Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng

Lisa Sanders (*)

1. Triệu chứng

Bác sĩ Lisa bước vào phòng khám của bệnh viện, một phòng nhỏ

với đèn điện sáng choang, và trong phòng đã có 5 người chào đón bà.

Bệnh nhân là một trung niên với khuôn mặt dễ nhìn đang ngồi trên xe lăn,

đưa tay mời bà vào. Vợ ông ngồi bên cạnh và 3 con ông đang bận rộn với

sách vở, có lẽ chúng đang làm bài tập gì đó. Đối với gia đình này, cũng

như bao nhiêu gia đình khác có bệnh nhân mãn tính, việc nằm bệnh viện

đã trở thành một … sinh hoạt gia đình bình thường.

Bệnh nhân vươn mình bắt tay bác sĩ Lisa. Cái bắt tay chặt nịch, và

bàn tay ấm áp, không đượm mồ hôi – bác sĩ Lisa thầm ghi nhận. Ông có

vẻ mệt và đau đớn, Chính ông cũng nói thế. Ông cho biết khi bị sốt, ông

không thể bắt tay. Cho đến khoảng 10 ngày trước đây, ông luôn khỏe

mạnh – “khỏe mạnh” ở đây phải được hiểu theo nghĩa ông đang ở trong

tình trạng không mấy gì khỏe khoắn nhưng khá hơn hiện nay. Khi lên cơn

sốt ông đi khám bác sĩ, và bác sĩ đề nghị ông nhập viện. Sốt mà nhập

viện là một điều không mấy bình thường, nhưng bệnh nhân này không chỉ

bị sốt bình thường, mà hệ thống miễn dịch trong cơ thể ông bị suy giảm,

và việc điều trị bằng thuốc trụ sinh cùng với xét nghiệm theo dõi liên tục là

một điều rất cần thiết. Chính vì thế mà ông nhập viện với cái chẩn đoán

“sốt”.

Bệnh nhân 47 tuổi. Bốn năm trước đây, ông trải qua một cuộc giải

phẫu dạ dày. Cuộc giải phẫu thành công, và ông mất khoảng 100 pounds.

Trước khi giải phẫu, ông bị tiểu đường, cholesterol tăng cao, và chứng

ngưng thở ngẫu nhiên trong khi ngủ (sleep apnea), nhưng tất cả các bệnh

này đều được khống chế khi ông giảm cân sau cuộc phẫu thuật.

Hai năm sau khi giải phẫu, ông bị chứng sa ruột (hernia), một biến

chứng khá phổ biến xảy ra ở các bệnh nhân sau giải phẫu dạ dày. Ông lại

trải qua một phẫu thuật khác để điều trị chứng sa ruột, và đó cũng chính là

thời điểm bắt đầu cho những vấn đề sức khỏe sau này. Sau cuộc giải

phẫu, ông bị nhiễm trùng khá nặng, và phải nhập viện để được tiêm thuốc

trụ sinh, và từ đó ông phải sống với hệ quả của cuộc giải phẫu: dấu mổ

mà bác sĩ mổ để điều trị chứng sa ruột không lành. Không ai biết tại sao.

Nhưng đó không phải là điều bí ẩn duy nhất: 6 tháng trước đây, trong một

xét nghiệm máu theo định kì, các bác sĩ phát hiện ông mắc chứng thiếu

máu (anemia – tức có quá ít tế bào máu đỏ) và chứng thiếu bạch cầu

(neutropenia – tức quá ít tế bào máu trắng để chống viêm). Sau đó ông

trải qua hàng chục xét nghiệm khác, nhưng chẳng ai giải thích được tại

sao các triệu chứng mới này lại xuất hiện.

2. Điều tra

Bác sĩ Lisa không phát hiện một dấu hiệu viêm nào khi bà khám

bệnh nhân. Vết thương do giải phẫu ở bụng dài gần bằng một gang tay.

Các mô chung quanh vết mổ không cung cấp một manh mối hay dấu hiệu

nào tại sao vết mổ không lành. Xét nghiệm máu cho thấy cơ thể có 2,000

tế bào máu trắng (WBC) trên mỗi ml máu — tức không tới 50% so với

mức độ bình thường, ngay cả trong tình trạng không bị nhiễm trùng. Còn

neutrophils — tức các tế bào máu trắng phục vụ như là đội quân tiền

phong của hệ thống miễn dịch — chỉ 500 tế bào trên mỗi ml, quá ít để

chống trả nhiễm trùng.

