
Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 231 -
MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO HỘ NHÃN HIỆU VIỆT NAM
TRÊN THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ
ThS. Dư Thị Chung
Khoa Marketing – Trường ĐH Tài Chính-Marketing
Tóm tắt
Hội nhập kinh tế quốc tế là một cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam
trong việc khai thác tiềm năng và lợi thế từ các thị trường mới, tuy nhiên cũng
đặt ra nhiều thách thức, khó khăn cho doanh nghiệp. Một trong những thách thức
của các doanh nghiệp Việt đó là bảo hộ nhãn hiệu Việt tại thị trường nước ngoài.
Đây là một vấn đề cấp thiết đòi hỏi sự quan tâm của các doanh nghiệp cũng như
về phía cơ quan nhà nước.
Từ khóa: bảo hộ nhãn hiệu, thương hiệu Việt Nam, hội nhập
1 Đặt vấn đề
Cùng với việc xây dựng và phát triển thương hiệu, việc bảo hộ thương hiệu
cũng là một vấn đề quan trọng của doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh hội nhập
hiện nay. Để có được một nhãn hiệu uy tín, có chỗ đứng trên thị trường, doanh
nghiệp phải mất một thời gian dài gầy dựng, tốn kém rất nhiều công sức tâm huyết
và chi phí, nhưng trên thực tế nhiều doanh nghiệp hiện nay tỏ ra thiếu quan tâm
tới bảo hộ thương hiệu. Những sự việc liên quan đến các thương hiệu Việt bị mất
quyền kinh doanh xuất khẩu tại thị trường nước ngoài hay đã bị các doanh nghiệp
nước ngoài sử dụng tên thương hiệu của mình và những vụ kiện nhằm “đòi lại”
thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam phần nào đã thể hiện rõ thực trạng này.
Ví dụ trường hợp thuốc lá Vinataba đã đăng ký thương hiệu tại Việt Nam và chủ
yếu phục vụ thị trường trong nước. Nhưng khi Vinataba có ý định xuất khẩu sản
phẩm ra nước ngoài thì nhận ra thương hiệu của mình đã bị công ty P.T.Putra
Stabat Industri (của Indonesia) đăng ký độc quyền tại nhiều quốc gia ASEAN và
châu Á. Điều này đồng nghĩa sản phẩm Vinataba không thể xuất khẩu sang các
quốc gia đó, vì sẽ vi phạm luật sở hữu trí tuệ, hàng thật sẽ biến thành hàng giả.
Trong 13 thị trường trên có các thị trường láng giềng quan trọng như Trung Quốc,
Lào và Campuchia. Một ví dụ khác là thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột.
Thương hiệu này được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 232 -
Buôn Ma Thuột cho sản phẩm cà phê nhân từ năm 2005 nhưng thương hiệu này
đã bị một doanh nghiệp Trung Quốc đăng ký bảo hộ. Cuối cùng, dù có giành phần
thắng trong các cuộc khởi kiện, các thương hiệu như Vinataba và nhiều thương
hiệu khác như cà phê Trung Nguyên, kẹo dừa Bến Tre, võng xếp Duy Lợi, nước
mắm Phú Quốc... đều mất rất nhiều thời gian, tiền bạc và công sức để tham gia
vào các vụ kiện với mục đích tìm lại tên thương hiệu của mình… Điểm chung
của những trường hợp trên là sản phẩm thật của doanh nghiệp sẽ trở thành hàng
giả, hàng nhái khi đi vào các thị trường đã được phía đối tác đăng ký bảo hộ trước.
Điều đó cũng đồng nghĩa cơ hội kinh doanh ở đó bị khép lại nếu không chịu mất
một chi phí lớn để “chuộc” lại tên mình. Vậy để các thương hiệu Viêt có thể mở
rộng phạm vi kinh doanh trên thị trường quốc tế, ngoài nỗ lực của các cơ quan
nhà nước, sự chủ động của doanh nghiệp trong việc nắm bắt các kiến thức và quy
trình bảo hộ nhãn hiệu là vấn đế quan trọng nhất.
2 Những vấn đề chung về bảo hộ nhãn hiệu
Nhãn hiệu (trade mark) theo định nghĩa của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO): nhãn hiệu là “các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng
loại hoặc tương tự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau”. Luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa nhãn hiệu như sau: là dấu hiệu dùng để phân
biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau (khoản 16 Điều 4 Luật
sở hữu trí tuệ). Do đó, theo quy định của pháp luật, chỉ có “nhãn hiệu” mới là đối
tượng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và bảo hộ thông qua việc
cấp văn bằng bảo hộ hay còn gọi là giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, còn “
thương hiệu” được tạo nên qua quá trình xây dựng, phát triển doanh nghiệp, giúp
khẳng định sức cạnh tranh và giá trị của mình trên thị trường.
