
187
Chuyên đề 5:
QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐÔ THỊ
1. Khái quát chung về quản lý và bảo vệ môi trường đô thị
1.1. Đô thị và bảo vệ môi trường
1.1.1. Đô thị
Theo Luật Quy hoạch đô thị số 30/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17 tháng
6 năm 2009. Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ
yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị,
hành chính, kinh tế, văn hoá hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao
gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn.
Đô thị mới là đô thị dự kiến hình thành trong tương lai theo định hướng
quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia, được đầu tư xây dựng từng bước
đạt các tiêu chí của đô thị theo quy định của pháp luật.
Khu đô thị mới là một khu vực trong đô thị, được đầu tư xây dựng mới
đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và nhà ở.
Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ
thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo lập
môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông
qua đồ án quy hoạch đô thị.
1.1.2. Các vấn đề môi trường đô thị
Hệ thống đô thị Việt Nam thực sự là hạt nhân của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình này cũng đã có tác động không nhỏ tới môi
trường. Tài nguyên đất đô thị đang bị khai thác triệt để để xây dựng các công
trình, làm giảm diện tích cây xanh và mặt nước, gây ra úng ngập. Nhu cầu nước
phục vụ sinh hoạt, dịch vụ, sản xuất ở đô thị ngày càng tăng làm suy giảm nguồn
tài nguyên nước. Các vấn đề về cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, như hệ thống thoát
nước, thu gom và xử lý rác, xử lý nước thải, giảm ô nhiễm không khí và tiếng
ồn… chưa được chú ý đúng mức. Một số vấn đề môi trường bức xúc trong quá
trình đô thị hóa ở nước ta gồm:
* Gia tăng dân số đô thị và sự di dân từ nông thôn vào đô thị
Theo thống kê mới nhất của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), dân số nước ta
hiện đứng thứ 13 trên thế giới, xấp xỉ 87 triệu người. Dân số Việt Nam tiếp tục
tăng, với mức tăng hơn 1 triệu người/năm, tương đương với dân số của một tỉnh
trung bình. Dân số đô thị hiện là 27 triệu và đang tiếp tục tăng theo mức tăng
dân số cả nước. 5 tỉnh/thành phố có số dân đông nhất là thành phố Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An và Đồng Nai. Bắc Kạn là tỉnh có dân số thấp nhất
cả nước.

188
Tỷ lệ tăng dân số ở khu vực thành thị vẫn ở mức cao. Dân số ở thành thị
hiện chiếm 29,6% tổng dân số cả nước, tăng bình quân 3,4%/năm; trong khi tỷ
lệ tăng dân số ở khu vực nông thôn chỉ là 0,4%/năm. Theo dự báo của Bộ Xây
dựng, đến năm 2015, dân số đô thị cả nước khoảng 35 triệu người, chiếm 38%
dân số và năm 2025 khoảng 52 triệu người, chiếm 50% tổng dân số cả nước.
Sự quá tải dân số đô thị đang gây ra những hệ lụy không mong muốn trong
tất cả các lĩnh vực của cuộc sống: Ùn tắc giao thông, ô nhiễm không khí, tiếng
ồn, vi phạm trật tự xã hội, bệnh viện, trường học quá tải... biểu hiện rõ nhất là tại
thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Với hơn 7 triệu dân, gần 4 triệu xe máy, hơn
nửa triệu ô tô tại thành phố Hồ Chí Minh; Hà Nội cũng gần 7 triệu dân, hơn 3
triệu xe máy và gần nửa triệu xe hơi mà diện tích đất đô thị dành cho giao thông
chỉ vỏn vẹn 6%, trong khi yêu cầu cần tới 20 - 25%. Đồng nghĩa, hai thành phố
đông dân nhất cả nước đều rơi vào tình trạng quá tải (Bộ Giao thông vận tải -
2012).
Rất nhiều biện pháp hạn chế nhập cư vào các đô thị lớn đã được đưa ra,
trong đó đa phần là biện pháp hành chính. Tuy nhiên, các biện pháp hành chính
khắt khe nhằm hạn chế di dân tự do vào các thành phố lớn không những không
có hiệu quả mà còn phát sinh các hệ lụy khác như vấn đề giáo dục, an sinh xã
hội, mất trật tự an toàn xã hội, tội phạm, ô nhiễm môi trường...
