
- 23 -
Chương 2
GIAO TIẾP VỚI TRẺ CHẬM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ
2.1. Giao tiếp của trẻ CPTTT
2.1.1. Đặc điểm giao tiếp và ngôn ngữ của trẻ CPTTT.
Việc nghiên cứu tình trạng ngôn ngữ và giao tiếp của trẻ em CPTTT đã được nhiều
nhà khoa học đề cập tới như L.S Vugotsky, A.G Spikin, D.B Elkonin, S.L
Rubinstein…đều đã có một nhận xét chung: trẻ em CPTTT không chỉ kém về mặt nhận
thức mà thường kéo theo sự khiếm khuyết về khả năng ngôn ngữ, tác giả cho rằng sự
khiếm khuyết này đều do:
1, Sự suy yếu các chức năng bên trong vỏ não tới việc hình thành rất chậm mối
liên hệ phân biệt có điều kiện trong tất cả các cơ quan phân tích tiếng nói, kèm theo sự rối
loạn của hệ thần kinh gây khó khăn cho việc xác lập những định hình năng động trên vỏ
não.
Tình trạng kém phát triển ngôn ngữ còn do nguyên nhân những mối liên hệ có điều
kiện không bền vững được hình thành chậm ở vùng cơ quan phân tích thính giác. Do
những nguyên nhân này mà đứa trẻ không hiểu được những từ mới và cụm từ mới. Chính
vì lẽ đó trẻ chỉ lựa chọn được số ít các từ vựng dẫn đến tình trạng nghèo vốn từ - một số từ
mà trẻ tích lũy được cũng dần bị lãng quên nếu không được củng cố một cách liên tục. Trẻ
em CPTTT phân biệt rất kém các âm gần giống nhau đặc biệt là các phụ âm. Mặt khác, trẻ
còn mắc nhiều lỗi phát âm sai và các tật ngôn ngữ như nói khó, nói ngọng, nói lắp…
2, Qua nghiên cứu người ta còn cho thấy sự phát triển rất kém của thính giác âm vị
dẫn đến sự thay thế âm này bằng âm khác trong phát âm của đứa trẻ. Các tác giả đều cho
rằng quá trình ngôn ngữ bao giờ cũng phụ thuộc vào hai loại điều chỉnh:
+ Điều chỉnh nhờ vào sự phát triển thính giác (sự nghe)
+ Điều chỉnh cho hoạt động của các cơ quan vận động ngôn ngữ.
Các trẻ CPTTT do bị tổn thất trung tâm ( TW thần kinh) kéo theo sự ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tri giác nghe, hiện tượng co giật hay bị liệt cứng làm tổn thất đến cơ
quan vận động ngôn ngữ sẽ nảy sinh các khuyết tật về ngôn ngữ và giao tiếp ( như nói khó,
không nói được, nói ngọng, nói lắp…).
Đặc điểm cơ bản của trẻ em này là chậm biết nói, nhiều trẻ 5 hoặc 6 tuổi mới có
được âm đầu, nhiều trẻ do tình trạng bệnh lý nên kéo theo khiếm khuyết về mặt ngôn ngữ
thường mắc các khuyết tật nói khó, nói ngọng, nói lắp hoặc phát âm, nhưng rào cản lớn
nhất của trẻ em này là:
Sự mặc cảm tật nguyền, ảnh hưởng của bệnh lý về thần kinh nên trẻ hay sợ sệt,
nhút nhát không giám tiếp xúc với những người lạ, không muốn thâm gia vào các hoạt
động tập thể…
Đa số các trẻ vốn từ rất nghèo, ngữ pháp thấp kém, trẻ nói nhưng ta không hiểu
chúng nói gì và ngược lại ta nói trẻ cũng không hiểu được những điều ta vừa nói với trẻ,
như vậy cả hai đều không hòa hợp không hòa hợp trong giao tiếp. Ngay ở trong gia đình
nhiều trẻ cũng bị lãng quên, không hỏi han, dạy dỗ khiến cho trẻ rơi vào tình trạng ngày
càng trầm trọng hơn.
