
10 điều cơ bản cần biết khi
đầu tư chứng khoán
Theo các chuyên gia, có 10 điều cơ bản về
đầu tư mà bạn nên biết.
1. Lịch sử đã chứng minh, trong dài hạn, khả năng sinh lời của cổ
phiếu đã qua mặt tất cả các hình thức đầu tư khác
Kể từ năm 1926 đến năm 2010, chỉ số S&P 500 có khả năng sinh lời
trung bình đạt 9,8%/năm. Tài sản sinh lời tốt thứ hai sau cổ phiếu là trái
phiếu. Cùng kì, các trái phiếu của chính phủ Mỹ trung bình sinh lời
5,4%.
2. Trong ngắn hạn, các cổ phiếu có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe
tài chính của bạn

Ngày 12/12/1914, các cổ phiếu có một ngày sụt giảm kinh hoàng nhất
trên thị trường chứng khoán – giảm đến 24,4%. Gần đây nhất, những
cơn shock sụt giảm này còn kéo dài và thiệt hại hơn nữa: nếu bạn đầu tư
vào chỉ số Nasdaq trong thời điểm thị trường đạt đỉnh tháng 3 năm 2000,
trong vòng 3 năm sau, bạn sẽ mất đến ¾ số tiền đầu tư của mình. Riêng
trong năm 2009, cổ phiếu sụt giảm khoảng 37%.
3. Nhìn chung, những đầu tư rủi ro sẽ sinh lời nhiều hơn những đầu
tư an toàn (trừ trường hợp bị thất bại)
Khi đầu tư vào các tài sản có tính rủi ro cao hơn, các nhà đầu tư kì vọng
những tài sản đó sẽ sinh lời cao hơn. Đó là một lí do mà cổ phiếu, được
xem là tài sản có độ rủi ro cao hơn trái phiếu, có khuynh hướng sinh lời
cao hơn. Đó cũng là lí do tại sao trái phiếu dài hạn sẽ có lãi suất cao hơn
trái phiếu ngắn hạn. Thời gian các nhà đầu tư phải chờ đợi đến đợt thanh
khoản trái phiếu cuối cùng càng lâu thì nguy cơ rủi ro chen vào trong
khoảng thời gian chờ đợi đó, làm xói mòn giá trị tài sản đầu tư, càng lớn.
4. Một yếu tố quyết định lớn nhất đến giá cổ phiếu là lợi nhuận
Trong ngắn hạn, giá cổ phiếu biến động lên xuống chủ yếu do nhiều yếu
tố từ lãi suất đến tâm lí của các nhà đầu tư, thông tin trên thị trường.
Nhưng trong dài hạn, lợi nhuận của cổ phiếu là điều quan trọng nhất.

5. Một năm sụt giảm của trái phiếu gần như chỉ ngang với một ngày
tuột dốc của cổ phiếu
Trong thời gian gần đây, năm 1994 là thời điểm xấu nhất đối với thị
trường trái phiếu, tuy vậy, giá các trái phiếu trung hạn của chính phủ Mỹ
chỉ sụt giảm 1,8%, nhưng năm sau lại hồi phục mạnh mẽ 14,4%. Nếu so
sánh, chúng ta sẽ thấy vào thời điểm thị trường tuột dốc năm 1973-1974,
chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones sụt giảm đến 44%. Hơn 3 năm
sau, chỉ số này cũng không quay về mức cao cũ, và mất 10 năm sau mới
tăng đáng kể so với các mốc cao đã đạt được.
6. Lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng xấu đến trái phiếu
Khi lãi suất tăng, giá trái phiếu giảm. Vì sao vậy? Vì những người mua
trái phiếu sẽ không bỏ tiền ra mua trái phiếu hiện tại với lãi suất cố định
(chẳng hạn là 5%/năm) khi họ biết rằng các trái phiếu mới sẽ sinh lời
cao hơn khi mặt bằng lãi suất tăng.
Ngược lại, khi lãi suất giảm, giá trái phiếu tăng nhờ động thái chốt lời
của nhà đầu tư. Và động thái này thể hiện rõ nét nhất đối với các trái
phiếu dài hạn nhất, tức là các trái phiếu dài hạn sẽ sụt giảm mạnh hơn