* Vấn đề nhà ở đô thị
Trong những năm gần đây, nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề nhà ở, đầu
tư nhiều tỷ đồng cho xây dựng nhà ở mới tại các đô thị và khu công nghiệp. Tuy
nhiên, tình hình nhà ở đô thị vẫn khó khăn đối với người dân có thu nhập thấp.
Nếu không có những giải pháp hiệu quả thì sự tác động của nhà ở sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự phát triển đô thị nói
riêng. Một tồn tại khác trong vấn đề nhà ở đô thị là sự tồn tại của các khu nhà ở
không chính thức và một biến thái của nó là các “xóm liều”, “xóm bụi”. Điều
này dẫn đến môi trường trong các khu dân cư này bị ô nhiễm nghiêm trọng và
có thể coi đây là các khu nhà “ổ chuột” đô thị.
Hầu hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là
dân nghèo đô thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Thống kê của
UNFPA cho thấy, hiện 25% cư dân thành thị Việt Nam không đủ tiền để mua
nhà ở, 20% nhà ở thành thị bị xếp vào loại không đạt tiêu chuẩn, TP Hồ Chí
Minh còn có 300 ngàn người đang sống trong các nhà ổ chuột, 30% dân số Hà
Nội phải sống trong môi trường chật chội với diện tích ở không quá
3m2/người. (nguồn: Báo cáo tại hội thảo "Các vấn đề ven đô và đô thị hóa",
PGS-TS. Lưu Đức Hải, Viện trưởng Viện Quy hoạch đô thị nông thôn - 2011).
* Cây xanh đô thị
Cây xanh đang là vấn đề phải được quan tâm đúng mức trong quy hoạch đô
thị. Chỉ tiêu đất để trồng cây xanh trong các đô thị quá thấp, trung bình mới đạt
0,5m2/người. Một số di sản văn hóa, lịch sử và một số di tích, vùng cây xanh
bảo vệ môi trường đang bị vi phạm, tàn phá nặng nề. Hệ thống không gian xanh

189
hầu như chưa được chú ý và các cơ quan quản lý chưa hoạch định chính sách
đối với vấn đề này. Công viên để vui chơi, giải trí còn rất ít. Diện tích các công
viên chức năng cũng rất hạn hẹp, bị chiếm dụng cho những mục đích khác.
* Vấn đề nước sạch
Đối với các khu vực thành thị - nơi tập trung dân cư đông đúc và diễn ra
nhiều hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ… thì nhu cầu sử dụng nước nói
chung, nước sạch nói riêng càng gia tăng gấp nhiều lần so với các khu vực khác.
Trong khi nguồn nước sạch cung cấp chỉ có giới hạn dẫn đến tình trạng khan
hiếm nước sạch ở các khu vực đô thị càng trở nên nghiêm trọng.
Sự tập trung dân cư với số lượng và mật độ cao, cùng với các hoạt động
sản xuất và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ cũng đồng nghĩa với việc nguồn chất thải
đổ vào môi trường tại các đô thị ngày càng lớn. Nguồn chất thải này đã làm ô
nhiễm môi trường, nhất là môi trường nước và gây hậu quả cho chính con
người. Không chỉ nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm, tỷ lệ người được sử
dụng nước sạch còn thấp, mà dân cư đô thị còn đứng trước nguy cơ bị lây truyền
nhiều bệnh hiểm nghèo do nguồn nước bị ô nhiễm.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (2013), 80% các bệnh tật của con người có liên
quan đến nước và vệ sinh môi trường, 50% số bệnh nhân trên thế giới phải nhập
viện và 25.000 người chết hàng ngày do các bệnh này.
Tại một số nước Châu Á, có tới 60% bệnh nhiễm trùng và 40% dẫn tới tử
vong là do dùng nước sinh hoạt không hợp vệ sinh.