Đặc điểm về nhận thức “ trẻ chậm hiểu – nhanh quên “ nên rất khó khăn trong việc
tiếp thu các từ mới và hiểu nghĩa từ - Những từ được tiếp thu trong kinh nghiệm sống của
trẻ cũng sẽ bị lãng quên rất nhanh.
Trẻ thường không biết biểu đạt nhu cầu của bản thân bằng lời nói, đôi khi trẻ phải
dùng cử chỉ điệu bộ. Nếu không được đáp ứng kịp thời các nhu cầu đó của trẻ, trẻ thường
gào thét, có thể tức giận, nếu kích thích gia tăng thường đập phá…
Trẻ không biết trả lời các câu hỏi mà ta hỏi chúng dù đó là những câu hỏi đơn giản
nhất.
Trẻ thường không biết hợp tác với bạn bè, tự chơi một mình, đôi khi lẩm bẩm nói
một mình nhưng vẫn không phát ra được những ngôn ngữ rõ ràng.

- 24 -
Đặc điểm phổ biến ở trẻ em này là rất khó tiếp xúc và làm quen nếu ta chưa chiếm
lĩnh được tình cảm của trẻ.
Những đặc điểm nêu trên đã dẫn trẻ đến hạn chế khả năng giao tiếp, vì vậy ngôn
ngữ của các trẻ này cũng trong tình trạng chậm phát triển.
Để giúp trẻ khắc phục được hạn chế nói trên, ta cần có nhiều biện pháp dạy trẻ ( sẽ
đề cập tới ở mục III). Điều cốt lõi vẫn phải cung cấp cho trẻ vốn từ bằng nhiều hình thức
khác nhau, vốn từ là nền tảng để hình thành ngôn ngữ ở trẻ. Sở dĩ trẻ ngại giao tiếp và ít
dùng lời nói chính là do từ ngữ quá nghèo, trẻ muốn diễn đạt mà không thể nói ra được.
Khi trẻ đã có được những vốn từ mới có thể hình thành khả năng ngữ pháp cho trẻ, muốn
vậy cần phải tăng cường những hoạt động làm thay đổi các trạng thái tâm lý ở trẻ, trẻ mới
mạnh dạn tiếp xúc, sẽ tạo điều kiện để trẻ giao tiếp.
Để dạy được trẻ phải hết sức kiên trì, giàu lòng nhân ái và biết cách trinh phục trẻ
thì mới mang lại kết quả mong muốn. Tóm lại, cần nhớ trẻ có bốn đặc điểm cơ bản dẫn đến
khó khăn trong giao tiếp đó là:
+ Vốn từ trẻ quá nghèo
+ Trẻ thường mắc các khuyết tật ngôn ngữ
+Trẻ không có trình độ ngữ pháp ( chưa biết đặt câu chủ vị )
+ Ngại giao tiếp, ứng xử.
Nếu giải quyết tốt được bốn đặc điểm nói trên, ta đã hình thành và phát triển được
khả năng ngôn ngữ giao tiếp cho trẻ.
2.1.2. Các hình thức và mức độ giao tiếp của trẻ chậm phát triển trí tuệ
2.1.2.1. Hình thức giao tiếp
Có hai hình thức giao tiếp đó là có âm và vô âm. Giao tiếp có âm là giao tiếp trong đó
thông điệp được chuyển đi nhờ vào giọng nói và âm thanh. Giao tiếp vô âm là giao tiếp
trong đó thông điệp được chuyển đi nhờ các hình thức biểu hiện khác không có âm thanh
nhưng có thể nhìn thấy, và cảm thấy.
2.1.2.2. Mức độ giao tiếp
2.1.2.2.1. Mức độ giao tiếp phi biểu tượng
Có thể dễ dàng nhận thấy những biểu hiện ở cấp độ phi biểu tượng. Chúng ta không
phải học những biểu hiện này. Ngay cả khi ở một nước khác, ta vẫn có thể hiểu được
chúng. Ví dụ như: đỏ mặt khi xấu hổ; sắc mặt tái đi khi mệt mỏi v.v.
2.1.2.2.2. Mức độ giao tiếp biểu tượng
Biểu tượng là một “mã hiệu” với ý nghĩa nào đó mà chúng ta sử dụng để thể hiện
bản thân. Dựa trên sự thống nhất chung, mỗi “mã hiệu” nhất định sẽ đại diện cho một ý
nghĩa cụ thể. Nói một cách khác, biểu tượng là cái thay thế cho đồ vật hay đối tượng mà ta
muốn đề cập. Ví dụ từ “bàn” là biểu tượng cho cái bàn.
