NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
4ö
ỨNG XỬ Và MỘT VÀI
ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHỆ
THUẬT ỨNG XỬ TRONG
TRUVỀN CƯỜI LÔ GÍCH
PHAN TRỌNG HOA - PHAN THỊ ĐÀO)
1. Ứng xử thể hiện qua mối quan hệ
Øø1ữa người Với người trên mọi lĩnh vực cuộc
sống. Có quan hệ người - người là có ứng
xử, nhưng ứng xử không đồng nhất với
quan hệ.
Có thể coi mỗi quyển sách tục ngữ của
môi đân tộc là một quyển giáo trình tâm lí
học ứng xử của dân tộc đó. Mà tục ngữ là
một trong những thể loại văn học dân gian
ra đời sớm nhất nên hoạt động ứng xử của
con người có cách đây rất lâu. Thế nhưng ở
Việt Nam, câu hỏi "Ứng xử là gừ" vẫn là
vấn đề khá mới mẻ. Băng chứng là mãi đến
năm 3000, Từ điền tiếng Việt (Hoàng Phê
chu biên) mới có mục từ "ứng xử" và từ này
được giai thích là "có thái độ, hành động,
lời nói thích hợp trong việc xử sự""”. Còn
trong Từ điển tâm lí (Nguyễn Khắc Viện
chủ biên). các soạn giả lại cho rằng hai từ
"ứng xử" và "hành vị" thương dùng thay
thế cho nhau. “Pừ ứng xử chỉ mọi phản ứng
của động vật khi một yếu tố nào đó trong
môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài
và tình trạng bên trong gộp thành một tình
huống, và tiến trình ứng xử để kích thích
có định hướng nhằm giúp chủ thể thích
nghi với hoàn cảnh. Khi nhấn mạnh về tính
khách quan, tức là các yếu tố bên ngoài
°* Thạc sĩ, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học
Khoa học Huế.
kích thích cũng như phản ứng đều là
những hiện tượng có thể quan sát được, chứ
không như tình ý bên trong, thì nói là ứng
xư. Khi nhấn mạnh mặt định hướng, mục
n(^2)
tiêu thì gọi là hành vị
Thời gian gần đây, ở nước ta đã xuất
hiện một số cuốn sách, bài báo viết về nghệ
thuật ứng xử hay Văn hod ứng xử của
ngươi Việt. Ở đó "ứng xử" được sử dụng
như là một khái niệm trung tâm - một vân
đề cơ bản, mấu chốt, đưa ra để không chỉ
tác gia mà ca độc gia cùng suy nghĩ, bàn
luận. Điều đáng tiếc là khi nghiên cứu, các
tác gia không hề trình bày một quan niệm
nào về khái niệm "ứng xử" cá. Tuy nhiên,
với những gì mà giấy trắng mực đen đã thê
hiện, người đọc vẫn có thể nhận thấy rằng,
quan hệ của họ về khái niệm này là khá
rộng. Chẳng hạn, có ngươi coi những câu
tục ngữ nói về tình vợ chồng như Vợ chồng
sống gửi thịt, chết gửi xương, Trai có Uợ
như gio có hom; Làm ruộng phúi có trâu,
làm giàu phối có 0uợ; Vợ chồng may rủi là
duyên, 0uợ chồng hoà thuận là tiên trên
trời... là ứng xử trong tình vợ chồng"”. Thực
ra, những câu này không thể hiện hành vi
và cũng chăng nói lên quan niệm ứng xử
nào cả, mà chúng chỉ là cơ sở thực tế để từ
đó, các quan niệm đạo đức - ứng xử được
hình thành.
Đôi điều vừa được trình bày ở trên
chứng to, việc sử dụng một định nghĩa có
sẵn về khái niệm "ứng xử" rất khó. Vì thế,
cách làm của chúng tôi là dựa vào định
nghĩa của một số người chuyên nghiên cứu
và giang dạy Tâm lí học ứng xử ö các
trường đại học để rút ra một quan niệm
tương đối thích hợp mà làm việc.
