
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
73
BÀI BÁO KHOA HỌC
ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG NHẬN THỨC THƯƠNG HIỆU
ĐẾN Ý ĐỊNH TIÊU DÙNG: VAI TRÒ TRUNG GIAN CỦA CHẤT LƯỢNG
MỐI QUAN HỆ – TRƯỜNG HỢP TRONG NGÀNH ĐIỆN TỬ
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Hà Kiên Tân1, Tô Lê Minh Thanh2
Tóm tắt: Bài báo này cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa chất lượng nhận thức
thương hiệu và ý định tiêu dùng thông qua biến trung gian chất lượng mối quan hệ (niềm tin, sự hài
lòng và cam kết) bằng phương pháp PLS-SEM với 323 câu trả lời của người dùng các sản phẩm điện tử
tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy chất lượng mối quan hệ đóng vai trò là biến trung gian
toàn phần (full mediation) giữa chất lượng nhận thức thương hiệu và ý định tiêu dùng. Kết quả này
cũng cung cấp một số hàm ý quản trị, hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: Chất lượng nhận thức thương hiệu, chất lượng mối quan hệ, ý định tiêu dùng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ *
Hậu đại dịch Covid-19 dẫn đến chi phí sản xuất
và cung ứng các linh kiện, vật liệu ngày một tăng
cao, đặc biệt là các ngành công nghiệp ô tô và linh
kiện điện tử. Trong bối cảnh này các nhà bán lẻ
sản phẩm điện tử đang phải cạnh tranh gay gắt để
để củng cố và phát triển thị phần. Việc kết nối với
khách hàng là rất quan trọng thông qua việc phổ
biến đầy đủ các thông tin, kiến thức về thương
hiệu, sản phẩm (Nyffenegger và cộng sự, 2015),
nghĩa là chất lượng nhận thức thương hiệu có tác
động đối với ý định mua hàng của khách hàng
(Zeithaml, 1988).
Mặc dù chất lượng nhận thức thương hiệu thúc
đẩy ý định mua của khách hàng (Chiu, 2009). Tuy
vậy, rất nhiều nghiên cứu nhiều lĩnh vực tiêu dùng
khác nhau vẫn chưa thống nhất được yếu tố chất
lượng mối quan hệ đóng vai trò biến trung gian
chất lượng nhận thức thương hiệu và ý định mua
hàng (Wang và cộng sự, 2020; Khatoon và cộng
sự, 2020; Qalati và cộng sự, 2021). Chất lượng
nhận thức thương hiệu ngày càng cao, cho thấy
người tiêu dùng ngày càng hiểu được sự khác biệt
và lợi thế của sản phẩm với các sản phẩm tương tự
1 Bộ môn Kế toán và Quản trị kinh doanh, Phân hiệu
Trường ĐH Thủy lợi
2 Công ty cổ phần Viettronics Tân Bình, Thành phố Hồ
Chí Minh
khác. Do đó mục tiêu của nghiên cứu này sẽ kiểm
định mối quan hệ giữa chất lượng nhận thức
thương hiệu và ý định mua hàng thông qua vai trò
trung gian là chất lượng mối quan hệ thương hiệu
thông qua lời kêu gọi của (Garepasha và cộng sự,
2020) trong lĩnh vực hàng tiêu dùng điện từ. Phần
tiếp theo, bài báo sẽ trình bày về cơ sở lý thuyết,
mô hình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, kết
quả nghiên cứu. Phân cuối là kết luận, hàm ý quản
trị và hướng nghiên cứu tiếp theo.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH
NGHIÊN CỨU
2.1. Ý định tiêu dùng
Theo đề xuất của Dodds và cộng sự (1991) ý
định tiêu dùng là sự sẵn lòng mua của khách hàng.