Ngôn ngữ nói (có âm) là dạng biểu hiện thông dụng nhất của giao tiếp ở mức độ
biểu tượng. Tuy nhiên, ngôn ngữ vô âm như ngôn ngữ viết và ngôn ngữ ký hiệu cũng sử
dụng các biểu tượng.
Có rất nhiều cách sử dụng ngôn ngữ ký hiệu. Trước hết đó là các ký hiệu biểu
tượng tự nhiên hay cụ thể. Những ký hiệu này nhiều khi mang tính quốc tế, mọi người đều
hiểu, ví dụ như vẫy tay chào tạm biệt. Rất nhiều người trong xã hội đã tạo ra các ký hiệu
một cách tự phát. Thứ hai là các hệ thống ký hiệu đã được thống nhất, ví dụ như đánh vần
bằng ngón tay.
Trong ngôn ngữ viết, chữ viết được dựa theo ngôn ngữ nói chính là sự tái tạo bằng
văn bản ngôn ngữ nói, ngoài ra còn có sơ đồ tranh biểu tượng, đây chính là việc sử dụng hệ
thống các bức vẽ đơn giản mà mọi người đã nhất trí để giao tiếp với nhau.
2.1.2.2.3. Mức độ giao tiếp tiền biểu tượng
Giữa mức độ giao tiếp biểu tượng và mức độ giao tiếp phi biểu tượng có một mức
chuyển tiếp. Đó chính là những biểu hiện ở mức tiền biểu tượng. Những biểu hiện này ngụ
ý sự việc, người hay đồ vật, đó là những vật liệu cụ thể như đồ vật thu nhỏ, ảnh, hình vẽ,
tranh dùng để thay thế cho đồ vật hoặc đối tượng thật. Ví dụ trẻ đưa ra một cái cốc để thể

- 25 -
hiện rằng em muốn uống nước, đưa ra ảnh một chiếc xe buýt để thể hiện rằng em sắp về
nhà.
2.1.3. Mức độ chậm phát triển trí tuệ của trẻ và vấn đề giao tiếp của chúng
2.1.3.1. Trẻ chậm phát triển trí tuệ rất nặng
Trẻ CPTTT rất nặng hầu như không nói. Đối với những trẻ có khả năng diễn đạt
bằng ngôn ngữ thì sự diễn đạt này thường chỉ giới hạn ở mức độ sử dụng một số từ đơn lẻ.
Trẻ thường chỉ vào các đồ vật trẻ mong muốn và cầm tay bạn ngụ ý làm rõ điều mình
muốn. Trẻ cũng thể hiện mong muốn hoặc cảm xúc của mình qua tư thế, khóc, cười, hoặc
chọn một vị trí trong phòng hay một cách di chuyển nào đó v.v. Tiến xa hơn, trẻ có thể biết
vận dụng các âm thanh trong môi trường xung quanh hoặc bắt chước các cử chỉ. Có một số
nguyên tắc chung các giáo viên thường vận dụng khi giao tiếp với trẻ loại này nhằm giảm
thiểu những điểm hạn chế của trẻ. Các nguyên tắc cụ thể như nhấn mạnh ngữ điệu; dùng
các công cụ giao tiếp bổ trợ như cử chỉ, ảnh, đồ vật và các điệu bộ, tư thế cơ thể; đáp lại
mọi hình thức giao tiếp; khen ngợi mọi hình thức giao tiếp; thông báo cho mọi người tất cả
nhưng thông tin có được về cách trẻ giao tiếp; không nên kỳ vọng sẽ nhận được nhiều phản
ứng từ trẻ; nhìn nhận những bước tiến nhỏ của trẻ như là sự tiến bộ lớn.
2.1.3.2. Trẻ chậm phát triển trí tuệ nặng
Trẻ CPTTT nặng học cách tạo các liên kết nhờ vào các kinh nghiệm lặp lại. Trẻ học
được rằng các âm thanh, từ ngữ, cử chỉ nhất định thuộc về các đồ vật và tình huống cụ thể.