Trong cuốn Tâm lí học ứng xư, khái
niệm "ứng xử" được các tác gia Lê Thị Bừng
và Hai Vang xác định như sau:
44
“Ứng xử là sự phản ứng của con người
đối với sự tác động của người khác đến
mình trong một tình huống cụ thể nhất
định. Nó thể hiện ở chỗ con người không
chủ động giao tiếp mà chủ động trong phản
ứng có sự lựa chọn, có tính toán, thể hiện
qua thái độ, hành vị, cử chỉ, cách nói năng
tuy thuộc vào trì thức, krnh nghiệm và
nhân cách của mỗi người, nhằm đặt kết
quả giao tiếp cao nhất"?”.
Trong thực tế, quan hệ giữa £hới độ với
tơi nói và hành u¡ là quan hệ giữa cái được
biểu hiện và cái biểu hiện, tức trong một
cuộc giao tiếp - ứng xử thì thái độ của chủ
thể được thê hiện qua lời nói hoặc hành vị,
ngược lại "khách thế" lại dựa vào hành vi
hoặc lời nói để nhân biết thái độ của chủ
thể. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tam
hiểu "ứng xử" như sau:
Ứng xử là sự phản ứng có lựa chọn, thê
hiện qua lời nói hoặc hành UL của con
người, trước sự tác động của người hhúc
đến mình trong một tình huống cụ thê.
Với cách hiểu này thì ngoại diên của
khái niệm "ứng xử" hẹp hơn khái niệm
"giao tiếp". Ứng xử được thể hiện trong
hoạt động giao tiếp nhưng không phải hoạt
động giao tiếp nào cũng là ứng xử. Song
đây là ứng xử nói chung, còn ứng xử mà bài
viết này để cập là ứng xử được xét trong
một thể loại văn học, cụ thể là truyện cười,
nên nó có những nét riêng.
2. Truyện cươi, như tên gọi của nó, là
truyện có khả năng gây cười. Cho nên ở đây
nghệ thuật ứng xử không tách rời ứng xử
gây Cười của truyện. Trong truyện, một
cách ứng xử càng bất ngờ, sắc sảo bao
nhiêu thì kha năng gây cười càng cao bấy
nhiêu. Ngược lại, một truyện mà nghe xong
không ai cười được thì không thể coi là có
nghệ thuật ứng xử.
Dựa vào đặc điểm của nghệ thuật gây
cười, chúng tôi chia truyện cười ra thành
PHAN TRỌNG HOÀ - PHAN THỊ ĐÀO
hai loại: truyện cươi thông thương và
truyện cưởơi lôgích.
Ví dụ về truyện cười thông thường:
To... nhỏ
Trên một con đường rất to có một ngôi
nhà rất nhỏ.
Trong ngôi nhà rất nhỏ có một cái
giường rất to.
Trên một cúi giường rất to có một người
đàn ông rất nho.
Trên người đàn ông rất nho có một cái
quần rất to.
Trong cái quần rất to có một cúi gì
nho nho.
Cát nho nho đó là cái... bật lứa.
Trị nhầm
Một ông hấp tấp đâm bổ uòo hiệu
thuốc, giọng đút quãng:
- Có thuốc gì.. trị chứng nắc cụt...
hhông?
Người bán thuốc than nhiên tát cho
anh ta một cói như trời giáng rồi lễ phép
nói:
- Xin lôi ông nhé! Đó là cách trị nhanh
nhát!
Ông khách:
- Nhưng... người bt... là 0ợ tôi hịa mài
Ví dụ về truyện cười lôgích:
Thần đồng
Một đứa trẻ lên bay mà đã cực bì thông
minh nên di cũng gọi nó là thần đồng.
Nghe uậy, một cụ già liền nói uới nó:
- Cháu ạ, chẳng hay ho gì điều đó đâu
mà mừng. Ơ đời, người nào mò lúc trẻ
thông mình lắm thì sau nèy uê giò sẽ đần
độn đấy.
Nó nhanh nhữu:
- Thưa cụ, thế chặăc hôi trẻ cụ cùng
thông mình làm!
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
4Ð
Không say
(Giao thừa sắp đến mà ông chồng đi
uống rượu nhà bạn uân chưa uề. Bà uợ sốt
ruột bao cậu con trai:
- Mày chạy ra phố xem, bhông chừng bố
mày say nga ở đâu rồi cũng nên.
Cậu bé ù té chạy, lát sau uê hớn hở nói
UỞI mC:
- Bố đang uê đấy mẹ q, bhông say!
- Thê ông ây đang đi 0ê phía Đên nào
của phó?
- Đicaq hai bên!
