, 194
ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VỀ MÁY MÓC,
PHƯƠNG TIỆN VẬN TẢI VÀ PHỤ TÙNG CỦA VIỆT NAM: NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ THƯƠNG MẠI NI NGÀNH
ThS. Phạm Thùy Linh
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh - Đại học Thái Nguyên
Tóm tắt:
Nghiên cứu này xem xét thương mại nội ngành máy móc, phương tiện vận tải và phụ
tùng của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2015, từ đó đxuất các giải pháp đẩy mạnh hoạt
động thương mại quốc tế của nhóm hàng này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách
mạng công nghiệp 4.0. Một số kết luận chính rút ra như sau: Thương mại nội ngành theo
chiều dọc chiếm ưu thế trong quan hệ trao đổi hai chiều về máy móc, phương tiện vận tải
phụ tùng.Quy kinh tế, sở hạ tầng mức đđa dạng hóa sản phẩm theo ngành có tác
động tích cực thúc đẩy, trong khi khoảng cách địa rào cản hạn chế thương mại nội
ngành.Sự khác biệt về cầu, vốn FDI, hội nhập kinh tế quốc tế không tác động tới thương
mại nội ngành. Các giải pháp đưa ra như sau:đẩy mạnh xuất khẩu dựa trên sở ng cao
trình độ khoa học công nghệ;tận dụng thế mạnh của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; đẩy
mạnh đầu tư cho cơ sở hạ tầng; tận dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; đa dạng hóa quan
hệ thương mại với các nước; chú trọng đến công tác nghiên cứu thị trường.
Từ khóa: thương mại nội ngành, hội nhập kinh tế quốc tế, máy móc, phương tiện vận tải
và phụ tùng
1. Đặt vấn đề
Nền kinh tế thế giới trong thời gian gần đây chứng kiến những chuyển biến sâu sắc
của hoạt động thương mại quốc tế. Theo đó, luồng hàng hóa trao đổi giữa các quốc gia sự
tăng trưởng mạnh mẽ cả về quy mô cấu. Số liệu thống thương mại ghi nhận xu
hướng các quốc gia đồng thời xuất khẩu nhập khẩu hàng hóa trong cùng một ngành hàng
(hay còn gọi là thương mại nội ngành- IIT) ngày càng gia tăng. Các nghiên cứu từ những năm
60 của thế kỷ XX đã khẳng định đóng góp lớn của thương mại nội ngành vào hoạt động
thương mại quốc tế. Các nghiên cứu cũng đã đưa ra sự giải thích toàn diện khi thương mại
nội ngành được chia thành hai loại thương mại nội ngành theo chiều ngang (HIIT)
thương mại nội ngành theo chiều dọc (VIIT). Thương mại nội ngành theo chiều ngang diễn ra
giữa các quốc gia về các hàng hóa có chất lượng như nhau nhưng mang một số đặc điểm đã
được khác biệt hóa. Ngược lại, thương mại nội ngành theo chiều dọc liên quan tới thương mại
hai chiều về các hàng hóa có chất lượng khác nhau, giá cả không giống nhau.
Thực hiện đường lối đổi mới mở cửa nền kinh tế, hoạt động thương mại quốc tế
của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc đóng góp to lớn o quá trình phát triển
kinh tế - hội. Thương mại của Việt Nam trước đây, giống như nhiều nước đang phát triển
khác, chủ yếu là thương mại liên ngành (xuất nhập khẩu hàng hóa khác nhau dựa trên sự khác
biệt về lợi thế so sánh). Tuy nhiên, cùng với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, s
phát triển của thương mại biên mậu và sự gia tăng quá trình phân công lao động quốc tế trong
bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, thương mại nội ngành của Việt Nam ngày càng thể hiện
vai trò tích cực.
Máy móc, phương tiện vận tải phụ tùng nhóm hàng có đóng góp lớn chiếm
vai trò ngày ng ng trong cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Kim ngạch
thương mại của nhóm hàng này tăng từ 14,9 tUSD m 2006 lên 130,9 tỷ USD năm 2015.
So sánh kết quả hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu thì Việt Nam đang nhập siêu về máy móc,
phương tiện vận tải phụ tùng. Năm 2015, Việt Nam nhập siêu 9,7 tỷ USD nhómng này.
Trong cấu hàng hóa xuất khẩu, máy móc, phương tiện vận tải phụ tùng chiếm tỷ trọng
, 195
ngày càng tăng, từ 10,5% năm 2006 lên 37,38% m 2015, đưa nhóm hàng y trở thành
nhóm hàng tỷ trọng cao nhất. Trong cấu hàng hóa nhập khẩu, tỷ trọng nhóm ng này
cũng tăng đáng kể từ 23,95% năm 2006 lên 42,42% năm 2015.