Trẻ bắt đầu hiểu những hoạt động đơn giản trong các tình huống sống hàng ngày. Có vẻ trẻ
gần như hiểu được mọi thứ có liên quan tới ngôn ngữ nhưng vẫn bị bó buộc trong phạm vi
các tình huống rất cụ thể. Ngoài việc nói các từ và câu ngắn, trẻ sử dụng các cử chỉ một
cách tự nhiên như chỉ tay, cầm tay người khác để dẫn đi xem vật gì. Trẻ cũng đồng thời sử
dụng nhiều hình thức giao tiếp cùng một lúc; khi nói, trẻ vẫn có các cử chỉ, tạo giao tiếp
bằng mắt và sử dụng điệu bộ cụ thể v.v.
2.1.3.3. Trẻ chậm phát triển trí tuệ trung bình
Đối với trẻ CPTTT trung bình, ngôn ngữ trong các tình huống hàng ngày chiếm vị
trí trung tâm. Trẻ sử dụng các câu dài và phức tạp hơn; có khả năng diễn đạt cảm xúc bằng
lời; có thể nói và nghĩ về các sự vật, sự việc trong quá khứ và hiện tại; có thể lập kế hoạch;
có khả năng tương đối trong giao tiếp với người khác.
2.1.3.4. Trẻ chậm phát triển trí tuệ nhẹ
Trẻ CPTTT có thể sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp một cách sáng tạo không chỉ dựa
trên thói quen và điều kiện mà còn nhờ vào ngôn ngữ tiềm ẩn bên trong. Trẻ cần được giải
thích thêm nhưng giải thích không nên quá dài và các câu phải rõ ràng, sử dụng các từ
quen thuộc giải thích những từ và câu mới để tăng khả năng hiểu của trẻ. Để hiểu được trẻ
người đối thoại phải hết sức kiên nhẫn, để trẻ tự tìm tòi và cử chỉ, nhìn chung là nên trẻ chủ
động giao tiếp.
Bảng xác định mức độ giao tiếp của trẻ
Dưới đây giới thiệu một bảng giúp xác định mức độ giao tiếp của trẻ, nhờ bảng này
ta có cơ sở để lựa chọn những cách kích thích giao tiếp tích cực nhằm giúp trẻ thể hiện
được bản thân và đồng thời để trẻ hiểu được đối tượng giao tiếp của mình:
Bảng : Bảng xác định mức độ giao tiếp của trẻ
Vô âm (không có âm thanh) Có âm (có âm thanh)
Mức độ phi biểu tượng
Phi ngôn ngữ
* Hành vi:
- Cử động của chân tay;
- Tư thế đầu và người
- Cách sử dụng không gian
- Nhìn
- Nét mặt
- Ăn mặc
- Cầm nắm, sờ đồ vật
* Hành vi:
- Khóc
- Cười
- Rên rỉ
- Thở dài
- Làu bàu
- Gào thét
- Càu nhàu

- 26 -
Mức độ tiền biểu tượng
Tiền ngôn ngữ
* Các đồ vật mẫu
* Các đồ vật thay thế
* Vị trí của các đồ vật
* Cử chỉ/ký hiệu
* Chỉ, cầm nắm, sờ đồ vật
* ảnh
* Hình vẽ
* Tranh biểu tượng
* Bắt chước các âm: mmm,
brr...
* Các âm có chức năng như
gây chú ý, biểu hiện sự
không thích
Mức độ biểu tượng
Ngôn ngữ
* Ngôn ngữ ký hiệu
- Chính thống, trừu tượng
- Đánh vần bằng ngón tay
- Tự nhiên
* Hình thức viết
- Bảng chữ cái
- Hệ thống tranh biểu tượng
* Nói
* Hát
2.2. Giao tiếp tổng thể với trẻ CPTTT
2.2.1. Khái niệm, ý nghĩa và chức năng của giao tiếp tổng thể
2.2.1.1. Khái niệm
Giao tiếp tổng thể (GTTT) là phương pháp giao tiếp trong đó người ta sử dụng một
cách có ý thức tất cả các cách thức và hình thức có thể sử dụng được để bày tỏ bản thân.