Bác sĩ Lisa làm thủ tục nhập viện cho bệnh nhân, đề nghị chụp X

quang để tìm xem có dấu hiệu nào liên quan đến viêm phổi không, xét

nghiệm máu và nước tiểu để tìm xem có bị nhiễm trùng nào khác và giúp

cho quyết định sử dụng thuốc trụ sinh. Bác sĩ Lisa nghĩ cho dù không có

nhiễm trùng, việc điều trị bằng thuốc trụ sinh có thể giúp làm tăng số

lượng tế bào máu trắng để tăng cường khả năng miễn dịch.

Sau đó, bác sĩ xem xét kĩ hồ sơ bệnh lí. Bà cảm thấy tò mò về tình

trạng thiếu máu trắng của bệnh nhân. Bà có nhiều kinh nghiệm với các

bệnh nhân sốt do thiếu tế bào máu trắng, nhưng thông thường nguyên

nhân cho tình trạng này khá hiển nhiên. Một bệnh nhân trải qua hóa học

trị liệu (chemotherapy) hay sử dụng thuốc điều trị khả năng miễn dịch

thường có lượng tế bào máu trắng giảm thấp. Nhưng với bệnh nhân này,

tình trạng thiếu tế bào máu trắng được mô tả là “idiopathic” – tức không rõ

nguyên nhân; sau hàng loạt xét nghiệm, các bác sĩ vẫn không biết tại sao.

Tất cả các xét nghiệm để phát hiện bệnh viêm gan, bệnh HIV, và ngay cả

các bệnh miễn dịch và bệnh tuyến giáp đều âm tính. Xét nghiệm bằng

sinh thiết cho thấy bệnh nhân thiếu tế bào máu trắng và tế bào máu đỏ.

Bà bắt đầu truy tìm trong y văn về tình trạng thiếu tế bào máu trắng ...

Sau khi xem xét bệnh lí và đọc y văn, bác sĩ Lisa có thể đặt ra một

số giả thiết khả dĩ. Bệnh nhân uống hàng chục loại thuốc. Có khả năng

một trong những loại thuốc này là nguyên nhân làm giảm tế bào máu

trắng? Ngoài ra, trong vài nghiên cứu, tình trạng suy dinh dưỡng sau khi

giải phẫu dạ dày có thể liên quan hay ảnh hưởng đến quá trình sản suất tế

bào máu trắng. Nhưng bệnh nhân đã được xét nghiệm rồi: sắt, sinh tố

B12, folate. Tuy nhiên, bệnh nhân chưa được xét nghiệm xem có suy

giảm đồng hay không, nhưng suy giảm đồng trong máu là tình huống rất

hiếm. Trong khoảng 1/3 trường hợp thiếu tế bào máu trắng, không ai bị

chứng giảm đồng trong máu cả.

Chiều hôm đó, vợ bệnh nhân đến gặp bác sĩ, và cho bà xem một

danh sách sinh tố mà bệnh nhân đang dùng. Bà dặn bác sĩ “Bác sĩ nhớ

cho ông ấy uống mấy sinh tố này nhé, vì ông ấy rất cần chúng.” Bác sĩ

Lisa nhìn qua danh sách sinh tố: sắt, can-xi, và đa sinh tố (multivitamin) —

những loại “thuốc” phổ biến thường được cho bệnh nhân dùng sau khi

phẫu thuật dạ dày, để hạn chế khả năng của cơ thể hấp thụ một số chất

dinh dưỡng. Nhưng rồi bác sĩ Lisa để ý đến hai loại sinh bổ sung mà bà ít

thấy: sinh tố A và kẽm. Có thể các chất dinh dưỡng bổ sung này dính

dáng đến tình trạng thiếu tế bào máu trắng của bệnh nhân?

Sinh tố A nếu dùng ở liều lượng cao có thể độc hại. Ấy thế mà bệnh

nhân đang dùng liều lượng cao gấp 10 lần cho phép. Truy tìm trong y văn

chẳng thấy tài liệu nào nói đến ảnh hưởng của sinh tố A đến tế bào máu

trắng.

