Vai trò dinh dưỡng của các

chất trong bữa ăn

Chất béo, chất bột đường, chất xơ, vitamin và khoáng chất đều là

những chất cần bổ sung trong khẩu phần ăn hàng ngày để duy trì sức khoẻ cơ

thể, chống lại bệnh tật.

Nếu như chất béo (lipid) và chất bột đường (glucid) là nguồn cung cấp năng

lượng chính cho cơ thể thì chất xơ (cellulose), vitamin và chất khoáng cùng các

nguyên tố vi lượng đóng vai trò đảm bảo sức khoẻ và sự phát triển toàn diện cho

cơ thể. Hiểu rõ vai trò các chất dinh dưỡng sẽ giúp bữa ăn của bạn đầy đủ và khoa

học hơn.

Glucid - nguồn năng lượng chính của cơ thể

Glucid là nguồn dinh dưỡng cung cấp năng lượng chính cho mọi hoạt động

của cơ thể, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong khẩu phần ăn, có vai trò chuyển hoá quan

trọng. Glucid còn đóng vai trò quan trọng trong việc cấu tạo nên các tế bào mô,

cơ, phần dư được dự trữ dưới dạng lipid còn được gọi là mỡ. Ngoài công dụng

chính là đảm bảo nguồn năng lượng, glucid còn tham gia vào việc cấu tạo nên vật

chất quan trọng của cơ thể như mô tế bào, tổ chức liên kết, tổ chức thần kinh,

phòng tránh nguy cơ bị xơ vữa động mạch, duy trì hoạt động chức năng thần kinh

trung ương.

Thành phần chính của glucid là đường, do đó tốt nhất nên dùng glucid phức

hợp có chỉ số đường huyết thấp. Đặc biệt đối với người mắc bệnh đái tháo đường,

việc sử dụng những thực phẩm có chỉ số đường huyết thấp sẽ giảm đáng kể lượng

cholesterol toàn phần, từ đó làm giảm nguy cơ phát bệnh.

Phân loại chỉ số đường huyết

Chỉ số đường huyết cao: >=70%

Chỉ số đường huyết trung bình: 56-69%

Chỉ số đường huyết thấp: 40-55%

Chỉ số đường huyết rất thấp: <40%

Chỉ số đường huyết của thực phẩm không thể tính trước được do còn phụ

thuộc vào nhiều yếu tố khác như thành phần chất xơ, quá trình chế biến, thành

phần chất béo và đạm trong thực phẩm. Thực phẩm có nhiều chất xơ, đặc biệt là

xơ hoà tan có chỉ số đường huyết thấp. Do đó, trong chế độ ăn uống cần phối hợp

hài hoà các loại thức ăn khác nhau để đảm bảo nguồn năng lượng và dinh dưỡng

cần thiết mà không bị thừa đường.

Chất xơ - Phương thuốc phòng bệnh hiệu quả

Có thể hiểu chất xơ trong thức ăn là những phần ăn được của thực vật hoặc

chất tương tự carbohydrate, không tiêu hoá và hấp thụ được trong ruột non người,

nhưng bị lên men một phần hoặc hoàn toàn trong ruột già.

Tuy chất xơ không sinh năng lượng như các chất bột, đường, đạm và béo

nhưng nó có vai trò rất quan trọng. Chất xơ có khả năng thẩm thấu nước, kích

thích nhu động ruột non, ruột già, kích thích tiêu hoá nên chống táo bón hiệu quả.

Chất xơ cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc ngừa những bệnh về tim

mạch và tiểu đường, vì nó giúp loại bỏ cholesterol khỏi máu, giúp cơ thể giảm hấp

thụ mỡ và cholesterol từ thức ăn, chống xơ vữa động mạch.

Lượng chất xơ vừa đủ cho cơ thể làm tăng cảm giác no, giúp lưu giữ thức

ăn ở dạ dày lâu hơn, ngăn cản men tiêu hoá tác dụng với thức ăn dẫn đến làm

chậm tốc độ tiêu hoá, giúp giải phóng glucose vào máu đều đặn và từ từ, nhờ đó

có thể kiểm soát glucose máu, đồng thời có tác dụng giảm hấp thu chất béo, rất tốt

cho những ai muốn béo hoặc muốn kiểm soát cân nặng.

Cũng bởi những tác dụng trên mà chất xơ được khuyến cáo sử dụng nhiều

trong chế độ ăn của bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2. Ngoài ra, chất xơ còn có

khả năng ngừa ung thư, viêm ruột thừa, loét tá tràng, viêm túi mật...

Vitamin, chất khoáng, nguyên tố vi lượng và chất chống oxy hoá

Chất xơ có nhiều trong rau quả

Vitamin, chất khoáng, nguyên tố vi lượng và chất chống oxy hoá chỉ chiếm

một lượng rất nhỏ nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể. Nếu bị thiếu

hụt một trong các chất trên sẽ khiến cơ thể giảm khả năng miễn dịch hoặc dẫn tới

việc bị mắc một số bệnh.

Có rất nhiều loại vitamin khác nhau trong cơ thể, vitamin A, B, B1, B6, C,

D, E... mỗi loại có vai trò khác nhau. Chẳng hạn, vitamin A tham gia vào hoạt

động thị giác, chống lão hoá, phòng ngừa ung thư. Thiếu vitamin A, da và niêm

mạc sẽ bị khô dẫn đến dễ nhiễm khuẩn, đặc biệt là mắt khô, gây nhũn giác mạc,

rồi gây mù. Vitamin C cần thiết cho sự phát triển bình thường của các mô liên kết

như sụn, xương, răng, cho sự bền vững của mao mạch và của da.

Các chất khoáng và vi khoáng là một nhóm các chất cần thiết không sinh

năng lượng nhưng có vai trò dinh dưỡng rất đa dạng và phong phú. Chất khoáng

đóng vai trò chủ chốt trong việc tạo hình của các tổ chức xương và tổ chức mềm.

Các muối photphat và cacbonat của canxi, magiê là thành phần cấu tạo xương,

răng. Khi thiếu canxi, xương trở nên xốp, mô liên kết biến đổi, gây còi xương ở trẻ

em.

Các nghiên cứu đã chứng minh tác dụng của các chất chống oxy hoá đến

quá trình xơ vữa động mạch là có thể giảm từ 20-40% nguy cơ bệnh mạch vành.

Chất chống oxy hoá có nhiều loại, trong đó, những chất chống oxy hoá hàng đầu

bao gồm vitamin E, vitamin C, B6, B12, Folat, Beta- caroten...

Chế độ ăn như thế nào?

Mức độ glucid lý tưởng trong bữa ăn là khoảng 55% năng lượng.

Nguồn glucid chủ yếu có trong thực vật như ngũ cốc và hạt họ đậu, ở

động vật chủ yếu có trong gan, sữa; song tỉ lệ không nhiều. Nên ăn nhiều

thức ăn chứa tinh bột, đảm bảo duy trì sự ổn định của đường huyết. Hạn

chế các thức ăn đường đơn, vì có thể sinh bệnh béo phì, bệnh tim mạch.

Nên đảm bảo 20-35g chất xơ/ngày hoặc 10g chất xơ/1000kcal.

Rau quả là nguồn cung cấp chất xơ quan trọng: lượng cellulose trong rau

chiếm khoảng 0,3-3,5%. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến nghị nên

tiêu thụ tối thiểu 300g rau/người/ngày và bổ sung thêm khoảng 100g quả

chín. Ngoài ra, ăn nhiều rau quả còn đảm bảo lượng vitamin và khoáng

chất cần thiết cho cơ thể.