GTTT diễn ra dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ giao tiếp khác nhau.
Giao tiếp tổng thể chú ý tới khả năng của trẻ CPTTT chứ không phải khuyết tật của
trẻ. Mục tiêu quan trọng của giao tiếp tổng thể là tạo cơ hội gợi ý giao tiếp cho trẻ ở mọi
nơi mọi lúc, và điều này có thể thực hiện được bằng các công cụ giao tiếp bổ trợ hoặc thay
thế. Có nhiều công cụ có thể hỗ trợ trẻ chuyển tải thông tin và tham gia vào giao tiếp, việc
lựa chọn công cụ phụ thuộc vào khả năng của mỗi trẻ. Mục tiêu chính là có được giao tiếp
(nghĩa là hiểu người khác và làm cho người khác hiểu mình), còn giao tiếp như thế nào
không phải là điều quá quan trọng. Khi trẻ hiểu và biết rằng có thể giao tiếp theo nhiều
cách khác nhau thì rất có thể sẽ điều chỉnh giao tiếp của mình một cách có ý thức.
• Những lý do khiến trẻ CPTTT cần phát triển kỹ năng GTTH:
- Trẻ CPTTT thường hạn chế sử dụng ngôn ngữ nói và phi lời nói trong giao tiếp.
- Ngoài khó khăn về trí tuệ, một số trẻ CPTTT còn có những khó khăn khác như:
nghe, nhìn khiến cho việc thâu nhận và biểu đạt bản thân khó hơn. Vì thế, cần phát triển kỹ
năng GTTH ở trẻ càng sớm càng tốt.
• Các công cụ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng giao tiếp tổng hợp
- Đồ vật thực: liên hệ chính xác với tình huống hoặc hoạt động của trẻ.
- Mô hình
- Ảnh
- Hình vẽ
- Tranh biểu tượng: là hình vẽ được đơn giản hóa mức độ cao.
- Ngôn ngữ ký hiệu
- Kí hiệu
- Cử chỉ, điệu bộ
- Chuyển động cơ thể
- Nét mặt, ánh mắt.
• Làm thế nào để phát triển kỹ năng GTTH ở trẻ
- Cung cấp cho trẻ nhiều hình thức giao tiếp
- Tìm ra công cụ giao tiếp phù hợp với trẻ và tập trung hỗ trợ cho trẻ.
- Huy động mọi giác quan của trẻ tham gia vào hoạt động giao tiếp.
- Tạo cơ hội cho trẻ giao tiếp
- Khuyến khích trẻ sử dụng

- 27 -
- Học cách diễn đạt của trẻ và tích cực sử dụng chúng.
2.2.1.2. Ý nghĩa của giao tiếp tổng thể đối với trẻ chậm phát triển trí tuệ
Giao tiếp tổng thể tạo ra nhiều cách diễn đạt và huy động tất cả các giác quan. Sử
dụng giao tiếp tổng thể mang lại những thuận lợi nhất định trong giao tiếp với trẻ CPTTT.
Đặc biệt việc hình ảnh hoá thông tin và sử dụng ngôn ngữ ký hiệu có ý nghĩa hết sức quan
trọng.
2.2.1.2.1. Ý nghĩa của việc hình ảnh hoá thông tin
Hình ảnh hoá là một vấn đề hết sức quan trọng. Nếu trẻ được nhìn thấy những gì
mà người khác đang nói đến thì trẻ sẽ hiểu ngôn ngữ nói và nhớ được dễ dàng hơn.
Việc học các biểu tượng cũng sẽ trở nên dễ dàng hơn khi chúng được hình ảnh
hoá/trực quan hoá. Lời nói tồn tại trong vài giây và rất dễ bị quên lãng, trong khi một bức
tranh có thể lưu lại và luôn nhắc nhở đứa trẻ về việc đang xẩy ra. Các biểu tượng trực quan
thường có hình thức cố định hơn lời nói. Có thể làm cho các biểu tượng trực quan tồn tại
lâu hơn bằng cách tạo ra ký hiệu chậm hơn, nhưng làm như vậy với ngôn ngữ nói thì lời
nói sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Các biểu tượng trực quan thường cụ thể, ít trừu tượng hơn lời
nói. Một bức ảnh, một bức tranh về cái cốc hay một cái cốc cụ thể sẽ giúp trẻ dễ nhận ra và
liên hệ với cái cốc trong hiện thực, nhưng nếu ta nói từ “cốc”, trẻ CPTTT khó có thể liên
hệ trực tiếp với đồ vật là cái cốc. Biểu tượng càng dễ hiểu thì đứa trẻ càng dễ nắm được ý
nghĩa của biểu tượng và sẽ sử dụng biểu tượng đó.