Ở Việt Nam, ô nhiễm nguồn nước là nguyên nhân gây nhiều bệnh như tiêu
chảy (do vi rút, vi khuẩn, vi sinh vật đơn bào), lỵ trực trùng, tả, thương hàn,
viêm gan A, giun sán,… nhiều trường hợp dẫn đến tử vong. Có đến 88% trường
hợp bệnh tiêu chảy là do thiếu nước sạch.
Tại các lưu vực sông, suối, ao, hồ, bên cạnh nguồn nước thải do dân cư
sinh hoạt đổ ra hàng ngày, thì nước thải từ các cơ sở sản xuất, các khu công
nghiệp… thải ra đã vượt quá giới hạn cho phép mà các sông, hồ có thể chứa
đựng được. Hơn nữa, chất thải chưa qua xử lý hoặc công nghệ xử lý kém đã làm
tăng nguy cơ cao cho sự ô nhiễm nguồn nước. Các lưu vực sông lớn như sông
Nhuệ - Đáy, hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai và sông Cầu cho thấy hiện nay
có khoảng 300 nguồn thải hàng ngày đổ ra 3 lưu vực sông nói trên với tổng
lượng nước thải ước tính khoảng 712.532,48 m3/ngày.
Theo kết quả kiểm tra của Bộ Y tế (2013), lấy mẫu nước sinh hoạt tại Hà
Nội, TPHCM và một số địa phương ở Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả đã
phát hiện 20 - 25% số nhà máy nước không đạt yêu cầu vệ sinh. 20% không đạt
chỉ tiêu lý hóa, 10 - 15% không đạt yêu cầu tiêu chuẩn vi sinh. Hàm lượng clo
dư không đảm bảo... Trong khi đó, đã có 2 ổ dịch tiêu chảy cấp do E.Coli vừa
xuất hiện tại TPHCM và nguy cơ này đe dọa có thể bùng phát bất cứ lúc nào tại
các đô thị lớn...

190
Vấn đề nước sạch và ô nhiễm nguồn nước đang thực sự trở nên nghiêm
trọng và đáng lo ngại, bởi hàng ngày chúng ta vẫn nhận được các thông tin từ
báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng về sự hình thành ngày càng
nhiều các “dòng sông đen”, “dòng sông chết”, các “làng ung thư”, về các dòng
sông biến thành các “cống nước thải khổng lồ” giữa lòng thành phố, một bộ
phận dân cư “sống giữa thành phố uống nước gần nghĩa địa” v.v...
* Các vấn đề về chất thải rắn sinh hoạt
Một trong những vấn đề môi trường bức xúc nhất đang nổi lên ở khu vực
đô thị nước ta hiện nay là chất thải rắn sinh hoạt.
Vấn đề thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt là vấn đề môi trường đang
nổi lên, gây bức xúc cho các cộng đồng dân cả cư khu vực nông thôn và là vấn
đề gay gắt và nan giải đối với các cộng đồng dân cư khu vực đô thị. Do đặc
điểm khu vực đô thị là nơi tập trung dân cư đông đúc, hoạt động sản xuất công
nghiệp và dịch vụ diễn ra mạnh mẽ với cường độ ngày càng tăng, đồng nghĩa
với việc nguồn rác thải sẽ lớn hơn, xử lý phức tạp hơn rất nhiều.
Việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt ở các đô thị lớn của Việt Nam hiện
nay chủ yếu do các công ty TNHH một thành viên hoặc do các công ty cổ phần
môi trường đảm nhiệm. Tỷ lệ thu gom trung bình
ở
các đô thị
từ
72% năm 2004
tăng lên khoảng 80 - 82% năm 2008 và đạt
khoảng
83 - 85% cho năm 2010. Mặc
dù tỷ lệ thu gom có tăng nhưng vẫn còn
khoảng
15 ÷ 17% chất thải rắn
đô thị bị
thải ra môi
trường
vứt vào bãi đất, hố đất, ao hồ, hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm
môi trường.