Blackwell và cộng sự (2001) cho rằng ý định được
xem là những đánh giá chủ quan về cách chúng ta
sẽ hành xử trong tương lai, hay nói khác hơn đại
diện cho những gì chung ta sẽ mua. Nhiều nghiên
cứu cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến ý
định tiêu dùng: thái độ, chuẩn chủ quan, năng lực
kiểm soát hành vi theo lý thuyết dự định hành vi
có kế hoạch (Azjen, 1991), hoặc chất lượng dịch
vụ như lý thuyết chất lượng dịch vụ của
parasuraman và cộng sự (1988). Riêng các lý
thuyết về marketing quan hệ thì cho rằng ý định
mua tiêu dùng có thể chịu ảnh hưởng bởi cam kết,
niềm tin và sự hài lòng (các thành phần thuộc chất

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
74
lượng mối quan hệ thương hiệu) (Morgan & Hunt,
1994)), hoặc nhận thức về thương hiệu (Pappu &
Quester, 2016).
2.2. Chất lượng nhận thức thương hiệu
Nhân tố hình thành nên chất lượng nhận thức
thương hiệu chính là mức độ hiểu biết về các giá
trị của sản phẩm so với đối thủ cạnh tranh khác
(Pappu & Quester, 2016). Các khía này sẽ bao
gồm: mô tả nhận diện (brand identities), giá trị
(brand values), thuộc tính (brand attributes), cá
tính (brand personality)Thương hiệu ràng buộc
với người tiêu dùng qua mối quan hệ thương
hiệu-người tiêu dùng (brand-consumers
relationship). Chất lượng nhận thức thương hiệu
sẽ thay đổi tùy thuộc vào một loạt các nhân tố
như thời điểm người tiêu dùng mua hàng và nơi
mua hoặc khi sử dụng sản phẩm và dịch vụ đó
(Thelen và cộng sự, 2006). Kumar và cộng sự
(2009) cho rằng rằng chất lượng nhận thức là
thái độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm
nào đó và điều này ảnh hưởng đến việc mua sản
phẩm của khách hàng. Trong lĩnh vực tiếp thị,
việc xây dựng chất lượng nhận thức đã được
thừa nhận rộng rãi là động lực chính của ý định
mua hàng (Jacoby và Olson, 1985). Phua và
Kim (2018); Foroudi và cộng sự (2018) cho
rằng chất lượng nhận thức thương hiệu là nhân
tố ảnh hưởng đến ý định mua hàng của người
tiêu dùng nên việc tạo ấn tượng tốt và tạo điều
kiện thuận lợi cho người tiêu dùng trong việc sử
dụng các sản phẩm là điều mà các doanh nghiệp
cần phải quan tâm.
Giả thuyết 1: Chất lượng nhận thức thương
hiệu có ảnh hưởng tích cực đến ý định tiêu dùng
của khách hàng.
2.3. Chất lượng mối quan hệ thương hiệu
Chất lượng mối quan hệ được định nghĩa là
mức độ phù hợp của một mối quan hệ để đáp ứng
nhu cầu khách hàng và nó được liên kết với sự
tương tác giữa nhiều thành phần cấu thành
(Hennig-Thurau và Klee, 1997). Hewett và cộng
sự (2002) nhận thấy rằng nhận thức của người
mua về chất lượng mối quan hệ ảnh hưởng tích
cực đến ý định mua hàng lặp lại. Sau đây là các
thành phần của khái niệm chất lượng mối quan hệ
thương hiệu.
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
2.3.1. Niềm tin
Niềm tin, được định nghĩa là sự tin tưởng của
khách hàng về năng lực của nhà cung cấp nó được
xem như chỉ số độ tin cậy để đánh giá đối tác
(Johnson và Grayson, 2005). Niềm tin của người
tiêu dùng có thể ảnh hưởng tích cực đến ý định
mua hàng của người tiêu dùng, như được tìm thấy
trong nghiên cứu của Teng và Wang (2015) và
Suh và cộng sự (2015).
2.3.2. Sự hài lòng
Oliver (1980) định nghĩa sự hài lòng của khách
hàng là mức đáp ứng cao hơn mong đợi của người
tiêu dùng về sản phẩm hoặc dịch vụ. Sự hài lòng
là một dấu hiệu rõ ràng cho thấy được các ý định
của khách hàng mong muốn quay trở lại và ủng hộ
thương hiệu cũng như giới thiệu thương hiệu đến
với người khác (Harrison và Shaw 2004).
Anderson và Srinivasan (2003) dự đoán rằng “sự
hài lòng của khách hàng có thể là điều tiềm ẩn tốt
nhất như một đánh giá lâu dài về ý định trong việc
mua sản phẩm và/hoặc kinh nghiệm tiêu dùng”.