2.2.1.2.2. Ý nghĩa của việc sử dụng ngôn ngữ ký hiệu
Sử dụng ngôn ngữ ký hiệu có thể kích thích trẻ giao tiếp, vì dùng các ký hiệu sẽ
làm giảm áp lực đối với việc nói. Nếu trẻ chưa phát triển khả năng nói, ngôn ngữ ký hiệu
mang lại cho trẻ cơ hội giao tiếp. Để tạo một ký hiệu, trẻ không cần có các kỹ năng vận
động chính xác như khi nói. Có thể giúp trẻ tạo các cử chỉ bằng cách cùng làm với trẻ, việc
này không thể làm được với ngôn ngữ nói. Nhìn chung khi trẻ sử dụng các hình thức diễn
đạt vô âm, chúng ta có thể hiểu được cách trẻ thể hiện bản thân qua quan sát.
2.2. 1.3.Chức năng của giao tiếp
Hỏi hoặc yêu cầu: Qua giao tiếp trẻ thể hiện em muốn có cái gì hoặc muốn người
nào đó tới với mình. Cũng qua giao tiếp trẻ thể hiện rằng em muốn một ai đó phải làm gì
cho mình, hoặc xin phép được lấy cái gì hay làm điều gì. Ví dụ trẻ chỉ vào đồ vật, có ý là
“ô tô”, “cháu muốn”; đẩy người chăm sóc đến gần đồ vật, ý là “giúp cháu”, sờ vào đồ vật,
nhìn đồ vật có ý như xin phép để được chơi.
Gây chú ý: Qua giao tiếp trẻ thể hiện rõ em muốn được ai đó để ý. Ví dụ trẻ vỗ vào
vai người chăm sóc và gọi “mẹ”
Từ chối: Trẻ từ chối một đồ vật mà người khác đưa cho, muốn ai đó đừng làm việc
gì, từ chối tuân theo một yêu cầu. Ví dụ: trẻ đầy bộ xếp hình hoặc quả bóng ra xa và nói
“không”, “thôi” đồng thời trẻ lắc đầu.
Đưa ra nhận xét, nhận định: Trẻ nói về các đặc tính của mình, của những người
khác hay của các đồ vật, những người hoặc những đồ vật này phải được người nghe nhận
biết và phải là một phần trong môi trường hoặc tình huống trực tiếp. Ví dụ giơ cao một đồ
vật cho mọi người thấy và nói “đây là áo của cháu”, hoặc trẻ nói “Cường đang chơi ô tô”
và chỉ vào một đứa trẻ đang chơi.
Đưa và hỏi thông tin: Đưa thông tin: trẻ trình bày rõ điều gì đó cho một người mà
trẻ chưa từng biết trước đó. Đây có thể là việc mô tả một hoạt động của bản thân trẻ hay
của người khác hoặc một sự kiện đã xẩy ra hoặc sẽ xẩy ra. Nó cũng có thể là câu trả lời cho
một câu hỏi trực tiếp. Ví dụ trẻ nói “hôm qua, Kim đi xe buýt”, khi thì hỏi “bút chì của
Kim đâu?”, đồng thời chỉ vào nơi để bút chì.
Hỏi thông tin: trẻ thể hiện rõ là mình muốn biết cái gì đó hoặc cần người nào đó. Ví
dụ trẻ hỏi “ô tô đâu?” “Kẹo đâu?” và nhìn vào đồ vật, rồi nhìn vào người chăm sóc để chờ
thông tin
Thể hiện tình cảm : Trẻ thể hiện rõ những tình cảm của mình, thể hiện rõ sự vui
mừng hay buồn hoặc các sở thích cá nhân. Ví dụ: trẻ cầm tay mẹ và nói “sợ quá”