Vậy truyện cươi thông thường và
truyện cười lôgích khác nhau ở điểm nào?
Đê phân biệt hai loại truyện này,
chúng tôi sẽ phân tích truyện "To... nhỏ” và
truyện "Phần đồng".
Truyện "To... nho" đã được nghệ sĩ hài
Vân Dung kể trong chương trình Gặp nhau
cuối! tuần đầu xuân Quý Mùi trên VTVä.
Nội dung của truyện này thật đơn gian,
dường như không có øì để kể cả. Cái đem
lại hiệu qua thư giãn cho người nghe chủ
yếu là hình thức, nhưng không phải là hình
thức lôgích mà là hình thức ngôn ngữ.
Về phương diện lôgích, cách liên kết tư
tương trong văn ban trên là hoàn toàn hợp
quy luật và ban thân nó không có nét gì độc
đáo để tạo ra tiếng cười cả. Trong khi đó, về
phương diện ngôn ngữ, ngoài việc người kế
thể hiện giọng điệu một cách dí đóm, linh
hoạt (đến hai chữ "rất to" thì lên giọng, đến
hai chữ "rãt nho" lại xuống giọng), trước
hết phải ghi nhận đóng góp của người sáng
tác. Ở đây, ngươi sáng tác đã vận dụng
phương thức đối: Trên (trong) cdi rất to/ có
cdi rất nho; Trên (trong cói rất nhoƒ có cái
rát to. Đối nhiều trở nên lặp (phương thức
lặp). Song lặp mãi sẽ hoá thành nhàm nên
phải tạo ra yếu tố bất ngờ để kết thúc câu
chuyện. Vì thể, nếu như ở hai câu trên "cái
rất nho" đều là cái xác định (một ngôi nhò
rất nho, một người đàn ông rất nho) thì ö
câu dưới nó được chuyển ngay thành cái mơ
hồ (một cái gì nho nhỏ), và điều này dễ làm
cho người nghe liên tưởng lung tung.
Nhưng khi được biết "cái nho nhỏ ấy là cái
bật lửa" thì cái mơ hồ kia bất ngờ được xác
định và câu chuyện tưởng như có thê kéo
đài vô tận ây đã được kết thúc một cách
hợp lí. Trong khi đó, ở truyện "Phần đồng",
về phương điện ngôn ngữ lại chăng có gì
đáng cười cả. Tiếng cười chỉ bật ra khi ta
suy rút được một điều mới mẻ, thú vị trên
cơ sơ liên kết lôgích lời nói của cậu bé với
lời nói của cụ già. (Điều này sẽ được trình
bày tiếp ở phần sau).
Như vậy, theo ý riêng của chúng tôi,
truyện cươi thông thương là truyện cưởơi
được gây cười bằng các thủ pháp truyền
thống (như ngôn ngữ đáng cười, hành động
đáng cười, hoàn canh đáng cười và tính
cách đáng cươi), còn truyện cười lôgích là
truyện cười được gây cười bằng thủ pháp
lôgích.
3. Trong bài này, truyện cươi được
khao sát là truyện cười lôgích. Ö đây, quan
hệ tương tác giữa các nhân vật chỉ được xét
trong phạm vị lơi nói. Những hiện tượng
phì ngôn ngữ như hành vị, cử chỉ của nhân
vạt, nếu có cũng bị trừu tượng hoá. Cái mà
chúng tôi tập trung sự chú ý là quan hệ
siữa lời nói tác động và lời nói đáp tra của
các nhân vật trong văn ban.
Tuy nhiên, khi nói như trên, chúng tôi
không hề đánh đồng ứng xử lôgích với ứng
xư ngôn ngữ. Nếu ứng xư ngôn ngữ quan
tâm khảo sát các vấn để như xưng hô,
nghi thức chào hỏi, lễ phép trong giao tiếp
và khai thác các phương tiện ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp với tư cách là phương tiện
thê hiện cung cách ứng xử thì ứng xử
lôgích chi tập trung sự chú ý vào cách
thức liên kết các tư tương với tư cách là
46
PHAN TRỌNG HOÀ - PHAN THỊ ĐÀO
công cụ tư duy - ứng xử. Nếu chuẩn của
ứng xử ngôn ngữ là chuẩn trong phạm vì
xã hội hoặc gia đình thì chuân của ứng xử
lôgích là chuẩn trong lĩnh vực tư duy,
chuân trong phạm vi nhân loại.
