không thể hiện hành vi và cũng chăng nói lên quan niệm ứng xử nào cả, mà chúng chỉ là cơ sở thực tế để từ đó, các quan niệm đạo đức - ứng xử được hình thành.
Đôi điều vừa được trình bày ở trên chứng to, việc sử dụng một định nghĩa có sẵn về khái niệm "ứng xử" rất khó. Vì thế, cách làm của chúng tôi là dựa vào định nghĩa của một số người chuyên nghiên cứu và giang dạy Tâm lí học ứng xử ö các trường đại học để rút ra một quan niệm tương đối thích hợp mà làm việc.
Trong cuốn Tâm lí học ứng xư, khái niệm "ứng xử" được các tác gia Lê Thị Bừng và Hai Vang xác định như sau: 44
“Ứng xử là sự phản ứng của con người đối với sự tác động của người khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Nó thể hiện ở chỗ con người không chủ động giao tiếp mà chủ động trong phản ứng có sự lựa chọn, có tính toán, thể hiện qua thái độ, hành vị, cử chỉ, cách nói năng tuy thuộc vào trì thức, krnh nghiệm và nhân cách của mỗi người, nhằm đặt kết
quả giao tiếp cao nhất"?”.
Trong thực tế, quan hệ giữa £hới độ với tơi nói và hành u¡ là quan hệ giữa cái được biểu hiện và cái biểu hiện, tức trong một cuộc giao tiếp - ứng xử thì thái độ của chủ thể được thê hiện qua lời nói hoặc hành vị, ngược lại "khách thế" lại dựa vào hành vi hoặc lời nói để nhân biết thái độ của chủ thể. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tam hiểu "ứng xử" như sau:
Ứng xử là sự phản ứng có lựa chọn, thê
hiện qua lời nói hoặc hành UL của con người, trước sự tác động của người hhúc đến mình trong một tình huống cụ thê.
Với cách hiểu này thì ngoại diên của khái niệm "ứng xử" hẹp hơn khái niệm "giao tiếp". Ứng xử được thể hiện trong hoạt động giao tiếp nhưng không phải hoạt động giao tiếp nào cũng là ứng xử. Song đây là ứng xử nói chung, còn ứng xử mà bài viết này để cập là ứng xử được xét trong một thể loại văn học, cụ thể là truyện cười, nên nó có những nét riêng.
2. Truyện cươi, như tên gọi của nó, là truyện có khả năng gây cười. Cho nên ở đây nghệ thuật ứng xử không tách rời ứng xử gây Cười của truyện. Trong truyện, một cách ứng xử càng bất ngờ, sắc sảo bao nhiêu thì kha năng gây cười càng cao bấy nhiêu. Ngược lại, một truyện mà nghe xong không ai cười được thì không thể coi là có nghệ thuật ứng xử.
Dựa vào đặc điểm của nghệ thuật gây cười, chúng tôi chia truyện cười ra thành
PHAN TRỌNG HOÀ - PHAN THỊ ĐÀO
hai loại: truyện cươi thông thương và truyện cưởơi lôgích. Ví dụ về truyện cười thông thường: To... nhỏ
Trên một con đường rất to có một ngôi nhà rất nhỏ. Trong ngôi nhà rất nhỏ có một cái giường rất to. Trên một cúi giường rất to có một người đàn ông rất nho. Trên người đàn ông rất nho có một cái quần rất to. Trong cái quần rất to có một cúi gì nho nho. Cát nho nho đó là cái... bật lứa.
Trị nhầm
Một ông hấp tấp đâm bổ uòo hiệu thuốc, giọng đút quãng:
- Có thuốc gì.. trị chứng nắc cụt... hhông?
Người bán thuốc than nhiên tát cho anh ta một cói như trời giáng rồi lễ phép nói:
- Xin lôi ông nhé! Đó là cách trị nhanh nhát!
Ông khách:
- Nhưng... người bt... là 0ợ tôi hịa mài
Ví dụ về truyện cười lôgích:
Thần đồng
Một đứa trẻ lên bay mà đã cực bì thông minh nên di cũng gọi nó là thần đồng. Nghe uậy, một cụ già liền nói uới nó:
- Cháu ạ, chẳng hay ho gì điều đó đâu mà mừng. Ơ đời, người nào mò lúc trẻ thông mình lắm thì sau nèy uê giò sẽ đần độn đấy.
