
Đề tài: Vay nợ quốc tế - Trường hợp về Tín dụng xuất khẩu
GVHD: T S Trương Quang Thông
4
Nhóm 3 – Lớp NH Đêm 6 – K20
- Rủi ro quốc gia: Rủi ro quốc gia là những biến cố có thể xảy ra đối với quốc gia như:
Chính trị, chiến tranh, tình hình an ninh xã hội, … Điều này được lượng hóa qua hệ
số tín nhiệm của quốc gia. Hai tổ chức lớn nhất và co uy tín nhất về xếp hạng tín
nhiệm trên thế giới đó là Moody’s và Standard & Poor’s.
- Lạm phát: Lạm phát là vấn đề khó khăn luôn gặp phải tại các quốc gia đang phát
triển. Mức lạm phát này thường cao hơn các nước chủ nợ là các quốc gia đã phát
triển. Theo lý thuyết về ngang giá lãi suất, lạm phát trong nước cao hơn lạm phát
nước ngoài thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên để bù đắp lại khoản chênh lệch đó do đó có
thể làm tăng mức nợ vay mức nợ vay thực tế.
2. Mối liên hệ giữa việc vay nợ quốc tế và khủng hoảng:
Nợ nước ngoài tạo ra nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng có điểm giới hạn, nếu vượt
quá điểm này sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế. Từ những năm thập niên 60 các nhà kinh tế
đều cho rằng việc chuyển giao các nguồn lực nước ngoài (thông qua các khoản vay, viện trợ và
tài trợ) tại các nước kém phát triển là cần thiết, nó bổ sung nguồn vốn thiếu hụt trong nước. Với
nguồn vốn được bổ sung sẽ giúp các nước chuyển đổi nền kinh tế của họ để tạo ra mức tăng
trưởng cao hơn. Qua quá trình này có thể thấy mối liên hệ giữa nợ nước ngoài và tăng trưởng
kinh tế là với một quốc gia đang phát triển mức vay nợ hợp lý có khả năng tăng cường tăng
trưởng kinh tế.
Tuy nhiên về sau các nghiên cứu lại cho thấy càng gia tăng nợ thì tăng trưởng kinh tế sẽ càng
tốt hơn. Nợ nước ngoài tạo ra nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế nhưng có điểm giới hạn nếu
vượt quá điểm này gia tăng nợ sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa cơ cấu nợ và khủng hoảng nợ
- Khủng hoảng thập niên 1990s cho thấy rủi ro cao đi kèm với vay nợ ngắn hạn và vay
bằng ngoại tệ: Nợ ngoại tệ làm giảm tính bền vững nợ do đó có thể dẫn đến khủng
hoảng (Eichengreen and Hausmann, 1999; Eichengreen, Hausmann and Panizza,
2003) và Nợ ngắn hạn tương quan với xác suất xảy ra khủng hoảng nợ (Detragiache
and Spilimbergo, 2001).
- Mức nợ công (so GDP) bình quân nước đang phát triển thường thấp hơn nước phát
triển, nhưng không nói lên khả năng khủng hoảng.
- Nhật vẫn an toàn với mức nợ rất cao (cơ cấu nợ và lãi suất gần 0%).
- Các nước đang phát triển rơi vào khủng hoảng nợ khi tỷ lệ nợ/GDP khoảng 30%.
(Reinhart, Rogoff and Savastano, 2003).
- Cơ cấu nợ xấu không phải là nguyên nhân căn cơ của khủng hoảng nợ. Có quan hệ
giữa cơ cấu nợ với chất lượng chính sách và thể chế (Burger and Warnock, 2006;
Guscina and Jeanne, 2006; and Claessens, Klingebiel and Schmukler, 2007).
3. Thị trường vay nợ quốc tế tại các nước đang phát triển, Các nhân tố làm cho mức vay
nợ quốc tế của các quốc gia này cao hơn so với các quốc gia khác: