ẢNH HƯỞNG CỦA VỊ TRÍ ĐỊA LÝ TỚI HIỆU QUẢ HOT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHỎ VỪA
THUỘC LĨNH VỰC CHẾ BIẾN THỰC PHẨM, ĐỒ UỐNG TẠI VIỆT NAM
Phan Hồng Mai*1, Trần Thanh Hải**2
TÓM TT: Nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy Tobit để kiểm chứng ảnh hưởng của các nhân tố thuộc
về vị trí địa lý tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thuộc lĩnh vực chế biến thực
phẩm, đồ uống tại Việt Nam. Trong đó, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được đo bằng phương pháp
phân tích đường bao dữ liệu (DEA). Kết quả cho thấy điểm hiệu quả hoạt động của các DNNVV thuộc lĩnh
vực chế biến thực phẩm, đồ uống tại Việt Nam hiện tại không cao (trung bình đạt 65%), nhưng có thể thay
đổi tích cực nếu cơ sở hạ tầng vận tải đường bộ trong nước tiếp tục được hoàn thiện.
Từ khóa: DNNVV chế biến thực phẩm; đồ uống; hiệu quả hoạt động; vị trí địa lý.
1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
Theo Tổng cục Thống Việt Nam, tính đến ngày 1/1/2017, số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) đã tăng đáng kể so với năm 2012 nhưng quy doanh nghiệp (DN) lại nhỏ dần (Lệ Trần,
2018). Cùng với đó, CIEM cho rằng điều kiện môi trường hạn chế đã dẫn đến việc DNNVV sử dụng
nguồn lực không hiệu quả (Nguyễn Hương, 2016). Tại Việt Nam, ngành thực phẩm, đồ uống ngành
kinh tế quan trọng, đóng góp đến 15% giá trị GDP hàng năm (Minh Hải, 2018). Tính đến cuối năm
2016, cả nước có 8414 DNNVV kinh doanh trong lĩnh vực chế biến thực phẩm, đồ uống (chiếm 1,93%
tổng số DNNVV của cả nước). Với mức tăng trưởng kỳ vọng 10,9%/năm cho đến năm 2020 của ngành
thực phẩm, đồ uống (Hiếu Minh, 2018), số lượng DNNVV trong lĩnh vực này dự kiến tiếp tục gia tăng.
Tuy vậy, với quy mô và năng lực quản trị hạn chế, khả năng tiếp cận vốn khó khăn, DNNVV có “vị thế yếu”
ngay tại thị trường trong nước, cá biệt, một số thương hiệu lớn đã bị mua lại bởi DN nước ngoài. Điu này đặt
ra yêu cầu tiếp tục nghiên cứu thực nghiệm để đánh giá hiệu quả hoạt động của DNNVV đồng thời tìm
kiếm những nhân tố làm thay đổi hiệu quả hoạt động của nhóm DN này.
Trên thế giới đã nhiều tác giả nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của
DNNVV, tập trung chính vào khả năng tiếp cận vốn (Michaelas cộng sự, 1999), năng lực quản
(Ghobadian Gallear, 1996), marketing khởi sự doanh nghiệp (Cromie cộng sự, 1995), hợp tác
nghiên cứu và phát triển (Narula, 2004), đổi mới sáng tạo (Van de Vrande và cộng sự, 2009)… Chỉ có một
số ít nghiên cứu đề cập đến ảnh hưởng của vị trí địa lý (nơi đặt cơ sở sản xuất kinh doanh) tới hiệu quả hoạt
động của DNNVV (như Decarrolis và Deeds, 1999). Tại Việt Nam, đa phần các nghiên cứu triển khai theo
những hướng chính, phổ biến đã nêu trên (Nguyễn Trung Thành, 2017; Nguyễn Quốc Nghi Mai Văn
Nam, 2011; Phạm Thu Hương, 2017; Phan Hồng Mai và Nguyễn Thanh Lan, 2016), yếu tố vị trí địa lý gần
như không được xem xét tới. Trong khi đó, phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đang được xác định
* Đại học Kinh tế Quốc dân,số 207 Đường Giải Phóng, Hà Nội, Việt Nam.
** Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, Phường Tân Thịnh, TP. Thái Nguyên, Tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam Tác giả nhận phản
hồi: Phan Hồng Mai. E-mail address: hongmaiktqd@neu.edu.vn
943
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
một nhiệm vụ trọng tâm để Việt Nam chuyển đổi hình tăng trưởng kinh tế, vượt qua bẫy thu nhập
trung bình. Quá trình đó được kỳ vọng sẽ lan tỏa tác dụng tích cực, thúc đẩy cộng đồng DN phát triển. Vì
vậy, bài viết này được thực hiện nhằm làm sâu sắc hơn chủ đề nghiên cứu bằng việc trả lời câu hỏi: (1) Hiệu
quả hoạt động của DNNVV thuộc lĩnh vực chế biến thực phẩm, đồ uống tại Việt Nam hiện tại như thế nào?
và (2) Yếu tố vị trí địa lý ảnh hưởng ra sao tới hiệu quả hoạt động của nhóm DN này?
2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1 Hiệu quả hot đng của doanh nghiệp
Theo Farrell (1957), hiệu quả hoạt động là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực (các yếu tố sản xuất như vốn, nhân lực, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,…) để đạt được mục
tiêu xác định. Một trong các phương pháp được áp dụng rộng rãi để đo lường hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp là phân tích đường bao dữ liệu DEA của chính Farrell (1957). Kỹ thuật phân tích đường bao dữ
liệu được tính toán bằng cách sử dụng phương pháp tuyến tính mà không đòi hỏi một phương trình cụ thể
mô tả mối quan hệ giữa đầu ra và đầu vào trong việc xây dựng đường biên hiệu quả. Tuy vậy, giả thiết của
phương pháp này là không tồn tại các sai số ngẫu nhiên trong dữ liệu nghiên cứu và chỉ cho phép đánh giá
hiệu quả tương đối giữa các DN trong mẫu với nhau. Mức độ hiệu quả của các doanh nghiệp được xác định
bởi vị trí của nó so với đường giới hạn hiệu quả trong một không gian đa chiều của đầu vào/đầu ra. Điểm
hiệu quả của mỗi doanh nghiệp – mỗi đơn vị tạo quyết định DMU - nằm trong khoảng (0,1).
Năm 1984, Banker cộng sự (1984) giới thiệu một hình DEA mới tên hình BCC (Banker,
Charnes và Cooper – 1984) với giả thiết là hiệu quả thay đổi theo quy mô (VRS). Mô hình này phù hợp nghiên
cứu các doanh nghiệp kinh doanh trong môi trường chịu sự quản lý tương đối chặt chẽ của nhà nước, gặp những
điều kiện hạn chế về tài chính, thị trường cạnh tranh không hoàn hảo…Phương trình được viết dưới dạng:
Min( , ) = và θ x0 – Xλ = s-
Với điều kiện:
Rõ hơn, λ = (λ1, λ2,…, λn), là vector trọng số được đưa ra cho các DMUs.
tỷ lệ hiệu quả DMU j. S+và s- vector của các biến ẩn còn một vector đơn vị hàng
. DMU j được đánh giá là hiệu quả khi những điều kiện này được đáp ứng: tối ưu hóa
giá trị θ * j bằng 1 và tối đa hóa giá trị của các biến bổ sung bằng 0.Minh họa bằng đồ thị (hình 1.1), điểm
hiệu quả hoạt động của A (VRSTEA) được tính bằng tỷ số giữa q2/q1.
.
Hình 1. Mô hình VRSTE
944 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
Dựa vào đặc điểm của hệ thống sản xuất, DEA lại được phân ra thành hai loại mô hình tối thiểu hóa
đầu vào, với giả định đầu ra không đổi và mô hình tối đa hóa đầu ra, với giả định đầu vào không đổi. Bài
nghiên cứu này chỉ tập trung vào mô hình tối thiểu hóa đầu vào. Với 2 đầu vào là x1, x2 và một đầu ra là y,
các doanh nghiệp A, B, C D nằm trên đường giới hạn hiệu quả SS’ các doanh nghiệp đạt hiệu quả (xem
hình 1.2). Mức độ phi hiệu quả hoạt động được phản ánh bằng khoảng cách từ B đến P. Tỷ lệ TE= OB/OP
thể hiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp P, nghĩa là có thể giảm chi phí đầu vào của doanh nghiệp P
mà không làm ảnh hưởng đến đầu ra.
Hình 2. Mô hình DEA tối thiểu hóa đầu vào
Các mục đánh số thứ tự như trên file này.
2.2 Ảnh hưởng của vị trí địa lý tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Tuy không được đề cập nhiều song trên thế giới, một số tác giả đã phát hiện ra mối liên hệ có ý nghĩa
thống kê giữa vị trí địa lý tới kết quả kinh doanh của DN. Decarrolis và Deeds (1999) chứng minh vị trí đặt
cơ sở sản xuất, kinh doanh có ý nghĩa thống kê (với p < 0.05) và ảnh hưởng rất đáng kể đến hiệu quả hoạt
động của 98 DN ngành công nghệ sinh học ở Mỹ. Cụ thể, một DN được đặt tại nơi tập trung nhiều DN công
nghệ sinh học ở xung quanh thì có hiệu quả hoạt động cao hơn đáng kể so với các doanh nghiệp nằm ngoài
khu vực này. Từ đó, các tác giả đánh giá vị trí địa lý có ý nghĩa quan trọng như một lợi thế cạnh tranh đối
với hoạt động của DN. Trong một nghiên cứu khác về 32 DN sản xuất dược phẩm lớn nhất thế giới có trụ
sở tại Châu Âu, Nhật Bản và Bắc Mỹ từ 1984 đến 1994, Furman (2003) đã tìm ra những kết quả thú vị. Thứ
nhất, chế, cách thức điều hành hoạt động, tổ chức sản xuất của mỗi DN thuộc tập đoàn cần được điều
chỉnh cho phù hợp với đặc điểm vùng địa lý. Thứ hai, các DN nằm trong khu vực “khoa học cao” sẽ có sẵn
động lực/điều kiện để tăng cường năng lực khoa học; Ngược lại, các DN xa trung tâm công nghệ/khoa
học phải đối mặt với lựa chọn di chuyển phòng thí nghiệm hoặc đầu tư nhiều hơn cho địa phương để nâng
cao chất lượng các cơ sở khoa học tại chỗ, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của DN.
Tại Việt Nam, Trần Hữu Thân (2014) khẳng định “Yếu tố quan trọng nhất trong công tác lập quy
hoạch khu công nghiệp xem xét việc lựa chọn vị trí đặt khu công nghiệp sao cho khu công nghiệp vừa
có khả năng thu hút đầu tư cao: có vị trí địa lý thuận lợi về giao thông và kết cấu hạ tầng xã hội” cho thấy
tầm quan trọng của vị trí địa lý trong mọi khía cạnh kinh tế xã hội. Trong nghiên cứu của Vũ Hoàng Nam
và Đoàn Quang Hưng (2014), thông qua phương pháp hồi quy OLS trên mẫu nghiên cứu các DNNVV tại
Việt Nam giai đoạn 2007 – 2010, các tác giả đã khẳng định việc tiếp cận dễ dàng hơn với cơ sở hạ tầng đã
thúc đẩy các DNNVV tiến hành đổi mới nhiều hơn, từ đó thu được kết quả sản xuất tốt hơn. Như vậy, nhìn
chung, các nhà nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam đều thống nhất rằng địa điểm thuận lợi góp phần
thúc đẩy hiệu quả hoạt động của DN.