Nó nhanh nhữu:
- Thưa cụ, thế chặăc hôi trẻ cụ cùng thông mình làm! NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI



Không say
(Giao thừa sắp đến mà ông chồng đi uống rượu nhà bạn uân chưa uề. Bà uợ sốt ruột bao cậu con trai:
- Mày chạy ra phố xem, bhông chừng bố mày say nga ở đâu rồi cũng nên.
Cậu bé ù té chạy, lát sau uê hớn hở nói UỞI mC:
- Bố đang uê đấy mẹ q, bhông say!
- Thê ông ây đang đi 0ê phía Đên nào của phó?
- Đicaq hai bên!
Vậy truyện cươi thông thường và truyện cười lôgích khác nhau ở điểm nào?
Đê phân biệt hai loại truyện này, chúng tôi sẽ phân tích truyện "To... nhỏ” và truyện "Phần đồng".
Truyện "To... nho" đã được nghệ sĩ hài Vân Dung kể trong chương trình Gặp nhau cuối! tuần đầu xuân Quý Mùi trên VTVä. Nội dung của truyện này thật đơn gian, dường như không có øì để kể cả. Cái đem lại hiệu qua thư giãn cho người nghe chủ yếu là hình thức, nhưng không phải là hình thức lôgích mà là hình thức ngôn ngữ.
Về phương diện lôgích, cách liên kết tư tương trong văn ban trên là hoàn toàn hợp quy luật và ban thân nó không có nét gì độc đáo để tạo ra tiếng cười cả. Trong khi đó, về phương diện ngôn ngữ, ngoài việc người kế thể hiện giọng điệu một cách dí đóm, linh hoạt (đến hai chữ "rất to" thì lên giọng, đến hai chữ "rãt nho" lại xuống giọng), trước hết phải ghi nhận đóng góp của người sáng tác. Ở đây, ngươi sáng tác đã vận dụng phương thức đối: Trên (trong) cdi rất to/ có cdi rất nho; Trên (trong cói rất nhoƒ có cái rát to. Đối nhiều trở nên lặp (phương thức lặp). Song lặp mãi sẽ hoá thành nhàm nên phải tạo ra yếu tố bất ngờ để kết thúc câu chuyện. Vì thể, nếu như ở hai câu trên "cái
rất nho" đều là cái xác định (một ngôi nhò rất nho, một người đàn ông rất nho) thì ö câu dưới nó được chuyển ngay thành cái mơ hồ (một cái gì nho nhỏ), và điều này dễ làm cho người nghe liên tưởng lung tung. Nhưng khi được biết "cái nho nhỏ ấy là cái bật lửa" thì cái mơ hồ kia bất ngờ được xác định và câu chuyện tưởng như có thê kéo đài vô tận ây đã được kết thúc một cách hợp lí. Trong khi đó, ở truyện "Phần đồng", về phương điện ngôn ngữ lại chăng có gì đáng cười cả. Tiếng cười chỉ bật ra khi ta suy rút được một điều mới mẻ, thú vị trên cơ sơ liên kết lôgích lời nói của cậu bé với lời nói của cụ già. (Điều này sẽ được trình bày tiếp ở phần sau).
Như vậy, theo ý riêng của chúng tôi, truyện cươi thông thương là truyện cưởơi được gây cười bằng các thủ pháp truyền thống (như ngôn ngữ đáng cười, hành động đáng cười, hoàn canh đáng cười và tính cách đáng cươi), còn truyện cười lôgích là truyện cười được gây cười bằng thủ pháp lôgích.
3. Trong bài này, truyện cươi được khao sát là truyện cười lôgích. Ö đây, quan hệ tương tác giữa các nhân vật chỉ được xét trong phạm vị lơi nói. Những hiện tượng phì ngôn ngữ như hành vị, cử chỉ của nhân vạt, nếu có cũng bị trừu tượng hoá. Cái mà chúng tôi tập trung sự chú ý là quan hệ siữa lời nói tác động và lời nói đáp tra của các nhân vật trong văn ban.