Vì là tài sản của doanh nghiệp nên nhu cầu xác lập và bảo hộ quyền đối
với nhãn hiệu trở nên rất cần thiết. Các quy định đầu tiên về đăng ký và bảo hộ
nhãn hiệu ra đời tại Hoa Kỳ khoảng nửa cuối thế kỷ 18. Luật Nhãn hiệu đầu tiên
của Pháp có hiệu lực năm 1857 và sau đó là của Anh năm 1862. Cho đến nay với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đều
có luật hoặc các quy định pháp lý bảo hộ nhãn hiệu. Các hiệp ước quốc tế quy
định các nguyên tắc chung về đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu trên phạm vi toàn cầu
cũng được ký kết, điển hình là Công ước Paris về bảo hộ Sở hữu công nghiệp,
Hiệp định về các khía cạnh thương mại của sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của
WTO… Các liên minh đa quốc gia tạo thuận lợi cho việc đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu trong từng khu vực cụ thể hoặc toàn cầu cũng được thiết lập, điển hình là hệ

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 233 -
thống Nhãn hiệu Cộng đồng Châu Âu (CTM), các tổ chức đăng ký chung nhãn
hiệu khu vực Châu Phi như ARIPO và OAPI, văn phòng nhãn hiệu Benelux (gồm
Bỉ, Hà Lan, Luxemburg)… và điển hình là Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu
Madrid do WIPO quản trị…
Việc đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam đã được quy định trong
Luật Sở hữu trí tuệ, nhưng đối tượng thương hiệu lại không được luật hóa nên để
bảo hộ thương hiệu, việc tiến hành bảo hộ nhãn hiệu của doanh nghiệp là thật sự
cần thiết. Sở hữu trí tuệ là một thuật ngữ bao hàm cho nhiều quy phạm pháp luật,
đi kèm với nó là văn bản chứng thực (bản quyền), phát minh (sáng chế), quy trình
(bí quyết thương mại) và tên gọi hay nhận dạng (các chỉ dẫn địa lý hay nhãn hiệu).
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới là Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới
(WIPO) là một tổ chức quốc tế có mục đích giúp đỡ nhằm đảm bảo rằng quyền
của người phát minh và chủ sở hữu tài sản trí tuệ được bảo hộ trên toàn thế giới
và rằng các nhà phát minh và tác giả được công nhận và hưởng thành quả từ tài
năng của họ. WIPO có những thỏa thuận hợp tác với Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO) và quản lý 24 điều ước quốc tế, bao gồm hầu hết các điều ước liên
quan đến bảo hộ nhãn hiệu (Đặc biệt là Hiệp định Madrid và Lisbon). Hiện tại
WIPO có 191 thành viên, Việt Nam tham gia WIPO ngày 02 tháng 06 năm 1976
khi phê chuẩn Công ước thành lập WIPO.
3 Vai trò của bảo hộ nhãn hiệu tại thị trường nước ngoài
Việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu là cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ của nhãn hiệu. Đây cũng là cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện
các cuộc xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu, hay xử lý các tranh chấp về
thương hiệu do chính mình gầy dựng. Vai trò của bảo hộ nhãn hiệu tại thị trường
nước ngoài thể hiện như sau:
• Được pháp luật bảo vệ: Khi doanh nghiệp đăng ký thương hiệu, các nhãn hiệu
sẽ nhận được văn bằng bảo hộ. Văn bằng bảo hộ văn bản do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân nhằm xác lập quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ
dẫn địa lý; quyền đối với giống cây trồng. Từ đó, các đối thủ cạnh tranh không
thể sử dụng nhãn hiệu đã được đăng ký. Khi bị xâm phạm nhãn hiệu, doanh
nghiệp có quyền khởi kiện để được pháp luật bảo vệ. Việc không đăng ký bảo
hộ nhãn hiệu, đặc biệt với những nhãn hiệu có tiếng khiến cho những đối
tượng xấu có thể lợi dụng để trục lợi bằng cách đăng ký bảo hộ thương hiệu

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 234 -
hay tên miền ở nước sở tại trước, với một chi phí khá rẻ. Mục đích là sẽ bán
lại cho các doanh nghiệp sau này muốn gia nhập thị trường.
• Quảng bá thương hiệu: Doanh nghiệp thực hiện quảng bá thương hiệu có thể
yên tâm hơn và khách hàng có thể nhận ra ngay sản phẩm doanh nghiệp mà
không cần nhắc đến tên công ty cũng như không cần lo lắng thương hiệu của
mình liệu có trùng và bị kiện không.
• Tránh khả năng nhầm lẫn thương hiệu: Luật sở hữu trí tuệ đã ngăn chặn hành
động gây nhầm lẫn thương hiệu bằng cách từ chối đăng ký cho một khả năng
gây nhầm lẫn. Nếu công ty đối thủ vẫn cố tình kinh doanh thương hiệu (nhãn
hiệu) gần giống với nhãn hiệu của doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể khởi
kiện. Thực tế, một nhãn hiệu thành công chắc chắn sẽ có nhiều công ty khác
cố gắng bắt chước hay sản xuất các sản phẩm tương tự. Bảo hộ thương hiệu
giúp cho các doanh nghiệp có thể ngăn chặn những hành vi này hoặc được
pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp.