Cho đến nay, tại Việt Nam, đã một số nghiên cứu về thương mại nội ngành (Từ
Thúy Anh, 2008; Từ Thúy Anh Hoàng Xuân Trung, 2008). Tuy nhiên, bối cảnh mới của
hội nhập kinh tế khu vực quốc tế dẫn tới sự xuất hiện thêm nhiều yếu tố tác động đến
thương mại nội ngành của Việt Nam các nghiên cứu chưa đề cập đến. Do đó, nghiên cứu
này sẽ bổ sung bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa các yếu tố với thương mại nội
ngành thông qua việc nghiên cứu hiện tượng thương mại này trong xuất nhập khẩu máy móc,
phương tiện vận tải và phụ tùng của Việt Nam.
Sở dĩ nghiên cứu lựa chọn hàng máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng bởi vì theo
nhận định của phần lớn các học giả kinh tế, với đặc trưng của hiện tượng xuất nhập khẩu
đồng thời hàng hóa trong cùng một ngành, hoạt động thương mại nội ngành các quốc gia
chủ yếu phản ánh trong các ngành công nghiệp, điển hình máy móc, phương tiện vận tải,
hơn trong ng thô hay mới chế. Máy móc, phương tiện vận tải phụ tùng cũng
nhóm hàng chịu ảnh hưởng lớn từ các biến động trong bối cảnh mới của nền kinh tế toàn cầu
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Việc nghiên cứu một cách toàn diện về quy mô, cơ cấu
cũng như các yếu ttác động tới thương mại nội ngành đối với ng máy móc, phương tiện
vận tải phụ tùng ở một quốc gia đang phát triển, trình độ công nghệ thấp như Việt Nam sẽ
đem lại đóng góp quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của nghiên cứu phân tích, đánh giá thương mại nội ngành xuất
nhập khẩu máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng của Việt Nam. Từ đó, nghiên cứu sẽ gợi
mở một số chính sách tầm nhìn đối với thương mại nội ngành xuất nhập khẩu máy móc,
phương tiện vận tải phụ tùng trong thời gian trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp
4.0.
3. Tổng quan tình hình nghiên cứu
3.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Các nghiên cứu về thương mại nội ngành chủ yếu xoay quanh các quốc gia phát triển.
Với mục đích đánh giá bản chất cấu thương mại nội ngành, Thorpe Leitão
(2013) phân ch hoạt động thương mại giữa Mỹ các quốc gia trên thế giới trong hàng chế
biến trong giai đoạn 1995-2008. Các tác giả chỉ ra rằng thương mại nội ngành chiếm hơn một
nửa tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước Mỹ, trong đó thương mại nội ngành theo chiều
ngang chiếm ưu thế. Hơn nữa, Mỹ xu hướng thực hiện thương mại nội ngành theo chiều
ngang ngày càng tăng với các nước láng giềng như Mexico, Canada, và với cả nước bạn hàng
chính là Trung Quốc.
Tại Đông Á, các nghiên cứu về thương mại nội ngành chủ yếu tập trung vào các quốc
gia quy kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN 4 (Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan). Zhang cộng sự (2005) cho rằng thương mại nội ngành thể được
giải thích thông qua quy tiêu dùng, sự dồi dào các yếu tố sản xuất, quy kinh tế,
khoảng cách địa đặc điểm của thương mại quốc tế. Kết quả nghiên cứu tại Trung Quốc
chỉ ra c động tích cực của quy kinh tế, độ mở thương mại, sự khác biệt về quy tiêu
dùng mức độ dồi o của các yếu tố sản xuất tác động tiêu cực của khong cách địa
tới thương mại nội ngành. Kết quả tương tự cũng được chỉ ra trong nghiên cứu của Zhang
Li (2006) khi phân tích hiện tượng thương mại nội ngành trong ngành hàng chế biến giữa
Trung Quốc c quốc gia Đông Á khác. Với công trình nghiên cứu về thương mại trong
nhóm ng y móc, Ando (2006) kết luận rằng phần lớn thương mại nội ngành các nước
Đông Á là thương mại nội ngành theo chiều dọc, trong đó việc phân công sản xuất theo chiều
dọc giữa các quốc gia đóng góp đáng kể vào sự phát triển của hiện tượng thương mại này.
, 196
Như vậy, cho đến nay đã nhiều công trình nghiên cứu về thương mại nội ngành.