945
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
Bên cạnh đó, một số yếu tố cụ thể thuộc về vị trí địa lý như khả năng tiếp cận nước sạch, khoảng cách
từ DN đến nhà cung cấp chính, đến khách hàng quan trọng nhất hay đường giao thông lớn, cảng biển,
nhà ga gần trụ sở DN cũng đã được kiểm chứng nhưng kết quả chưa rõ ràng. Theo đó, đối với nhiều ngành
sản xuất – trong đó có thực phẩm, đồ uống – nước là yếu tố đầu vào thiết yếu, nên khả năng tiếp cận nước
sạch được cung cấp bởi nhà máy nước (nước máy dùng tại vòi) với giá thành hợp lý có ảnh hưởng tích cực
đến hiệu quả hoạt động của DN (Rigby, 1990). Tương tự, việc ở gần đường quốc lộ, nhà ga, cảng biển với
giao thông thuận tiện sẽ giúp DN rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu, góp phần tăng
hiệu quả hoạt động (Decarrolis Deeds, 1999; Furman, 2003; Hoàng Nam Đoàn Quang Hưng,
2014). Tuy vậy, theo quan điểm của Trương Đình Chiến (2012), kênh phân phối mới đóng vai trò mấu chốt
trong giao thương hàng hóa nên đối với sản phẩm tốt sẽ không có bất kỳ giới hạn nào về khoảng cách từ
DN đến khách hàng. Bổ sung cho nhận định này, Rigby (1990) cho rằng giá cả tác động đến lợi nhuận của
DN trong ngành chế biến thực phẩm, đồ uống nhiều hơn so với các yếu tố của quá trình sản xuất nên việc
lựa chọn nhà cung cấp đầu vào không chỉ phụ thuộc vào khoảng cách địa lý mà cần cân nhắc tới giá thành.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Dữ liệu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp, tổng hợp từ cuộc khảo sát DNNVV năm 2015 do Viện Quản lý
Kinh tế Trung ương (CIEM) chủ trì. Từ 835 DNNVV thuộc lĩnh vực chế biến thực phẩm, đồ uống tại 10
tỉnh, thành phố, sau khi loại bỏ một số DNNVV kinh doanh cả chế biến thực phẩm và các ngành khác (như
sản xuất nhôm kính, sản xuất mây tre đan, sản xuất hương) và một số DN không đầy đủ dữ liệu về số lượng
lao động, yếu tố sản xuất…, mẫu nghiên cứu còn lại 787 DNNVV (chiếm 94,25% tổng số DN được điều
tra ban đầu).
3.2 Dng thức của mô hình
Để kiểm chứng các yếu tố quyết định hiệu quả hoặc phi hiệu quả, các tác giả sử dụng mô hình hồi quy
Tobit với dạng phương trình:
= Xi +
Với: = 0 nếu Xi + ≤ 0
= Yi nếu Xi + >0
Trong đó: ~ N(0, ), là tham số của biến độc lập Xi.
Các dữ liệu được xử lý bởi phần mềm STATA 14.
3.3 Biến số của mô hình
3.3.1. Biến phụ thuộc – Hiệu quả hoạt động đo bằng mô hình DEA
Để phù hợp với điều kiện nghiên cứu, khi đánh giá hiệu quả hoạt động của DMU (mỗi DMU
được đại diện cho một DNNVV chế biến thực phẩm đồ uống) các tác giả giới hạn số lượng các
biến đầu vào (3 biến) và đầu ra (1 biến). Biến số cụ thể của mô hình được lựa chọn tương tự với
cách làm của Võ Hồng Đức và Lê Hoàng Long (2014), gồm: Biến đầu ra (Output) là lợi nhuận
của từng DN (ujm); các biến đầu vào (xjn) là công lao động hay lương (input 1), tài sản vật chất
(input 2), nguyên vật liệu (input 3). Các biến input này đã được chứng minh có quan hệ chặt chẽ
với lợi nhuận.