• Việc bảo hộ thương hiệu tại nước ngoài sẽ giúp cho doanh nghiệp tiếp cận với
các thị trường mới thông qua li-xăng hoặc nhượng quyền thương mại hay
thành lập các liên doanh, ký kết các hợp đồng hợp tác. Quyền sở hữu trí tuệ
như nhãn hiệu được bảo hộ giúp cho các doanh nghiệp có lợi thế khi thương
lượng với các đối tác tại quốc gia sở tại.
Các doanh nghiệp cần hiểu rằng, việc đăng ký bảo hộ ở các quốc gia tuân
theo hai nguyên tắc giới hạn quyền độc quyền lãnh thổ và nguyên tắc thời gian
nộp đăng ký trước thì được cấp trước, trên thực tế nhiều doanh nghiệp không nghĩ
đến việc sẽ có ngày mở rộng kinh doanh sang thị trường xuất khẩu nên chủ quan
không đăng ký bảo hộ. Cụ thể hai nguyên tắc như sau:
(1) Nguyên tắc giới hạn quyền độc quyền theo lãnh thổ. Vì đặc trưng của
quyền sở hữu công nghiệp (chẳng hạn như quyền sở hữu công nghiệp đối
với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý,…) là bị giới hạn theo nguyên tắc lãnh thổ,
nghĩa là đăng ký ở đâu thì chỉ được hưởng quyền độc quyền ở lãnh thổ đó
mà không mặc nhiên phát sinh hiệu lực ở nước khác. Điều 93 khoản 1
Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam có quy định rõ “Văn bằng bảo hộ có
hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Theo đó, một nhãn hiệu được đăng
ký và cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam thì chỉ được
bảo họ trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam và không đương nhiên được bảo
hộ ở nước ngoài. Để được bảo hộ nhãn hiệu của mình ở nước ngoài, chủ
sở hữu nhãn hiệu phải thực hiên thủ tục đăng ký tại cơ quan sở hữu trí tuệ
ở nước đó và được chấp nhận bảo hộ. Vì thế, nếu doanh nghiệp muốn mở

Kỷ yếu Hội thảo Xây dựng và Bảo vệ Thương hiệu
- 235 -
rộng thị trường sang các quốc gia khác, thì cần đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
không những ở Việt Nam mà cần làm thủ tục đăng ký bảo hộ trên thị
trường quốc tế.
(2) Nguyên tắc ai nộp đơn đăng ký trước thì được cấp trước. Hầu hết luật
nhãn hiệu các nước trên thế giới đều quy định chỉ có đơn đăng ký nhãn
hiệu nào được nộp sớm nhất trong số các đơn đăng ký nhãn hiệu đó thì
mới được cấp đăng ký bảo hộ.
4 Một số giải pháp bảo hộ thương hiệu Việt Nam trên thị
trường quốc tế
4.1 Về phía doanh nghiệp
- Với các doanh nghiệp, ngoài mục tiêu phát triển thị trường trong nước,
cần có định hướng rõ thị trường kinh doanh xuất khẩu thông qua nghiên cứu thị
trường quốc tế. Cần chủ động nghiên cứu và tiếp cận với các kiến thức, quy trình
thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại các quốc gia sở tại mà doanh nghiệp
dự định đầu tư và kinh doanh
- Tham gia các buổi tư vấn, các diễn đàn về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa,
bảo hộ sở hữu trí tuệ để hiểu rõ hơn về quy trình thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa. Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp không dự báo được chiến lược
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang các nước khác, thậm chí không tiếp cận được
với các cách thức định giá thương hiệu của mình. Vì thế, doanh nghiệp có thể
thuê các tổ chức chuyên nghiệp hỗ trợ về mặt định hướng chiến lược kinh doanh
hoặc tư vấn về các vấn đề pháp luật liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ và nhãn
hiệu hàng hóa. Pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam áp dụng nguyên
tắc “First to file” – dành ưu tiên cho người nộp đơn trước. Chi phí đăng ký khá
thấp do vậy các doanh nghiệp cần nộp đơn đăng ký thương hiệu để dành quyền
ưu tiên sớm trước khi tung sản phẩm ra thị trường. Trong vấn đề bảo hộ nhãn hiệu
hàng hóa của doanh nghiệp, sự chủ động của doanh nghiệp luôn là yếu tố then
chốt nhất.
- Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu tại một thị trường mới ở nước ngoài thì có thể để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu
ở nước ngoài theo hai cách là đăng ký trực tiếp tại nước sở tại hoặc theo theo thỏa
ước và nghị định thư Madrid mà Việt Nam đã là thành viên.