
Xét nghiệm chức năng
gan và chẩn đoán hình
ảnh

Xét nghiệm chức năng gan ( LFTs) dùng để phản ánh tình trạng hoạt
động của gan.. Tuy nhiên ngoài ý nghĩa, lợi ích cũng có hạn chế của xét
nghiệm chức năng gan (LFTs). LFTs không thể xác định được những
bệnh cụ thể của gan. Để xác định cần có xét nghiệm chuyên sâu và đặc
biệt hơn. Ngoài ra, để chẩn đoán bệnh gan cần có kết quả chẩn đoán
hình ảnh, như siêu âm gan, chụp cắt lớp và cộng hưởng từ thường dùng
để quan sát hình ảnh gan.
I. Tìm hiểu về xét nghiệm chức năng gan (LFTs)
Xét nghiệm chức năng gan để giúp bác sĩ đưa ra một vài nhận định rằng
đang có vấn đề gì đó với gan. Nhưng đừng hiểu sai về xét nghiệm này.
Trong khi LFTs thường được dùng để phản ánh tình trạng gan đang hoạt
động tốt không, xét nghiệm này có thể bị sai vì không phải bất kỳ xét
nghiệm máu nào cũng đánh giá chính xác tất cả các chức năng khác nhau
của gan. Vì vậy, chỉ giống như đèn pha và thiết bị đo trong ô tô, LFTs không
phải là dấu hiệu hoàn hảo để xác định chính xác bệnh. Tuy nhiên nó giúp
cảnh báo cho bác sĩ rằng có điều gì đó bất ổn với gan. Hơn nữa nó giúp cho
bác sĩ xác định sự cần thiết tiến hành thêm các xét nghiệm khác. Và khi kết
hợp các kết quả xét nghiệm thêm này với LFTs, bác sĩ sẽ có cơ sở tốt hơn để
chẩn đoán liệu gan bị bệnh gì và có đang hoạt động tốt không. Bằng việc lưu
giữ một loạt kết quả LFTs từ những tháng và năm trước đó, trong một số

trường hợp cả bác sĩ và bệnh nhân có thể dự đoán liệu tình trạng gan có ổn
định không, có được cải thiện không, có hồi phục không hoặc xấu đi; biện
pháp điều trị có đáp ứng không hoặc có cần thử biện pháp khác không; và
liệu đã đến lúc bệnh nhân cần phải cấy phép gan chưa.
LFTs bao gồm nhiều xét nghiệm máu khác nhau để kiểm tra nồng độ men
gan; bilirubin; và protein gan. Sau đây là các xét nghiệm này.
1. Men gan
Có 4 men gan khác nhau được đưa vào trong các xét nghiệm thông thường.
Đó là aspartate aminotransferase (AST hoặc SGOT) và alanine
aminotransferase (ALT hoặc SGPT) được biết đến như transaminase; và
phosphate kiềm (AP) và gamma-glutamyl transferase (GGTP), được biết
như men gan mật. Khi các men này tăng lên có thể biểu hiện của bệnh gan.
a. AST và ALT (transaminase)
AST và ALT thường liên quan đến viêm và/hoặc tổn thương tế bào gan, một
tình trạng được coi là tổn thương tế bào gan. Tổn thương gan điển hình dẫn
đến tình trạng rò gỉ men AST và ALT vào dòng máu.
Do AST được tìm thấy trong nhiều cơ quan khác ngoài gan bao gồm thận,
cơ và tim, việc tăng mức AST không phải luôn luôn (nhưng thường) cho
thấy có vấn đề về gan. Khi hoạt động thể lực mạnh cũng làm tăng nồng độ
AST. Mặt khác, do ALT chủ yếu có ở gan nên nồng độ ALT cao hầu như
luôn phản ánh tình trạng gan có vấn đề (tuy nhiên thì mức ALT bình thường
không nhất thiết có nghĩa rằng gan bình thường. Điều này được đề cập ở
phần sau).
Mặc dù có thể dự đoán được nhưng mức transaminase máu cao không phải
luôn luôn biết mức độ viêm hoặc tổn thương gan. Đây là điểm quan trọng