Tuy nhiên, khi nói như trên, chúng tôi không hề đánh đồng ứng xử lôgích với ứng xư ngôn ngữ. Nếu ứng xư ngôn ngữ quan tâm khảo sát các vấn để như xưng hô, nghi thức chào hỏi, lễ phép trong giao tiếp và khai thác các phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp với tư cách là phương tiện thê hiện cung cách ứng xử thì ứng xử lôgích chi tập trung sự chú ý vào cách thức liên kết các tư tương với tư cách là 46
PHAN TRỌNG HOÀ - PHAN THỊ ĐÀO


công cụ tư duy - ứng xử. Nếu chuẩn của ứng xử ngôn ngữ là chuẩn trong phạm vì xã hội hoặc gia đình thì chuân của ứng xử lôgích là chuẩn trong lĩnh vực tư duy, chuân trong phạm vi nhân loại.
Dựa vào mối quan hệ giữa lời nói tác động với lời nói đáp tra, Ứng xư trong truyện cười lôgích được chia thành hai loại: ứng xử độc lập (bao gồm quan hệ giữa lời nói tác động với lời nói tác động, lời nói đáp tra với lời nói đáp tra hay giữa các bộ phận hợp thành lời nói tác động hoặc lời nói đáp trả) và ứng xử lệ thuộc (bao gồm quan hệ giữa lời nói tác động với lời nói đáp trả và ngược lại). Trong hai truyện cười vừa dẫn ra trên thì "Không say" thuộc vào loại ứng xứ độc lập. Trong truyện, lời nói tác động cũng như các yếu tố có trước chỉ có ý nghĩa khơi dẫn câu chuyện. Tính trí tuệ cũng như tính nghệ thuật trong cung cách ứng xử của nhân vật chủ yếu thể hiện qua mối quan hệ giữa lời nói đáp tra (“bhông say") với lời nói đáp trả (tđi cả hai bên"). Ö đây, lời nói đáp trả có ý nghĩa độc lập tương đối với lời nói tác động. Trái lại, trong truyện "Thân đồng", nếu ta xét câu nói của cậu bé một cách riêng rẽ, tách biệt với lời nói cua cụ già, tự thân nó chẳng có ý nghĩa gì cả. Sở di như vậy là do, giữa lời nói đáp trả và lời nói tác động có một mối liên hệ xác định. Cái làm nên tính độc đáo trong cung cách ứng xử của nhân vật chính là cái ấn tàng trong mối quan hệ trừu tượng mà sinh động đó. Theo đõi sơ đồ sau đây, chúng ta sẽ rõ hơn điều này:
Lời nói - tác động: Người nào mà lúc trẻ thông mình thì uề già sẽ đần độn.
Lời nói - đáp trả (ứng xử): Chắc hồi trẻ cụ cũng thông mình lắm.
(Suy ra: Nên bây giờ cụ mới đân độn đến thê)
Thật ra, không phải truyện cươi nào cũng có thể xác định được một cách rạch ròi ranh giới giữa lời nói tác động với lơi nói đáp trả như trên. Đối với những truyện cười chứa nhiều đối thoại thì kích thích và phản ứng có thể xảy ra từ cả hai phía. Cách ứng xử của nhân vật này có tác dụng kích thích sự phản ứng của nhân vật kia và ngược lại. Ở đây, mỗi cuộc đối thoại diễn ra như là một cuộc đâu trí nhưng mục đích chính không phai vì chuyện được, thua mà là để cho vui. Vui là không khí bao trùm gần hết măng truyện cười lôgích. Ví dụ:
Giáp Ất tranh luận
Giáp hỏi Ất:
- Đúc đồng làm chuông, đẽo gô làm dùi, lấy dùi đánh chuông, tiếng bêu bong bong. Tiếng bêu ấy ở gỗ hay ở đồng?
Ất đúp:
- Lấy dùi gõ uào tường, bhông có tiêng bêu, gõ uòo chuông, chuông bhêu. Thế thì tiếng chuông ở đồng.
Giúp Uặn:
- Lấy dùi gõ uào tiền chỉnh, bhông có tiếng bêu, thế thì có chắc tiếng bêu ở đồng mà ra hhông?
Ất nói:
- Đồng tiền đặc, cái chuông rông. Vậy tiếng bêu ở uật rông mà ra.
Giáp lại hỏi:
- Lấy đất ướt làm chuông, gõ uào không
ra tiếng. Thế thì có chốc tiếng bêu từ uất rỗng mà ra bhông?