Ở các đô thị nhỏ (thị trấn, thị tứ) dịch vụ thu gom và vận chuyển chất thải
rắn phát sinh trên địa bàn do các tổ, đội, hợp tác xã hoặc công ty tư nhân về vệ
sinh môi trường thực hiện. Năng lực thu gom chất thải rắn ở các đô thị nhỏ và
vừa chỉ vào khoảng 20-30%. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn đô thị còn thấp là bởi
một phần năng lực hoạt động của các tổ chức thực hiện dịch vụ môi trường còn
yếu và thiếu, phương tiện thu gom và vận chuyển còn thô sơ, nguồn tài chính
huy động được để thực hiện dịch vụ này còn rất hạn chế, đặc biệt là sự quan tâm
của cộng đồng chưa nhiều.
Nhìn chung, việc xử lý chất thải ở hầu hết các đô thị, nhất là các đô thị vừa
và nhỏ chưa đảm bảo yêu cầu, tạo nên sức ép và thách thức ngày càng lớn đối
với công tác bảo vệ môi trường. Thực trạng gần như toàn bộ chất thải thu gom
được đều mang đi chôn lấp không chỉ làm tăng gánh nặng cho việc tìm kiếm đất
làm bãi chôn lấp, làm tăng các nguy cơ, hiểm họa đối với môi trường và sức
khỏe cộng đồng dân cư xung quanh mà còn làm lãng phí một nguồn tài nguyên
có thể thu hồi cho tái chế và sản xuất.
Trước thực trạng đó, nhu cầu về xã hội hóa bảo vệ môi trường đặt ra ngày
càng cấp thiết; dịch vụ thu gom, xử lý chất thải rắn đã xuất hiện và ngày càng có
nhiều đóng góp thiết thực cho công tác quản lý chất thải rắn đô thị. Mô hình
cung cấp dịch vụ thu gom, xử lý chất thải rắn đô thị cũng ngày càng đa dạng.
1.1.3. Các tiêu chí đánh giá môi trường đô thị

191
Trong quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa hiện nay, việc bảo vệ môi trường là
trách nhiệm của toàn dân. Để bảo vệ môi trường cần đặt ra các quy định, tiêu chí
nhằm đạt được mục đích hướng đến chất lượng môi trường tốt hơn, trong sạch
hơn. Theo tác giả Đỗ Nam Thắng (Tổng cục Môi trường) các đô thị ở Việt Nam
hiện nay cần hướng đến các tiêu chí về: nước, chất lượng không khí xung quanh,
chất thải rắn,…
* Đối với tiêu chí về nước
Các chỉ tiêu trong nhóm tiêu chí về nước bao gồm:
- Tỷ lệ dân số được tiếp cận với nước sạch.
- Tỷ lệ thất thoát nước.
- Lượng nước cấp trên đầu người so với tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Xây
dựng.
- Tỷ lệ lượng nước thải sinh hoạt được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn hoặc
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.
- Chính sách về bảo tồn, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước.
- Chính sách về cải thiện chất lượng môi trường nước.
* Đối với tiêu chí về không khí
Các chỉ tiêu trong nhóm tiêu chí về không khí bao gồm:
- Tần suất quan trắc ô nhiễm không khí mỗi năm.
- Số lượng các chất ô nhiễm được quan trắc.
- Nồng độ chất ô nhiễm PM10 trung bình đạt tiêu chuẩn.
- Chính sách về quản lý chất lượng môi trường không khí.
* Đối với tiêu chí về chất thải rắn
Các chỉ tiêu trong nhóm tiêu chí về chất thải rắn gồm:
- Tỷ lệ % chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý.
- Tỷ lệ % chất thải rắn y tế nguy hại được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn
môi trường.
- Tỷ lệ % chất thải rắn được tái chế, tái sử dụng.
- Chính sách về thu gom, xử lý rác thải.
* Đối với tiêu chí về không gian xanh
Các chỉ tiêu trong nhóm tiêu chí về không gian xanh gồm:
- Chỉ tiêu diện tích đất cây xanh công cộng bình quân đầu người.
- Tỷ lệ % đất cây xanh đô thị trên tổng diện tích đất đô thị.
- Chính sách về phát triển không gian xanh.
* Đối với tiêu chí về sử dụng năng lượng hiệu quả, năng lượng mới và tái tạo