cần phải nhớ. Khoảng trung bình của AST và ALT tương ứng là 0-40 IU/l
và 0-45 IU/l. (IU/l là đơn vị quốc tế trên lít và là cách thường được dùng
nhiều nhất để định lượng những men đặc biệt này).
Nhưng nếu một người có mức ALT là 50 IU/l không phải lúc nào cũng tốt
hơn so với người có mức ALT 250 IU/l! Điều này do những xét nghiệm máu
đánh giá sự tổn thương hoặc viêm gan được lấy mẫu vào những thời điểm
đặc biệt. Ví dụ, nếu bị viêm gan và lấy mẫu vào thời điểm bệnh nhân mới
uống rượu vài giờ trước khi lấy máu thì mức transaminase cao hơn nhiều lần
so với những người không uống rượu. Cũng lý do tương tự, nếu gan đã bị
tổn thương từ nhiều năm trước do uống rượu nhiều – kết quả xét nghiệm
máu ngày hôm nay cho thấy bình thường có thể vẫn bị tổn thương gan.
Đi sâu hơn về vấn đề này, có nhiều yếu tố khác ngoài tổn thương gan có thể
ảnh hưởng tới nồng độ AST và ALT. Ví dụ transaminase ở nam cao hơn nữ,
nam giới Mỹ gôc Phi có mức AST cao hơn nam giới da trắng. Thậm chí thời
điểm lấy máu trong ngày cũng ảnh hưởng tới mức transaminase; dường như
mức transaminase vào buổi sáng và trưa cao hơn vào buổi tối. Thức ăn hầu
như không ảnh hưởng rõ rệt tới mức transaminase. Vì vậy, không khác biệt
rõ rệt giữa lúc đói và lúc bình thường. Transaminase cũng có thể thay đổi
theo ngày.
Đôi điều về khoảng tham khảo bình thường
Khi kết quả xét nghiệm được đưa cho bác sĩ, họ thường so sánh với giá trị
thu được từ một nhóm người khỏe mạnh. Khoảng của giá trị này được gọi là
“giá trị bình thường” được gọi là giới hạn tham khảo hoặc khoảng tham
khảo. Giá trị cao nhất và thấp nhất của khoảng này thường được gọi là giới
hạn bình thường trên và giới hạn bình thường dưới. Khoảng tham khảo này
có thể khác nhau chút ít tùy theo từng thời điểm và tùy vào từng phòng xét

nghiệm. Bác sĩ sẽ chú ý đến giới hạn này khi đọc từng kết quả xét nghiệm cụ
thể.
Tỷ lệ ALT và AST cũng có thể mang lại thông tin có giá trị liên quan đến
mức độ và nguyên nhân bệnh gan. Hầu hết các bệnh gan thì mức tăng ALT
cao hơn mức tăng AST nhưng có 2 trường hợp ngoại lệ. Xơ gan và nghiện
rượu thì mức tăng AST cao hơn mức tăng ALT, thường tỷ lệ này là 2:1.
Mức tăng transaminase xảy ra do quá nhiều nguyên nhân nên chỉ giúp bác sĩ
đưa ra một nhận định không rõ ràng. Cần phải làm thêm các xét nghiệm
khác để xác định chính xác hơn xem gan bị bệnh gì. Những nguyên nhân sau
có thể làm tăng mức transaminase:
Viêm gan do virus.
Gan nhiễm mỡ.
Bệnh gan do rượu.
Bệnh gan do thuốc.
Viêm gan tự miễn.
Nhiễm độc thảo mộc.
Bênh gan di truyền.
U gan.
Suy gan.
Luyện tập gắng sức.
b. GGT và AP (Men gan mật)
Mức GGT và AP tăng có thể là biểu hiện của tắc mật hoặc tổn thương, hoặc
viêm đường mật. Những bệnh này thường có đặc điểm là giảm hoặc không