Thế còn kẽm? Bác sĩ Lisa không biết nhiều về chất khoáng này,

nhưng bệnh nhân đang dùng với liều lượng cao gấp 15 lần so với liều

lượng cho phép. Bác sĩ Lisa lại truy tìm trong y văn và … đây rồi! Gần

chục báo cáo trong y văn cho biết dùng kẽm ở liều lượng cao làm suy

giảm tế bào máu trắng trong máu và thỉnh thoảng gây ra tình trạng thiếu

máu. Tìm hiểu thêm thì biết rằng kẽm tự nó không phải là vấn đề; vấn đề

là khi cơ thể hấp thụ kẽm và đồng qua thụ bào (receptor). Nếu một cá

nhân dùng quá nhiều chất kẽm, cơ thể sẽ giảm khả năng hấp thụ chất

đồng. Đồng là một chất khoáng đóng vai trò quan trọng để điều chế máu

và mô. Vậy thì bệnh nhân có thể có quá ít chất đồng trong máu và đây

chính là nguyên nhân cho tình trạng thiếu tế bào máu trắng?

3. Liệu pháp

Bác sĩ đề nghị bệnh nhân ngưng sử dụng tất cả các sinh tố và xét

nghiệm máu để đo nồng độ đồng trong máu. Trước khi nhận được kết

quả, hiệu quả đã khá hiển nhiên. Trong vòng vài ngày ngưng sử dụng

sinh tố, tế bào máu trắng trở lại mức độ bình thường. Bệnh nhân được

cho xuất viện, với một toa thuốc duy nhất: tăng cường chất đồng trong

vòng 6 tháng. Khi xét nghiệm đồng xong, kết quả xác định tiên đoán của

bác sĩ Lisa là đúng: bệnh nhân thiếu chất đồng trong máu. Vài tháng sau

đó, tình trạng thiếu máu cũng được giải quyết xong. Và, quan trọng hơn,

vết thương giải phẫu cũng lành lại.

Tại sao bệnh nhân dùng liều lượng sinh tố quá cao? Bác sĩ giải

phẫu cho bệnh nhân dùng sau phẫu thuật điều trị chứng sa ruột để làm rút

ngắn thời gian lành vết mổ; và suy nghĩ này cũng phù hợp với y văn,

nhưng chỉ trong thời gian đầu sau giải phẫu mà thôi. Tuy nhiên, vết mổ

chưa lành, và bệnh nhân tiếp tục dùng các sinh tố này. Ngoài ra, bệnh

nhân đã từng ra vào bệnh viện nhiều lần sau giải phẫu. Mỗi lần ông nhập

viện, bác sĩ bệnh viện lại tiếp tục cho ông uống sinh tố. Cả hai phía, bác sĩ

và bệnh nhân, đều không biết được hệ quả của việc uống sinh tố quá

nhiều.

Trong y khoa, có thông lệ rằng những chẩn đoán khó nhất thường

do các bác sĩ ít kinh nghiệm nhất và các bác sĩ kinh nghiệm lâu năm tìm

ra. Bác sĩ kinh nghiệm lâu năm có thể chẩn đoán nhanh vì họ đã quá

“quen” với các trường hợp tương tự, cũng giống như thám tử Sherlock

Holmes. Bác sĩ trẻ ít kinh nghiệm có thể chẩn đoán các bệnh khó khăn

nhất vì họ mới ra khỏi sách vở và có thể theo dõi các đầu mối mà không

có một định kiến chủ quan nào, cũng giống như một nhà khoa học trẻ trên

hành trình khám phá, không vướng bận với “trường phái” và “lập trường”.

Bác sĩ Lisa nghĩ trong trường hợp này thật là không công bằng cho

bệnh nhân chút nào vì bệnh nhân cố gắng làm tất cả những gì ông được

khuyên nên làm để chóng hết bệnh, nhưng những gì ông được bác sĩ

khuyên lại làm hại ông. Đơn giản là vì chúng ta không nghĩ rằng sinh tố có

khi cũng gây tác hại.

(*) Nguyễn Văn Tuấn lược dịch từ bài viết “The Healing Problem” của Lisa

Sanders đăng trên New York Times ngày 12/11/2006.