Các nghiên cứu y chủ yếu được tiến hành các nước quy mô kinh tế lớn như Mỹ,
Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN4. Trong khi đó, nghiên cứu về thương mại nội
ngành tại các quốc gia có trình độ công nghệ sản xuất thấp như Việt Nam chưa được chú ý.
3.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về thương mại nội ngành còn khá hạn chế. Từ Thúy
Anh (2008) phân tích tình hình thương mại ngành hàng dệt may của Việt Nam. Trên sở
tính toán chỉ số thương mại nội ngành theo Grubel-Lloyd (1975), nghiên cứu cho thấy thương
mại nội ngành trong hàng dệt may chiếm hơn 90% tổng giá trị thương mại của ngành có
xu hướng tăng mạnh tm 2001 đến m 2006. Do đó, thương mại trong ngành dệt may
Việt Nam chủ yếu thương mại nội ngành, trong đó phần lớn thương mại nội ngành theo
chiều dọc.
Khi xem t hiện tượng thương mại nội ngành của Việt Nam trong giai đoạn 1998-
2005, Từ Thúy Anh và Hoàng Xuân Trung (2008) khẳng định thương mại nội ngành của Việt
Nam chủ yếu theo chiều dọc. Nguyên nhân của tình trạng này do nền công nghiệp của
nước ta chủ yếu gia công, lắp ráp phụ thuộc nhiều vào các nguyên liệu đầu vào của
nước ngoài. Kết quả nghiên cứu cho thấy, sự phát triển về kinh tế, mức độ tdo hóa thương
mại và tương đồng về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam đối tác có ảnh ởng tích
cực tới thương mại nội ngành.Gần đây, Trần Nhuận Kiên Trần Thị Phương Thảo (2016)
đã sử dụng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên để phân tích hiện tượng thương mại nội ngành đối
với mặt ng chế tạo của Việt Nam trong giai đoạn 2000-2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy
thương mại nội ngành theo chiều dọc chiếm ưu thế trong cấu thương mại nội ngành của
Việt Nam với các nước đối tác.
Như vậy, tại Việt Nam, nghiên cứu về thương mại nội ngành còn rất hạn chế, các
nghiên cứu chủ yếu sử dụng số liệu cấp quốc gia chưa sử dụng số liệu cấp ngành như
cấu trúc ngành, mức độ đa dạng hóa sản phẩm theo ngành. vậy, việc phân tích sâu về
thương mại nội ngành là hết sức cần thiết.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Đo lường thương mại nội ngành
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp của Grubel Lloyd (1971) để đo lường
thương mại nội ngành của Việt Nam. Đối với ngành sản xuất i gồm k sản phẩm, giá trị
thương mại nội ngành được tính theo công thức:
k
kjkj
k
kjkjij MXMXIIT )(
trong đó:
IITij là giá trị thương mại nội ngành trong ngành i giữa Việt Nam và nước đối tác j;
Xkj là giá trị xuất khẩu sản phẩm k của Việt Nam sang nước đối tác j;
Mkj là giá trị nhập khẩu sản phẩm k của nước đối tác j từ Việt Nam.
Thương mại nội ngành bao gồm 2 loại thương mại nội ngành theo chiều ngang thương
mại nội ngành theo chiều dọc. Vì vậy,
IITij=HIITij + VIITij
hay VIITij=IITij HIITij
trong đó: HIITij là thương mại nội ngành theo chiều ngang giữa Việt Nam và nước đối
tác j và VIITij là thương mại nội ngành theo chiều dọc giữa Việt Nam và nước đối tác j.
Để phân thương mại nội ngành thành thương mại nội ngành theo chiều ngang
thương mại nội ngành theo chiều dọc, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân của
Kandogan (2003). Dựa trên kim ngạch nhập khẩu kim ngạch xuất khẩu tại các mức gộp
khác nhau (mức gộp cao hơn xác định các ngành, mức gộp thấp hơn xác định các sản phẩm
khác nhau trong mỗi ngành), Kandogan đưa ra phương pháp tính thương mại nội ngành theo
chiều ngang bằng kim ngạch thương mại tương xứng trong mỗi sản phẩm của một ngành
, 197
(mức gộp thấp n). Phần n lại của thương mại nội ngành thương mại nội ngành theo
chiều dọc. Trong nghiên cứu này, mức gộp cấp 2 chữ số theo Danh mục phân loại thương
mại quốc tế tiêu chuẩn (SITC) được sử dụng để tính thương mại nội ngành và mức gộp ở cấp
4 chữ stheo SITC được sử dụng để tính thương mại nội ngành theo chiều ngang. Như vậy,
thương mại nội ngành theo chiều dọc được tính bằng cách lấy chỉ số thương mại nội ngành ở
cấp 2 chữ số trừ đi chỉ số thương mại nội ngành ở cấp 4 chữ số.