Dựa vào mối quan hệ giữa lời nói tác
động với lời nói đáp tra, Ứng xư trong
truyện cười lôgích được chia thành hai loại:
ứng xử độc lập (bao gồm quan hệ giữa lời
nói tác động với lời nói tác động, lời nói đáp
tra với lời nói đáp tra hay giữa các bộ phận
hợp thành lời nói tác động hoặc lời nói đáp
trả) và ứng xử lệ thuộc (bao gồm quan hệ
giữa lời nói tác động với lời nói đáp trả và
ngược lại). Trong hai truyện cười vừa dẫn
ra trên thì "Không say" thuộc vào loại ứng
xứ độc lập. Trong truyện, lời nói tác động
cũng như các yếu tố có trước chỉ có ý nghĩa
khơi dẫn câu chuyện. Tính trí tuệ cũng như
tính nghệ thuật trong cung cách ứng xử
của nhân vật chủ yếu thể hiện qua mối
quan hệ giữa lời nói đáp tra (“bhông say")
với lời nói đáp trả (tđi cả hai bên"). Ö đây,
lời nói đáp trả có ý nghĩa độc lập tương đối
với lời nói tác động. Trái lại, trong truyện
"Thân đồng", nếu ta xét câu nói của cậu bé
một cách riêng rẽ, tách biệt với lời nói cua
cụ già, tự thân nó chẳng có ý nghĩa gì cả.
Sở di như vậy là do, giữa lời nói đáp trả và
lời nói tác động có một mối liên hệ xác định.
Cái làm nên tính độc đáo trong cung cách
ứng xử của nhân vật chính là cái ấn tàng
trong mối quan hệ trừu tượng mà sinh
động đó. Theo đõi sơ đồ sau đây, chúng ta
sẽ rõ hơn điều này:
Lời nói - tác động: Người nào mà lúc
trẻ thông mình thì uề già sẽ đần độn.
Lời nói - đáp trả (ứng xử): Chắc hồi trẻ
cụ cũng thông mình lắm.
(Suy ra: Nên bây giờ cụ mới đân độn
đến thê)
Thật ra, không phải truyện cươi nào
cũng có thể xác định được một cách rạch ròi
ranh giới giữa lời nói tác động với lơi nói
đáp trả như trên. Đối với những truyện
cười chứa nhiều đối thoại thì kích thích và
phản ứng có thể xảy ra từ cả hai phía. Cách
ứng xử của nhân vật này có tác dụng kích
thích sự phản ứng của nhân vật kia và
ngược lại. Ở đây, mỗi cuộc đối thoại diễn ra
như là một cuộc đâu trí nhưng mục đích
chính không phai vì chuyện được, thua mà
là để cho vui. Vui là không khí bao trùm
gần hết măng truyện cười lôgích. Ví dụ:
Giáp Ất tranh luận
Giáp hỏi Ất:
- Đúc đồng làm chuông, đẽo gô làm dùi,
lấy dùi đánh chuông, tiếng bêu bong bong.
Tiếng bêu ấy ở gỗ hay ở đồng?
Ất đúp:
- Lấy dùi gõ uào tường, bhông có tiêng
bêu, gõ uòo chuông, chuông bhêu. Thế thì
tiếng chuông ở đồng.
Giúp Uặn:
- Lấy dùi gõ uào tiền chỉnh, bhông có
tiếng bêu, thế thì có chắc tiếng bêu ở đồng
mà ra hhông?
Ất nói:
- Đồng tiền đặc, cái chuông rông. Vậy
tiếng bêu ở uật rông mà ra.
Giáp lại hỏi:
- Lấy đất ướt làm chuông, gõ uào không
ra tiếng. Thế thì có chốc tiếng bêu từ uất
rỗng mà ra bhông?
4. Về bản chất, ứng xử trong truyện
cười chính là ứng xử ngoài cuộc đời phần
nhiều đã được cách điệu hoá. Có điều, do sự
quy định của thể loại nên nếu cái chi phối
cách ứng xử ngoài cuộc đời là cái trí, cái
tâm thì cái chi phôi cách ứng xử trong
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
47
—=- CC EEE ©=——
truyện cươi chủ yếu là cái trí. Mỗi lời nói -
tác động của khách thê xuất hiện trong văn
ban với tư cách là một tình huống, thường
có nhiều cách xử sự. Lựa chọn giải pháp
nào, tối ưu hay không tối ưu, ngoài vốn
kiến thức, vốn sống và năng lực mĩ cảm còn
phụ thuộc rất nhiều vào trí lực của người
ứng xư. Ví dụ:
Dơ lắm
- Hôm nay quan có g@) nhậu ngon
hhông?
