
Nhóm thực hiện : Huỳnh Gia Xuyên, Vũ Thị Bích Vân
Trang 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP. HỒ CHÍ MINH
Bài dịch môn : QUẢN TRỊ VẬN HÀNH
Giảng viên hướng dẫn : Ths. Tạ Thị Bích Thủy
Nhóm thực hiện : Huỳnh Gia Xuyên
Vũ Thị Bích Vân
Lớp : MBA8
TP. H
Ồ CHÍ MINH

GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Trang 1
CHƯƠNG 14
SỰ PHỐI HỢP CHUỖI CUNG ỨNG
Hiệu quả chuỗi cung ứng phụ thuộc vào những hoạt động đưa đến bởi tất cả những
thành viên trong chuỗi cung ứng; một mối liên kết yếu có thể ảnh hưởng một cách
tiêu cực đến mỗi vị trí khác trong chuỗi. Trong khi mỗi người ủng hộ nguyên tắc
khách quan tối ưu hóa hiệu quả chuỗi cung ứng, mục tiêu chính của mỗi công ty là
sự tối ưu hóa hiệu quả của chính bản thân nó. Và chẳng may, như trình bày trong
chương này, hành vi tự phục vụ bởi mỗi thành viên của chuỗi cung ứng có thể ảnh
hưởng tới hiệu quả chuỗi cung ứng kém tối ưu hơn. Trong những tình huống đó,
những công ty trong chuỗi cung ứng hưởng lợi ích nhờ sự hưởng lợi ích từ sự phối
hợp vận hành tốt hơn.
Trong chương này chúng ta khảo sát cặn kẽ một vài thách thức của sự phối hợp
chuỗi cung ứng. Thách thức đầu tiên là hiệu ứng bullwhip (hiệu ứng cái roi da) :
khuynh hướng cho tính biến thiên của cầu tăng lên, thường đáng kể, khi bạn thay
đổi chuỗi cung ứng (từ nhà bán lẻ, đến nhà phân phối, đến nhà máy, đến những
nhà cung ứng nguyên liệu thô, vân vân). Đã được xác định rằng tính biến thiên
trong bất kỳ hình thức nào thì gây rắc rối phức tạp cho hiệu quả vận hành, nó thì
rõ ràng hiệu ứng bullwhip thì không là một hiện tượng đáng mong muốn. Chúng ta
nhận biết những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip và đề xuất một vài kỹ thuật
để khắc phục nó.
Một thách thức thứ hai của sự phối hợp chuỗi cung ứng đến từ những mâu thuẫn
khích lệ trong số chuỗi cung ứng của những công ty độc lập : một hoạt động tối đa
hóa lợi nhuận của một công ty không thể là tối đa hóa lợi nhuận công ty khác. Ví
dụ, một công ty khuyến khích tích trữ hàng hóa tồn kho nhiều hơn, hoặc lắp đặt hệ

GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Trang 2
thống máy móc công suất lớn hơn, hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng nhanh hơn,
không thể giống sự khuyến khích của một công ty khác, bởi vì tạo ra một vài mâu
thuẫn giữa chúng. Chúng ta sử dụng một ví dụ được cách điệu hóa của chuỗi cung
ứng trong việc bán kính mát để minh họa sự hiện diện và những kết quả của những
mâu thuẫn khích lệ. Ngoài ra, chúng ta đề nghị một vài biện pháp đối với vấn đề
này.
14.1 Hiệu ứng bullwhip : Những nguyên nhân và những kết quả
Hình vẽ 14.1 cho thấy phần trăm thay đổi trong hoạt động tại ba mức độ dọc theo
một chuỗi cung ứng : công nghiệp máy móc công cụ, công nghiệp tự động (mà là
một khách hàng quan trọng cho công nghiệp máy móc công cụ), và toàn bộ nền
kinh tế. Hình vẽ minh họa rằng sự sản xuất máy móc tự động thì không ổn định
hơn toàn bộ nền kinh tế (mà có lẽ là phù hợp nhiều với nhu cầu máy móc tự động)
và những đơn đặt hàng máy móc công cụ thậm chí không ổn định nhiều hơn sự
sản xuất máy móc tự động.
Hình vẽ 14.2 cho thấy một mô hình tương tự, đòi hỏi những dữ liệu này là phần
trăm thay đổi trong nhu cầu (trong đồng đôla) tại ba mức độ trong chuỗi cung ứng
chất bán dẫn : nhu cầu máy tính cá nhân thì ít thay đổi nhất, nhu cầu những chất
bán dẫn có mức thay đổi trung gian, và nhu cầu thiết bị chế tạo chất bán dẫn thay
đổi nhiều nhất.

GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Trang 3
Mô hình gia tăng sự không ổn định này khi bạn di chuyển một chuỗi cung ứng (từ
nhà bán lẻ, đến nhà phân phối, đến sản lượng, vân vân) thì được gọi là hiệu ứng
bullwhip vì nó giống như gia tăng biên độ dao động khi quan sát một cây roi da bị
nứt. Thuật ngữ được đặt ra bởi Procter & Gamble để mô tả họ quan sát được
những gì trong chuỗi cung ứng tả lót của họ : Họ biết rằng nhu cầu cuối cùng cho
những tả lót thì khá ổn định (tiêu thụ bởi những đứa bé sơ sinh), nhưng nhu cầu
đòi hỏi cho những nhà máy tả lót của họ thì rất dễ thay đổi. Không hiểu vì sao tính
biến thiên thì đang làm lan truyền chuỗi cung ứng của họ.
Hiệu ứng bullwhip không nâng cao hiệu quả của một chuỗi cung ứng : làm tăng sự
không ổn định tại bất kỳ điểm nào trong chuỗi cung ứng có thể dẫn đến sản phẩm
thiếu hụt, dôi thêm hàng hóa tồn kho (mà dẫn đến làm giảm những chi phí), mức
sử dụng thấp của công suất, và/hoặc chất lượng kém. Nó tác động tới những giai
-80%
-60%
-40%
-20%
0%
20%
40%
60%
80%
Hình v
ẽ 14.1 :
Phần trăm thay
đổi trong hoạt
động từ năm 1961
đến 1991 tại ba
mức độ của chuỗi
cung ứng của máy
móc công cụ :
GDP (đường đậm
nét), công nghiệp
sản xuất chỉ mục
tự động (những
điểm kim cương),
và những đơn đặt
hàng mới trong
công nghiệp máy
móc công cụ
(những điểm
tròn)
Nguồn :
Anderson, Fine,
và Parker (1996).

GVHD : ThS. Tạ Thị Bích Thủy
Trang 4
đoạn ngược dòng trong chuỗi cung ứng, mà phải trực tiếp đối mặt với tác động của
nhu cầu thay đổi, nhưng nó cũng không trực tiếp tác động tới những giai đoạn
xuôi dòng trong chuỗi cung ứng, mà phải đối phó với những sự bổ sung kém tin
cậy hơn từ những giai đoạn ngược dòng. Ngoài ra, khi chúng ta xem trong hình vẽ
14.1 và 14.2, hiệu ứng bullwhip thì phổ biến. Vì thế, nó thì rất quan trọng rằng
những nguyên nhân của nó được nhận ra để khắc phục, hoặc ít nhất có những kế
hoạch làm giảm nhẹ, có thể được phát triển.
Hình vẽ 14.1 và 14.2 cung cấp dấu hiệu thực tế của hiệu ứng bullwhip, nhưng để
hiểu được những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip thì cách tốt nhất là mang nó
vào phòng thí nghiệm, nghiên cứu nó trong một môi trường ít biến động. Môi
trường ít biến động của chúng ta là một chuỗi cung ứng đơn giản với hai mức độ.
Mức độ cao nhất chỉ có một nhà cung ứng và mức độ kế tiếp có 20 nhà bán lẻ, mỗi
người với một cửa hàng. Chúng ta hãy tập trung vào một sản phẩm đơn lẻ, một sản
phẩm mà nhu cầu hàng ngày có một phân phối Poisson với trung bình cộng 1.0
đơn vị tại mỗi nhà bán lẻ. Vì thế, tổng cầu của người tiêu dùng đi theo một phân
phối Poisson với trung bình cộng 20.0 đơn vị. (Nhắc lại rằng tổng của những phân
phối Poisson cũng là một phân phối Poisson). Hình vẽ 14.3 cho thấy chuỗi cung
ứng này.
Trước khi chúng ta nhận ra những nguyên nhân của hiệu ứng bullwhip, chúng ta
phải đồng ý rằng chúng ta sẽ đo lường và nhận dạng nó bằng cách nào. Chúng ta
sử dụng định nghĩa dưới đây :
Hiệu ứng bullwhip xảy ra trong một chuỗi cung ứng nếu tính biến thiên của nhu
cầu tại một mức độ của chuỗi cung ứng lớn hơn tính biến thiên của nhu cầu tại
mức độ kế tiếp thấp hơn trong chuỗi cung ứng, ở đó tính biến thiên được đo lường
bằng hệ số biến thiên.