2.3.3. Cam kết
Cam kết đề cập đến mong muốn duy trì và phát
triển một mối quan hệ tích cực và có giá trị
(Morgan và Hunt, 1994; Pritchard và cộng sự,
1999). Cam kết thể hiện ý định hỗ trợ cho một
mối quan hệ lâu dài, bao gồm mối quan hệ tình
cảm với thương hiệu, sự trung thành và sự sẵn
sàng hi sinh lợi ích cho thương hiệu, ví dụ như
chấp nhận mua với giá cao hơn so với các sản
phẩm, dịch vụ tương đương của thương hiệu khác
trên thị trường (Giovanis, 2016). Các nghiên cứu
trước đây đã cho thấy niềm tin (Chang và Chen,
2008), sự hài lòng (Wen, 2012) và cam kết (Jani
và Han, 2011) có tác động tích cực đến ý định
mua hàng. Do đó, giả thuyết được đề xuất là:

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
75
Giả thuyết 2: Chất lượng mối quan hệ thương hiệu
đóng vai trò trung gian giữa chất lượng nhận thức
thương hiệu và ý định tiêu dùng của khách hàng.
3. CÔNG CỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Đối tượng khảo sát là người tiêu dùng mặt
hàng điện tử đang sinh sống và làm việc tại Thành
phố Hồ Chí Minh đang sử dụng các sản phẩm đồ
dùng điện tử, điện gia dụng. Thời gian khảo sát dự
kiến bắt đầu ngày 01/01/2023 đến ngày 01/4/2023
tại TPHCM. Sử dụng phương pháp lấy mẫu thuận
tiện với kích thước mẫu tối thiểu theo đề xuất 5:1
(Fabrigar và cộng sự, 1999). Mô hình gồm có 5
khái niệm (28 biến quan sát) x 5 = 140 quan sát tối
thiểu. Cách thức thu thập khảo sát thông qua
google form. Phần mềm Smart PLS 3.2.8 được sử
dụng để phân tích số liệu trong bài báo này. Việc
sử dụng kỹ thuật này so với CB-SEM có một số
ưu điểm như: không cần kích thước mẫu lớn,
không cần dữ liệu phân phối chuẩn, ngoài ra PLS-
SEM được sử dụng để kiểm định mô hình phức
tạp cụ thể là đo lường khái niệm bậc cao trong mô
hình nghiên cứu này (Hair và cộng sự, 2021)
Bảng câu hỏi, thang đo
Thang đo được phát triển trên thang đo lặp lại.
Thang đo chất lượng nhận thức thương hiệu được
đo lường bằng 5 biến quan sát điều chỉnh từ
Hoang, Hung Trong và cộng sự (2022). Chất
lượng mối quan hệ là một khái niệm bậc cao được
đo lường từ 3 khái niệm bậc 1 đó là niềm tin, sự
hài lòng và cam kết được điều chỉnh từ Chu và
Wang (2012) với 20 biến quan sát. Thang đo ý
định tiêu dùng với 3 biến quan sát được điều chỉnh
từ Nathalie và cộng sự (2020). Mỗi mục được
đánh giá theo thang đo Likert (từ 1 tương đương
hoàn toàn phản đối đến 5 hoàn toàn đồng ý).
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Đặc điểm mẫu nghiên cứu Tần suất Tỷ lệ
Nam 161 49,85% Giới tính
Nữ 162 50,15%
dưới 25 97 30,03%
từ 25 đến dưới 30 49 15,17%
từ 30 đến dưới 35 85 26,32%
từ 35 đến dưới 40 73 22,60%
Độ tuổi
trên 40 tuổi 19 5,88%
dưới 10 triệu 105 32,51%
từ 10 đến dưới 15 triệu 69 21,36%
từ 15 đến dưới 20 triệu 65 20,12%
từ 20 đến dưới 25 triệu 58 17,96%
Thu nhập
trên 25 triệu 26 8,05%
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát
4.2. Kiểm định mô hình đo lường
Bảng 2. Kết quả độ tin cậy và giá trị hội tụ của thang đo
Khái niệm Cronbach's Alpha rho_A Độ tin cậy tổng
hợp (CR)
Phương sai trích trung
bình (AVE)
COM 0,847 0,849 0,887 0,567
PER 0,842 0,846 0,888 0,613
PI 0,812 0,812 0,888 0,726
SAT 0,820 0,821 0,881 0,649
TRU_B 0,897 0,897 0,924 0,707
TRU_C 0,822 0,825 0,875 0,584
Nguồn:Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
76
Theo bảng trên tất cả các khái niệm
nghiên cứu đều có hệ số Cronbach alpha
>0,7, độ tin cậy tổng hợp CR>0,8 và phương
sai trích trung bình AVE>0,5 tất cả các giá
trị đều nằm trong hạn đề xuất của Hair và
cộng sự (2021).