- Đa, có tưởi heo xào di
- Cì, dơ lăm! Tôi hhông bao giờ ăn món
8Ø trong miệng con uất cadÏ
- Váy mời ngòi dùng hột gà nhé!
Rõ ràng, nếu ta thay câu Vậy mời ngòi
dùng hột gà nhé bằng câu Vậy mời ngài
dùng cúi trong đít con gò (con 0ớt) nhé thì
chỉ mới đạt yêu cầu về "đốt" (miệng đối với
đít) mà chưa đạt yêu cầu về "xử", vì đó là
một cách xử sự không thâm thuý, không trí
tuệ, và nói chung là trái với nghệ thuật ứng
xử cua truyện cười.
Như thế, ứng xử trong mảng truyện
cười này là ứng xử khác thường. Về lôgích,
nó không vượt ra ngoài ngoại diễn của khái
niệm ứng xử nhưng về văn hoá, đạo đức, nó
có thê trượt ra ngoài chuân mực của ứng
xử. Xét về phương diện tâm lí, cụ thể là về
khí chất, đây phần nhiều là ứng xử linh
hoạt, còn về phong cách, đây chủ yếu là
ứng xử tự do. L¡nh hoạt và tự do cho phép
nhân vật truyện cười phát huy hết khả
năng của mình trong hoạt động ứng xư.
Trong truyện "Phần đồng" ở trên, những
tôn ti trật tự, những yêu cầu đạo đức xã hội
dường như bị lãng quên, để cho một đứa bé
bảy tuổi trô tài ứng biến với một cụ già.
Ỏ truyện cười truyền thống sau đây,
tình hình cũng tương tự:
Đã có thân đây al
Vụa hỏi cân thần:
- Xứ fq trị UÌ có nơi nào bhông có ruồi
hhông?
- Tâu bệ hạ, ở đâu có người thì ở đó ắt
có ruồi q! - Cận thần đáp.
- Khanh nói sơi rồi! Trâm biết có nơi
không có người mà 0uấn có ruồi đấy.
- Không sai đâu ạ! - Cận thần mau
miệng cối lạI.
Một hôm, cận thần theo uua tới một
bhu rừng hẻo lánh để săn bắn. Vua hỏi cân
thần:
- Tu thấy ở đây có ruôi nhưng làm gì có
người?
- Nêu bệ hạ không chịu nhận là người
thì đã có thần đây ại
5. Nếu chúng tôi không nhầm thì đến
nay, sau tục ngữ, truyện cười là thể loại
thứ hai được xem xét về phương diện ứng
xư. Đều là những sáng tác dân gian cả,
song ứng xử trong truyện cười không giống
với ứng xử trong tục ngữ. Vì mỗi đơn vị tục
ngữ tồn tại dưới dạng một câu nên trong
thực tế không có một cuộc giao tiếp - ứng
xử nào được phan ánh qua tục ngữ ca. Do
đó, nếu ta hiểu ứng xử theo hai nghĩa là
quan niệm ứng xư và hành vị ứng xư thì
ứng xử trong tục ngữ thiên về quan niệm,
còn ứng xử trong truyện cười thiên về hành
vì (hành vị - lời nón). Hay nói khác đi, ứng
xử trong tục ngữ là ứng xử tĩnh, ứng xư lí
thuyết, là bài học kinh nghiệm về đối nhân
xử thế; còn ứng xử trong truyện cười là ứng
xử động, ứng xử thực hành, ứng xử trong
những hoàn cảnh đầy kịch tính.