4. Về bản chất, ứng xử trong truyện cười chính là ứng xử ngoài cuộc đời phần nhiều đã được cách điệu hoá. Có điều, do sự quy định của thể loại nên nếu cái chi phối cách ứng xử ngoài cuộc đời là cái trí, cái tâm thì cái chi phôi cách ứng xử trong NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
47
—=- CC EEE ©=——
truyện cươi chủ yếu là cái trí. Mỗi lời nói - tác động của khách thê xuất hiện trong văn ban với tư cách là một tình huống, thường có nhiều cách xử sự. Lựa chọn giải pháp nào, tối ưu hay không tối ưu, ngoài vốn kiến thức, vốn sống và năng lực mĩ cảm còn phụ thuộc rất nhiều vào trí lực của người ứng xư. Ví dụ:
Dơ lắm
- Hôm nay quan có g@) nhậu ngon hhông?
- Đa, có tưởi heo xào di
- Cì, dơ lăm! Tôi hhông bao giờ ăn món 8Ø trong miệng con uất cadÏ
- Váy mời ngòi dùng hột gà nhé!
Rõ ràng, nếu ta thay câu Vậy mời ngòi dùng hột gà nhé bằng câu Vậy mời ngài dùng cúi trong đít con gò (con 0ớt) nhé thì chỉ mới đạt yêu cầu về "đốt" (miệng đối với đít) mà chưa đạt yêu cầu về "xử", vì đó là một cách xử sự không thâm thuý, không trí tuệ, và nói chung là trái với nghệ thuật ứng xử cua truyện cười.
Như thế, ứng xử trong mảng truyện cười này là ứng xử khác thường. Về lôgích, nó không vượt ra ngoài ngoại diễn của khái niệm ứng xử nhưng về văn hoá, đạo đức, nó có thê trượt ra ngoài chuân mực của ứng xử. Xét về phương diện tâm lí, cụ thể là về khí chất, đây phần nhiều là ứng xử linh hoạt, còn về phong cách, đây chủ yếu là ứng xử tự do. L¡nh hoạt và tự do cho phép nhân vật truyện cười phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động ứng xư. Trong truyện "Phần đồng" ở trên, những tôn ti trật tự, những yêu cầu đạo đức xã hội dường như bị lãng quên, để cho một đứa bé bảy tuổi trô tài ứng biến với một cụ già.
Ỏ truyện cười truyền thống sau đây, tình hình cũng tương tự:
Đã có thân đây al
Vụa hỏi cân thần:
- Xứ fq trị UÌ có nơi nào bhông có ruồi hhông?
- Tâu bệ hạ, ở đâu có người thì ở đó ắt có ruồi q! - Cận thần đáp.
- Khanh nói sơi rồi! Trâm biết có nơi không có người mà 0uấn có ruồi đấy.
- Không sai đâu ạ! - Cận thần mau miệng cối lạI.
Một hôm, cận thần theo uua tới một bhu rừng hẻo lánh để săn bắn. Vua hỏi cân thần:
- Tu thấy ở đây có ruôi nhưng làm gì có người?
- Nêu bệ hạ không chịu nhận là người thì đã có thần đây ại
5. Nếu chúng tôi không nhầm thì đến nay, sau tục ngữ, truyện cười là thể loại thứ hai được xem xét về phương diện ứng xư. Đều là những sáng tác dân gian cả, song ứng xử trong truyện cười không giống với ứng xử trong tục ngữ. Vì mỗi đơn vị tục ngữ tồn tại dưới dạng một câu nên trong thực tế không có một cuộc giao tiếp - ứng xử nào được phan ánh qua tục ngữ ca. Do đó, nếu ta hiểu ứng xử theo hai nghĩa là quan niệm ứng xư và hành vị ứng xư thì ứng xử trong tục ngữ thiên về quan niệm, còn ứng xử trong truyện cười thiên về hành vì (hành vị - lời nón). Hay nói khác đi, ứng xử trong tục ngữ là ứng xử tĩnh, ứng xư lí thuyết, là bài học kinh nghiệm về đối nhân xử thế; còn ứng xử trong truyện cười là ứng xử động, ứng xử thực hành, ứng xử trong những hoàn cảnh đầy kịch tính.