Bảng 3. Chỉ số HTMT
COM PER PI SAT TRU_B TRU_C
COM
PER 0,568
PI 0,628 0,449
SAT 0,711 0,494 0,708
TRU_B 0,733 0,623 0,433 0,589
TRU_C 0,787 0,598 0,545 0,623 0,748
Nguồn:Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát
Giá trị phân biệt được đánh giá qua bảng
HTMT cho thấy đều nhỏ hơn 0,85 nên các khái
niệm nghiên cứu điều có tính phân biệt.
4.3. Kiểm định mô hình cấu trúc
Để mở rộng tổng thể và kiểm định giả thuyết,
chúng tôi đã sử dụng kỹ thuật bootstrapping với
cỡ mẫu lặp lại là 10,000 quan sát (Hair và cộng sự
2021), Kết quả ước lượng cho thấy P-value
=0,000 (<5%) đạt khoảng tin cậy 95%, Hệ số R2
đã chuẩn hóa xấp xỉ 0,316.
Bảng 4. Kết quả kiểm định giả thuyết mô hình nghiên cứu
Giả
thuyết Mối quan hệ β Bootstrapping Độ lệch
chuẩn Giá trị t Khoảng tin cậy
Bootstrapping P-value VIF Kết luận
Ảnh hưởng trực tiếp
H1 PER PI 0,069 0,071 0,053 1,302 [-0,028; 0,176] 0,193 1,518 Bác bỏ
PER RQ 0,584 0,588 0,040 14,760 [0,505; 0,662] 0,000 1,000 Chấp nhận
RQ PI 0,523 0,524 0,060 8,658 [0,400; 0,641] 0,000 1,518 Chấp nhận
Ảnh hưởng gián tiếp
H2 PERRQPI 0,306 0,307 0,042 7,358 [0,229; 0,392] 0,000 Chấp nhận
R2
PI 0,316
f2 f2
PERPI = 0,005; f2
PERRQ = 0,518; f2
RQPI = 0,256
Stone-Geisser’s Q² Q2
RQ = 0,147; Q2
PI = 0,226
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát
Bảng 5. Mức độ tác động giữa các khái niệm trong mô hình
Biến phụ thuộc Loại tác động RQ PER
PI Trực tiếp 0,523 0,374
Gián tiếp 0 0,306
Tổng hợp 0,523 0,680
RQ Trực tiếp 0 0,584
Gián tiếp 0 0
Tổng hợp 0 0,584
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát

KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 85 (9/2023)
77
Hình 2. Kết quả kiểm định mô hình
Từ kết quả kiểm định chúng ta thấy nhận thức
chất lượng thương hiệu tác động mạnh đến chất
lượng mối quan hệ (β=0,547, p<0,001) và chất
lượng mối quan hệ tác động mạnh đến ý định tiêu
dùng (β=0,581, p<0,001). Cuối cùng là chất lượng
nhận thức thương hiệu và ý định tiêu dùng mối quan
hệ này không có ý nghĩa (β=0,088, p>0,05) vì sự
xuất hiện của chất lượng mối quan hệ làm trung
gian, Khi mà không có sự xuất hiện của chất lượng
mối quan hệ làm trung gian thì hệ số tác động này là
β=0,405 với p<0,001 (Bảng 5) điều này là hoàn toàn
phù hợp khi một biến được xem là trung gian khi nó
tham gia giải thích mối quan hệ giữa biến độc lập và
biến phụ thuộc (Baron và Kenny 1986).