Ca dao dân ca cũng thể hiện khá nhiều
cuộc ứng xư. Chắng hạn như trong trương
hợp sau đây, cùng một tình huống được nêu
ra nhưng có đến ba cách xử sự:
(Xem tiếp trang 57)
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
SÍ
———————— TT
là thắng cuộc, sẽ rất hoan hỉ. Những cái
tên láy cua loài chim rất tượng thanh như
"le le", "bìm bịp” cùng với những hoạt động
"đánh trống, thối kèn” và âm thanh "tí te tò
te" khiến ta không thể không nghĩ đến một
không khí sôi nôi, vui tươi, náo nhiệt; ta
như thấy trẻ lại, căng thắng tan biến và vui
lây khi ngắm nhìn lũ trẻ con ríu rít như lũ
chìm non đang ầm ï hò reo!
Suy luận trên tuy tôi tự thấy cũng hợp
lí nhưng dù sai hay đúng, tôi đều không đòi
ngươi này ngươi nọ hay cơ quan hữu quan
nào phai nghe theo tôi.
Nếu như không chỉ lời mà cả nhạc bài
hát "Bắt kim than” mà ông đề xuất đều
không giống bài “Bắc kim thang”, nó là một
đi bản thì nghĩa là tôi đã chưa hiểu đúng
ông. nhưng tôi chỉ hoi ông một câu: Trong
khoang 30 bài “Lí con sáo” ông sẽ không
chấp nhận 39 bài "thiểu chính xác” nào?
Thay lời kết, tôi xin trích dân hai ý
kiến:
- G5. Tô Ngọc Thanh, Tông Thư kí Uy
bạn toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học -
Nghệ thuật, Tông Thư kí Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam, Uỷ viên hội đồng Âm
nhac quốc tế UNESCO, trong bài "Sơ lược
về âm nhạc dân gian” đã viết về tính dị
bản: "nó thể hiện tài năng sáng tạo vô cùng
phong phú của quần chúng lao động (... ) là
phương thức chọn lọc và tồn tại của âm
nhạc dân gian. Do đó, chúng ta sẽ mất công
vô ích khi ta định đi tìm cái gọi là "bản gốc”
của một bài dân ca”.
- Ông Nguyễn Hữu Hiệp: "Xin kiến
nghị với những ngươi có trách nhiệm hưu
quan nên nghiên cứu bö ngay toàn bộ bài
hát "Bắc kim thang”, thay vào là bài (và trò
chơi) "Bắt kim than" chính xác".
Vậy có nên dưa bài "Bắt kim than” có
“Hái lá mít chùi đít ngựa ô” vào sách
giáo khoa hay không, xin để độc giả tự
phán xét!
câu
H.M
ỨNG XỬ VÀ MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM...
(Tiếp theo trang 47)
- Quân, sư, phụ, tam cang đã
Qua chuyển đò đây sóng ngã, cứu a1?
- Đồ đầy, sóng ngã kêu làng
ÄI mà cứu được, tôi có mấy lượng vàng
thương cho.
- Quân, sư, phụ, tam cang dã
Qua chuyến đò đầy, sóng ngã cứu a1?
- Liều mình nhãy xuống sông sâu
Hai vai sư, phụ, trên đầu đế vương.
- Quân, sư, phụ, tam cang đã
Đều qua một chuyến đò, sóng ngã
cứu alï?
- Cuồng cuồng, hoàng hoảng, tai tai
Vợ vơ, túm túm, phải a1 nây nhờ.
Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của ca
dao là trữ tình. Do đó, có thể nói, trong văn
học dân gian, truyện cười là thể loại phản
ánh đầy đủ và sinh động nhất tài trí tuyệt
vời của con người Việt Nam trong hoạt
động ứng xử. Việc nghiên cứu nghệ thuật
ứng xử trong truyện cười vì thế mà sẽ góp
một phần không nhỏ vào công việc khai
thác, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hoá, nghệ thuật của dân tộc.
P.T.H - P.TI.D
(1) Hoàng Phê (chủ biên): Từ điện tiếng
V;jệt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000,
tr.1091.
(9) Nguyễn Khác Viện (chủ biên): Từ điên
tâm lí, Ngoại văn, Hà Nội, 1991, tr.12.
(3) Xem thêm: Nguyễn Văn Thông: Tìm
hiêu uăn hoa ứng xử của người Việt qua tục
ngữ, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 2, 2000,
tr./2- 73.
(4) Lê Thị Bừng - Hai Vang: Tâm lí học
ứng xứ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 199/, tr.12.
” Trích trong đề tài cấp Bộ Nghệ thuật
tửng xử cua người Việt trong truyện cười nhìn
từ øóc độ lô øích.