946 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
Bảng 1. Danh sách biến đầu vào và đầu ra của mô hình DEA
Tên biến Định nghĩa Phương pháp đo Đơn vị
Biến đầu vào
Lương Giá trị của lao động đóng góp vào quá
trình chế biến thực phẩm đồ uống
Tổng tiền lương trả cho công nhân
viên trong năm tài chính Nghìn VND
Tài sản vật chất
(TSVC)
Giá trị của tài sản vật chất đóng góp
vào quá tình chế biến thực phẩm đồ
uống
Giá trị bình quân của đất đai, nhà
xưởng, máy móc thiết bị tại thời điểm
đầu năm và cuối năm tài chính
Nghìn VND
Nguyên vật liệu
(NVL)
Giá trị nguyên vật liệu đóng góp vào
quá trình chế biến thực phẩm đồ uống
Tổng giá trị nguyên vật liệu sử dụng
trong năm tài chính Nghìn VND
Biến đầu ra
Lợi nhuận Giá trị gia tăng của sản phẩm Lợi nhuận trong năm tài chính Nghìn VND
Nguồn: Nghiên cứu của các tác giả
Tác giả sử dụng phần mềm DEAP version 2.1 của Coelli để hỗ trợ tính toán điểm hiệu quả VRSTE,
từ đó quy đổi kết quả VRSTE ra bảng điểm hiệu quả từ 0 đến 100. Điểm hiệu quả càng gần 100 chứng tỏ
DN hoạt động càng hiệu quả.
3.3.2. Biến độc lập của mô hình nghiên cứu
Xuất phát từ tổng quan nghiên cứu, các biến độc lập chính của mô hình Hồi quy Tobit như sau:
Bảng 2. Danh sách biến độc lập của mô hình Tobit
TT Mã hóa biến Tên biến Cách đo lường biến
1 Duong_bo Đường bộ DN có các đường chính/lớn dẫn đến DN. Biến giả bằng 1 nếu Có, bằng 0
nếu Không.
2 Nha_ga Nhà ga DN có thuận tiện đến ga đường sắt. Biến giả bằng 1 nếu Có, bằng 0 nếu Không.
3 Cang Cảng DN có thuận tiện đến cảng. Biến giả bằng 1 nếu Có, bằng 0 nếu Không.
4 Nuoc Nước DN có sử dụng hệ thống cung cấp nước sạch. Biến giả bằng 1 nếu Có,
bằng 0 nếu Không.
5 Kc_NCC Khoảng cách nhà
cung cấp Khoảng cách đến nhà cung cấp chính của DN (đơn vị tính: km).
6 Kc_KH Khoảng cách
khách hàng Khoảng cách đến khách hàng quan trọng nhất của DN (đơn vị tính: km).
Nguồn: Nghiên cứu của các tác giả
Ngoài ra, một số biến kiểm soát được bổ sung vào hình để tăng độ tin cậy của kết quả
ước lượng, bao gồm: quy (đo bằng số lao động bình quân), số năm hoạt động, cấu vốn
(tính bằng tỷ lệ Nợ trên tổng tài sản) và giới tính của người lãnh đạo doanh nghiệp. Các biến này
đều được chứng minh có ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp (theo Admassie
Matambalya, 2002; Nickell và Nicolitsas, 1999; Chu và Kaliraja, 2011).
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Hiệu quả hot đng của DNNVV thuc lĩnh vực chế biến thực phẩm, đồ uống
Bảng 3. Hiệu quả hoạt động và hiệu quả theo quy mô của các DN
Tên biến Trung bình Độ lệch
chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất Tỷ trọng DN có
TE = 100
Tỷ trọng DN có
TE > 90
Tỷ trọng DN
TE < 50
VRSTE 64,72046 15,57141 29 100 16,77 12,71 5,34
Nguồn: Nghiên cứu của các tác giả