Để kiểm định đa nhóm biến nhân khẩu học
chúng tôi sử dụng PLS-MGA (Partial Least Squares
MultiGroup Analysis) là một phương pháp phân tích
đa nhóm trong mô hình hồi quy PLS (Partial Least
Squares Regression), được sử dụng để so sánh mô
hình PLS giữa các nhóm dữ liệu khác nhau với mức ý
nghĩa p-values <0,05, Trong nghiên cứu này chúng
tôi kiểm định 3 biến nhân khẩu học bao gồm: giới
tính, độ tuổi và thu nhập đến các mối quan hệ trong
mô hình, Theo đó, giới tính bao gồm 2 nhóm Nam và
Nữ, thu nhập 5 nhóm và độ tuổi 5 nhóm
Bảng 6. Kết quả kiểm định đa nhóm
các biến nhân khẩu học
Mối quan hệ Ước lượng đã
chuẩn hóa Giá trị P Mức ý
nghĩa
Độ tuổi
RQ PI -0,133 0,023 95%
Giới tính
RQ PI -0,136 0,003 95%
Thu nhập
RQ PI 0,113 0,029 95%
Nguồn: Kết quả xử lý dữ liệu khảo sát
Từ bảng trên cho thấy kết quả có sự khác biệt
giữa các nhóm thuộc nhân khẩu học đối với mối
quan hệ giữa chất lượng mối quan hệ (RQ) và ý
định tiêu dùng thương hiệu (PI) tất cả đều có ý
nghĩa thống kê, Cụ thể, đối với giới tính có ảnh
hưởng cùng chiều với mối quan hệ giữa RQ và PI
cho thấy Nam có ảnh hưởng tích cực hơn Nữ, Đối
với nhóm độ tuổi tương tự theo bảng trên mối
quan hệ giữa RQ và PI sẽ yếu hơn đối với nhóm
có độ tuổi cao hơn và mạnh hơn đối với nhóm
khách hàng có độ tuổi thấp hơn, Nhóm thu nhập
ngược lại, mối quan hệ giữa RQ và PI sẽ mạnh
hơn đối với nhóm có thu nhập cao hơn và yếu hơn
đối với nhóm khách hàng có thu nhập thấp hơn.
Mối quan hệ giữa chất lượng nhận thức thương
hiệu và chất lượng mối quan hệ với hệ số β=0,55
cho thấy mức độ tác động tốt điều này có nghĩa là
nếu chất lượng nhận thức thương hiệu tăng lên 1
đơn vị thì chất lượng mối quan hệ sẽ tăng thêm
0,55 đơn vị. Nghiên cứu này phù hợp với nghiên
cứu của Samudro và cộng sự (2018). Thêm nữa,
mối quan hệ giữa chất lượng nhận thức thương
hiệu và ý định tiêu dùng với β=0,58 đã được giải
thích bởi chất lượng mối quan hệ bằng chứng là
khi có sự xuất hiện của yếu tố chất lượng mối
quan hệ thì mối quan hệ giữa chất lượng nhận
thức thương hiệu và ý định tiêu dùng đã không
còn ý nghĩa (Barron và Kenny, 1986).
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu là cơ sở cho các nhà quản lý quan
tâm đến nhận thức thương hiệu có chất lượng sẽ hỗ
trợ mạnh mẽ doanh nghiệp tồn tại và đứng vững
trong các giai đoạn khó khăn của nền kinh tế hậu
Covid-19 đã tác động đáng kể lên việc tiêu dùng sản
phẩm của khách hàng. Nếu các doanh nghiệp muốn
tăng ý định tiêu dùng của khách hàng, họ cần tập
trung vào việc cải thiện chất lượng nhận thức thương
hiệu của mình và đồng thời tạo ra một mối quan hệ
tốt với khách hàng thông qua niềm tin, sự hài lòng
và cam kết, Khi mối quan hệ giữa thương hiệu và
khách hàng được xây dựng tốt, khách hàng sẽ cảm
thấy tin tưởng và hài lòng với thương hiệu đó, từ đó
tăng cường ý định tiêu dùng và đóng góp vào sự
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Như bất kỳ một nghiên cứu nào, nghiên cứu
này cũng có những mặt hạn chế nhất định, Thứ