Ca dao dân ca cũng thể hiện khá nhiều cuộc ứng xư. Chắng hạn như trong trương hợp sau đây, cùng một tình huống được nêu ra nhưng có đến ba cách xử sự:
(Xem tiếp trang 57) NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI

———————— TT
là thắng cuộc, sẽ rất hoan hỉ. Những cái tên láy cua loài chim rất tượng thanh như "le le", "bìm bịp” cùng với những hoạt động "đánh trống, thối kèn” và âm thanh "tí te tò te" khiến ta không thể không nghĩ đến một không khí sôi nôi, vui tươi, náo nhiệt; ta như thấy trẻ lại, căng thắng tan biến và vui lây khi ngắm nhìn lũ trẻ con ríu rít như lũ chìm non đang ầm ï hò reo!
Suy luận trên tuy tôi tự thấy cũng hợp lí nhưng dù sai hay đúng, tôi đều không đòi ngươi này ngươi nọ hay cơ quan hữu quan nào phai nghe theo tôi.
Nếu như không chỉ lời mà cả nhạc bài hát "Bắt kim than” mà ông đề xuất đều không giống bài “Bắc kim thang”, nó là một đi bản thì nghĩa là tôi đã chưa hiểu đúng ông. nhưng tôi chỉ hoi ông một câu: Trong khoang 30 bài “Lí con sáo” ông sẽ không chấp nhận 39 bài "thiểu chính xác” nào?
Thay lời kết, tôi xin trích dân hai ý kiến:
- G5. Tô Ngọc Thanh, Tông Thư kí Uy bạn toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ thuật, Tông Thư kí Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Uỷ viên hội đồng Âm nhac quốc tế UNESCO, trong bài "Sơ lược về âm nhạc dân gian” đã viết về tính dị bản: "nó thể hiện tài năng sáng tạo vô cùng phong phú của quần chúng lao động (... ) là phương thức chọn lọc và tồn tại của âm nhạc dân gian. Do đó, chúng ta sẽ mất công vô ích khi ta định đi tìm cái gọi là "bản gốc” của một bài dân ca”.
- Ông Nguyễn Hữu Hiệp: "Xin kiến
nghị với những ngươi có trách nhiệm hưu quan nên nghiên cứu bö ngay toàn bộ bài hát "Bắc kim thang”, thay vào là bài (và trò chơi) "Bắt kim than" chính xác". Vậy có nên dưa bài "Bắt kim than” có “Hái lá mít chùi đít ngựa ô” vào sách giáo khoa hay không, xin để độc giả tự phán xét!
câu
H.M
ỨNG XỬ VÀ MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM... (Tiếp theo trang 47)
- Quân, sư, phụ, tam cang đã Qua chuyển đò đây sóng ngã, cứu a1?
- Đồ đầy, sóng ngã kêu làng ÄI mà cứu được, tôi có mấy lượng vàng thương cho.
- Quân, sư, phụ, tam cang dã
Qua chuyến đò đầy, sóng ngã cứu a1? - Liều mình nhãy xuống sông sâu Hai vai sư, phụ, trên đầu đế vương.
- Quân, sư, phụ, tam cang đã
Đều qua một chuyến đò, sóng ngã cứu alï?
- Cuồng cuồng, hoàng hoảng, tai tai
Vợ vơ, túm túm, phải a1 nây nhờ.
Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của ca dao là trữ tình. Do đó, có thể nói, trong văn học dân gian, truyện cười là thể loại phản ánh đầy đủ và sinh động nhất tài trí tuyệt vời của con người Việt Nam trong hoạt động ứng xử. Việc nghiên cứu nghệ thuật ứng xử trong truyện cười vì thế mà sẽ góp một phần không nhỏ vào công việc khai thác, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá, nghệ thuật của dân tộc.
P.T.H - P.TI.D
(1) Hoàng Phê (chủ biên): Từ điện tiếng V;jệt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.1091.
(9) Nguyễn Khác Viện (chủ biên): Từ điên tâm lí, Ngoại văn, Hà Nội, 1991, tr.12.
(3) Xem thêm: Nguyễn Văn Thông: Tìm hiêu uăn hoa ứng xử của người Việt qua tục ngữ, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 2, 2000, tr./2- 73.
(4) Lê Thị Bừng - Hai Vang: Tâm lí học ứng xứ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 199/, tr.12.
” Trích trong đề tài cấp Bộ Nghệ thuật tửng xử cua người Việt trong truyện cười nhìn từ øóc độ lô øích.