Trong phần tả thực trạng thương mại nội ngành, nghiên cứu sử dụng chỉ số
thương mại nội ngành giữa Việt Nam với c nước đối tác. Chỉ số thương mại nội ngành
Bijđược tính như sau:
k
kjkj
k
kjkj
ij MX
MX
B)(
1
4.2. Mô hình nghiên cứu
Dựa trên thuyết các nghiên cứu thực nghiệm về thương mại nội ngành, nghiên
cu đưa ra nhng gi thuyết sau:
Githuyết 1: Quy kinh tế c động tích cực đến thương mại nội ngành (hoặc
thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều dọc).
Quy kinh tế được coi yếu tố thúc đẩy khác biệt hóa sản phẩm để tận dụng các
phân khúc thị trường của các quốc gia. Đồng thời, quy mô kinh tế lớn cũng phản ánh nhu cầu
đa dạng về sản phẩm được khác biệt hóa. Trong nghiên cứu này, quy mô kinh tế thường được
thể hiện bằng GDP bình quân của hai quốc gia đối tác.
Giả thuyết 2: Sự khác biệt về cầu có tác động tiêu cựcđến thương mại nội ngành (hoặc
thương mại nội ngành theo chiều ngang), tác động ch cực đến thương mại nội ngành theo
chiều dọc.
Linder (1961) lập luận rằng c quốc gia cấu trúc cầu giống nhau sẽ tiêu dùng các
sản phẩm có chất lượng tương tự nhau. Do đó, quy mô trao đổi các sản phẩm có sự khác biệt
hóa về đặc điểm hay thương mại nội ngành sẽ tăng lên khi cấu trúc cầu của các quốc gia
tương đồng với nhau. Ngược lại, quy trao đổi các sản phẩm chất lượng khác nhau hay
thương mại nội ngành theo chiều dọc sẽ tăng lên khi cấu trúc cầu của các quốc gia bạn hàng
có sự khác biệt. Trong nghiên cứu này, sự khác biệt về cầu được cụ thể hóa bởi sự chênh lệch
về GDP bình quân đầu người giữa hai quốc gia.
Giả thuyết 3: Sự khác biệt về quy mô kinh tế tác động tiêu cực đến thương mại nội
ngành (hoặc thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều
dọc).
Sự khác biệt về quy mô kinh tế thể hiện sự khác biệt về nguồn lực sản xuất tương đối.
Do đó, hai quốc gia càng khác biệt về quy mô kinh tế thì thương mại nội ngành (hoặc thương
mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều dọc) càng giảm. Sự
khác biệt về quy mô kinh tế được cụ thể hóa bởi chênh lệch về GDP giữa hai quốc gia.
Giả thuyết 4: Khoảng cách địa có tác động tiêu cực tới thương mại nội ngành (hoặc
thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều dọc).
Khoảng cách về địa giữa 2 quốc gia một yếu tố quan trong ảnh hưởng đến hoạt
động thương mại bởi lẽ khoảng cách giữa 2 quốc gia có liên quan mật thiết đến chi phí vận
tải chi phí thông tin.Hai quốc gia càng cách xa nhau thì chi phí vận tải sẽ càng tăng lên,
thời gian vận chuyển ng hóa sng kéo i (Linenman, 1966). Khoảng cách địa được
đo bằng khoảng cách giữa thủ đo Hà Nội của Việt Nam tới thủ đô của các nước đối tác.
Giả thuyết 5: Cơ shạ tầng tác động tích cực đến thương mại nội ngành (hoặc
thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều dọc).
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng sự cải thiện chất lượng cơ sở hạ tầng các
quốc gia góp phần tích cực vào việc đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế nói chung
, 198
(Bensassi cộng sự, 2015; Francois (2013); Portugal-Perez Wilson, 2012). vậy,
nghiên cứu này sẽ kiểm chứng ảnh hưởng của sở hạ tầng đến hoạt động thương mại nội
ngành. Biến cơ sở hạ tầng được đo bằng chỉ số shạ tầng giao thông theo khảo sát của
Diễn đàn Kinh tế thế giới.
Giả thuyết 6: Vốn đầu trực tiếp nước ngoài có tác động tích cực đến thương mại
nội ngành (hoặc thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo
chiều dọc).
Sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc gia thông qua hình thức đầu trực tiếp nước
ngoài (FDI) cho phép nước nhận đầu cải tiến công nghệ, tham gia sâu hơn o quá trình
phân công lao động quốc tế, từ đó đa dạng hóa chủng loại sản phẩm trao đổi. Dựa trên nghiên
cứu của Zhang Clark (2009), trong nghiên cứu y, biến FDI được đo lường bởi tổng
lượng vốn FDI của từng nước đối tác vào Việt Nam.
Giả thuyết 7: Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động tích cực đến thương mại nội ngành
(hoặc thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều dọc).
Hội nhập kinh tế quốc tế được hiểu là sự giảm bớt và xóa bỏ các rào cản đối với luồng
hàng hóa, dịch vụ yếu tố sản xuất di chuyển giữa các quốc gia thông qua thỏa thuận của
các quốc gia này theo hiệp định thương mại ưu đãi, hiệp định thương mại tdo, liên minh
thuế quan thị trường chung liên minh kinh tế (Baier cộng sự, 2014). vậy, hội nhập
kinh tế quốc tế được kỳ vọng sẽ đem lại tác động tích cực cho hoạt động trao đổi hai chiều
đối với hàng hóa khác biệt hóa về chất lượng (thương mại nội ngành theo chiều dọc). Nghiên
cứu sử dụng biến giả với giá trị bằng 1 nếu Việt Nam và nước đối tác j cùng là thành viên của
một hiệp định thương mại tự do giá trị bằng 0 nếu Việt Nam nước đối tác j không
cùnglà thành viên của một hiệp định thương mại tự do.
Giả thuyết 8: Mức đđa dạng hóa sản phẩm tác động tích cực đến thương mại nội
ngành (hoặc thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội ngành theo chiều
dọc).
Mức độ đa dạng hóa sản phẩm trong ngành thể hiện mức độ sẵn về chủng loại sản
phẩm trao đổi của quốc gia. Theo Zhang Clark (2009), mức độ đa dạng hóa sản phẩm
được đo lường bởi số lượng sản phẩm trong một ngành. Trong nghiên cứu y, số lượng sản
phẩm trong một ngành được cthể hóa bởi số sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang từng nước
đối c, được phân loại cấp độ 4 chữ số theo SITC, bản sửa đổi lần 3. Mức độ đa dạng hóa
sản phẩm yếu tmới cấp ngành được bài viết này bổ sung trong nghiên cứu về thương
mại nội ngành tại Việt Nam nhằm cung cấp luận giải đầy đủ hơn so với c nghiên cứu trước
đây.
Nhằm đánh giá tác động của các yếu tố đối với thương mại nội ngành, tác giả sử dụng
hình gravity về thương mại quốc tế. Đây hình do Tinbergen (1962) phát triển
được áp dụng rộng rãi trong các công trình nghiên cứu thực nghiệm.Dạng thức cơ bản của mô
hình gravity thể hiện rằng kim ngạch thương mại giữa hai quốc gia tương quan thuận chiều
với quy mô kinh tế và tương quan nghịch chiều với khoảng cách địa lý của hai quốc gia đó.
Nghiên cứu này sẽ sử dụng mô hình gravity mở rộng, theo đó biến phụ thuộc là giá trị
thương mại nội ngành (hoặc thương mại nội ngành theo chiều ngang, hoặc thương mại nội
ngành theo chiều dọc), đồng thời, tác giả dựa trên các thuyết về thương mại nội ngành để
bổ sung thêm các yếu tố c động tới thương mại nội ngành theo chiều dọc vào mô hình.
hình hồi quy cụ thể có dạng như sau:
lnIITijt = β0 + β1lnQuy ijt + β2lnCầuijt + β3lnKhác biệtijt + β4lnKhoảng cáchij + β5Hạ
tầngijt+ β6lnFDIij + β7FTAijt+ β8lnĐa dạng hóaijt + eijt (1)
lnHIITijt = β0 + β1lnQuy ijt + β2lnCầuijt + β3lnKhác biệtijt + β4lnKhoảng cáchij +
β5Hạ tầngijt + β6lnFDIij + β7FTAijt + β8lnĐa dạng hóaijt + eijt (2)
lnVIITijt = β0 + β1lnQuy ijt + β2lnCầuijt + β3lnKhác biệtijt + β4lnKhoảng cáchij +
β5Hạ tầngijt + β6lnFDIij + β7FTAijt + β8lnĐa dạng hóaijt + eijt (3)